✨Kinh Thư

Kinh Thư

Kinh Thư (書經 Shū Jīng) hay còn gọi là Thượng Thư (尚書) là một bộ phận trong bộ sách Ngũ Kinh của Trung Quốc, ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.

Nội dung Kinh Thư chủ yếu là ghi chép lại lời nói của vua tôi thời thượng cổ (Nghiêu, Thuấn) cho đến thời nhà Hạ, nhà Thương và thời Tây Chu. Từ khi Hán Vũ Đế bắt đầu đặt chức Ngũ kinh bác sĩ, địa vị của Kinh Thư không hề thay đổi. Quá trình biên soạn, chỉnh lý và lưu truyền của Kinh Thư cực kỳ phức tạp, trong lịch sử xuất hiện quá nhiều văn bản có bố cục, nội dung và thể chữ khác nhau, một bộ phận được các học giả trong triều đình tổ chức chỉnh lý, hiệu đính và ban hành thành bản chính thức. Văn bản Kinh Thư ngày nay chủ yếu xuất hiện vào thời Đông Tấn, nguồn gốc của nội dung một số thiên trong văn bản này bắt đầu bị nghi ngờ từ thời Nam Tống. Đến đầu thời nhà Thanh, một số thiên trong Kinh Thư bị các học giả như Diêm Nhược Cừ xác định là giả (ngụy thư), thậm chí bị loại bỏ ra khỏi Kinh Thư.

Tên gọi

Kinh Thư có tên đầy đủ là Thượng Thư (尚書), tức là sách ghi chép các tư liệu từ thời Thượng cổ. Trong Thượng Thư tự, Khổng Dĩnh Đạt nói: "Thượng" (尚) tức là "thượng" (上), là sách kể từ thời thượng cổ đến nay, nên được gọi là "Thượng Thư" (尚書)". Trong Thượng Thư chính nghĩa, Mã Dung nói: "Thời thượng cổ có sách của họ Ngu, nên gọi là Thượng Thư".

Ban đầu Thượng Thư được gọi tắt là Thư (書), sớm nhất là trong sách Mặc Tử, thiên Minh quỷ hạ: "Trên nhất là Hạ thư, rồi đến Thương, Chu thư". Thượng Thư còn có nghĩa là sử thời Thượng cổ, như Vương Sung nói trong sách Luận hành, thiên Chính thuyết: "Thượng Thư là sách nói về đế vương thời Thượng cổ, hoặc là bề trên làm việc gì thì bề dưới ghi chép lại, cho nên gọi là Thượng Thư". Hán thư, Nghệ văn chí nói: "Tả sử ghi chép lời nói, hữu sử ghi chép sự việc". Thượng Thư cũng được xem là tả sử vì ghi chép các lời nói hoặc mệnh lệnh. Trong thực tế, Thượng Thư không chỉ ghi chép lời nói mà còn ghi chép cả sự thật lịch sử.

Sách Vĩ thư nói rằng ngày xưa Thượng Thư bao gồm 3240 thiên, về sau Khổng Tử san định còn 120 thiên. Theo Hán thư, Nghệ văn chí thì Khổng Tử san định Thượng Thư còn 100 thiên. Tranh chấp giữa Kim văn họcCổ văn học còn kéo dài đến cuối thời Thanh.

Kim văn Thượng Thư

nhỏ|phải|"[[Phục Sinh (học giả)|Phục Sinh thụ kinh đồ" của Vương Duy]] Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Nho lâm liệt truyện, Phục Sinh tên là Thắng, làm quan bác sĩ đời Tần. Tần Thủy Hoàng ra lệnh đốt sách chôn nho, Phục Sinh phải giấu sách Thượng Thư ở trong vách. Sang đời Hán, Phục Sinh tìm lại sách Thượng Thư nhưng mất đi vài chục thiên, chỉ còn lại 29 thiên, liền đem dạy ở Tề, Lỗ. Vua Hán Văn Đế hạ chiếu tìm người hiểu được sách Thượng Thư, chỉ có Phục Sinh hiểu được nên được vời vào triều. Nhưng do ông già quá (đã hơn 90 tuổi) không đi được nên Hán Văn Đế sai Tiều Thố đến nhà Phục Sinh để học sách Thượng Thư.

Theo lời tựa sách Cổ văn Thượng Thư của Vệ Hoằng, thì khi Tiều Thố đến nhà Phục Sinh, Phục Sinh già nói không được đúng tiếng, phải sai con gái mình dạy Tiều Thố. Vì tiếng nói khác nhau nên nhiều chỗ Tiều Thố không hiểu được, chỉ hiểu lược lấy ý rồi học thuộc lòng.

Bản Kinh Thư của Phục Sinh được viết bằng kim văn, nên gọi là Kim văn Thượng Thư.

Phục Sinh truyền lại lời giải thích Kinh Thư của mình cho Âu Dương Sinh (Âu Dương Hòa Bá) và Trương Sinh, Trương Sinh truyền lại cho Âu Dương Cao, Hạ Hầu Thắng (Đại Hạ Hầu) và Hạ Hầu Kiến (Tiểu Hạ Hầu), nên Kim văn Thượng Thư được truyền lại cho ba nhà. Hán Vũ Đế đặt chức Ngũ kinh bác sĩ, phong họ Âu Dương làm học quan. Đến thời Hán Tuyên Đế, sau sự kiện Thạch Cừ nghị tấu, cả ba nhà đều được phong làm học quan.

14 quan bác sĩ thời Đông Hán đều thuộc ba nhà là họ Âu Dương, Đại Hạ Hầu và Tiểu Hạ Hầu, nhưng bản Kim văn Thượng Thư của ba nhà nay đều đã thất truyền, ngày nay chỉ có thể căn cứ vào phần tàn khuyết của kinh văn khắc trên đá trong niên hiệu Hy Bình đời Hán Linh Đế để suy đoán diện mạo bản Kim văn Thượng Thư của họ Âu Dương.

Cổ văn Thượng Thư

Theo Hán thư, Nghệ văn chí, cuối thời Hán Vũ Đế, Lỗ Cung Vương sai người phá nhà cũ của Khổng Tử ở Khúc Phụ (Sơn Đông) để mở rộng cung thất, phát hiện một bản Kinh Thư được viết bằng chữ khoa đẩu, cùng với Lễ ký, Luận ngữ, Hiếu kinh khoảng vài chục thiên. Khi Lỗ Cung Vương vào nhà Khổng Tử thì nghe thấy tiếng đàn cầm đàn sắt và chuông khánh nên sợ không dám phá nữa. Khổng An Quốc là hậu duệ Khổng Tử được sách này, khảo cứu được 29 thiên. Hán Vũ Đế sai Khổng An Quốc soạn Thư truyện. Bản này được gọi là Cổ văn Thượng Thư, về sau thất truyền.

So với bản Kim văn của Phục Sinh thì bản Cổ văn của Khổng An Quốc có thêm 16 thiên, lời văn khác nhau hơn 700 chỗ, là văn bản vô cùng quý giá thời Tiên Tần. Thời Hán Vũ Đế, hậu duệ hoặc học sinh của Khổng An Quốc dâng bản Cổ văn Thượng Thư này cho triều đình, Lưu Hướng gọi bản này là Trung cổ văn. Sử ký, Nho lâm liệt truyện nói rằng họ Khổng có một bản Cổ văn Thượng Thư, Khổng An Quốc dùng kim văn để đọc nó, tìm thấy các thiên đã mất (dật thiên) được hơn 10 thiên.

Đến thời nhà Thanh, các học giả như Diêm Nhược Cừ và Huệ Đống khảo cứu rằng bản Cổ văn Thượng Thư này là giả, không phải là nguyên bản của Khổng An Quốc, Diêm Nhược Cừ cho rằng trong 16 chữ ấy thì 12 chữ đầu được lấy từ Đạo kinh do Tuân Tử dẫn lại, 4 chữ sau được lấy từ Luận ngữ. Người cùng thời là Mao Kỳ Linh biên soạn Cổ văn Thượng Thư oan từ phản bác lại quan điểm của Diêm Nhược Cừ, cho rằng: "Dùng trăm kế để bài bác, cuối cùng cũng không thể lấy lời nói càn mà giành được chân lý". Tuy vậy quan điểm của Diêm Nhược Cừ được đại đa số học giả chấp nhận, vì vậy ngày nay bản Kinh Thư này được gọi là Ngụy Khổng truyện Thượng Thư hoặc Ngụy Cổ văn Thượng Thư. Nhưng suy cho cùng bản này có phải là ngụy thư hay không, nếu là ngụy thư thì tác giả là ai, cho đến nay vẫn chưa rõ. Hiện nay một số bản Thượng Thư đã loại bỏ 25 thiên trong Ngụy Khổng truyện Thượng Thư, chỉ giữ lại 33 thiên tương ứng với 29 thiên trong Kim văn Thượng Thư.

Bản Kinh Thư mới phát hiện

Tháng 7 năm 2008, Trường Đại học Thanh Hoa có được một bản sách viết trên thẻ tre từ thời Chiến Quốc, do cựu sinh viên Triệu Vĩ Quốc mua được ở nước ngoài trao tặng, qua giám định của các chuyên gia, thì bản Thẻ tre Thanh Hoa này có niên đại vào cuối thời Chiến Quốc, cách đây khoảng 2300-2400 năm, có xuất xứ từ nước Sở. Trong bản thẻ tre này phát hiện được nhiều thiên trong Kinh Thư, là văn bản có trước thời kỳ đốt sách chôn nho của nhà Tần. Có một số thiên đã được lưu truyền như Kim đằng, Khang cáo, Cố mệnh..., nhưng lời văn có nhiều chỗ khác nhau, thậm chí tên các thiên cũng không giống nhau, ngoài ra còn có nhiều thiên trước nay chưa hề thấy. Ví dụ như một thiên có tên là Phó Duyệt chi mệnh, tức là thiên Duyệt mệnh mà các văn bản thời Tiên Tần trích dẫn, so với bản ngụy Cổ văn đang được lưu truyền hoàn toàn không giống nhau.

Cho đến nay một phần ba nội dung của bản thẻ tre Thanh Hoa này đã được duyệt xét sơ bộ, có 2 nội dung đã được công bố, đó là thiên Bảo huấn và nhạc thi thời Chu Vũ Vương. Thiên Bảo huấn vốn không có tiêu đề mà do các chuyên gia căn cứ vào nội dung để đặt tên, nội dung là di ngôn của Chu Văn Vương lúc lâm chung nói với con trai mình là Cơ Phát (tức Chu Vũ Vương). Nhạc thi được Chu Vũ Vương dùng khi cử hành lễ Ẩm chí trong nhà tông miếu của Chu Văn Vương, là thơ ca dùng trong yến ẩm, có thể là nguyên văn của Kinh Nhạc đã bị thất truyền.

Đến cuối năm 2010 xuất bản công trình Đại học Thanh Hoa lưu trữ thẻ tre thời Chiến Quốc (1), (ISBN 9787547501788), bao gồm 9 thiên tác phẩm được viết bằng văn tự nước Sở thời Chiến Quốc: Doãn chí, Doãn cáo, Trình ngụ, Bảo huấn, Kỳ dạ, Kim đằng, Hoàng môn, Tế côngSở cư. Trong đó 8 thiên đầu đều thuộc Kinh Thư hoặc có đặc điểm giống các thiên trong Kinh Thư.

Ngày 7 tháng 1 năm 2013, xuất bản tiếp công trình Đại học Thanh Hoa lưu trữ thẻ tre thời Chiến Quốc (3), bao gồm 8 thiên tác phẩm từng thất truyền cách đây hơn 2000 năm: 3 thiên Phó Duyệt chi mệnh, các thiên Chu Công chi cầm vũ, Nhuế Lương Phu bí, Lương thần, Chúc từXích Hộc chi tập Thang chi ốc, trong đó 3 thiên Phó Duyệt chi mệnh tương ứng với 3 thiên Duyệt mệnh trong Kinh Thư.

Ngày 9 tháng 4 năm 2015, công bố tiếp công trình Đại học Thanh Hoa lưu trữ thẻ tre thời Chiến Quốc (5) bao gồm 6 thiên tác phẩm: Mệnh huấn, Hậu Phụ, Phong Hứa chi mệnh, Thang xử ư Thang Khâu, Thang tại Thí Môn, Ân Cao Tông vấn ư Tam Thọ; trong đó ba thiên đầu là những thiên thuộc Kinh Thư: trừ thiên Mệnh huấn đã thấy trong Dật Chu thư, hai thiên Hậu PhụPhong Hứa chi mệnh mới được phát hiện. Trong đó thiên Hậu Phụ ghi chép lời đối thoại giữa thiên tử nhà Chu với hậu duệ nhà Hạ.

Bố cục

Bản Kinh Thư hiện hành được chia làm 4 phần: Ngu thư (ghi chép về đời Nghiêu Thuấn), Hạ thư (ghi chép về nhà Hạ), Thương thư (ghi chép về nhà Thương) và Chu thư (ghi chép về nhà Chu, đến thời Tần Mục công). Bản Kim văn thời Tây Hán chia làm 5 phần: Đường thư, Ngu thư, Hạ thư, Thương thưChu thư. Bản Cổ văn thời Đông Hán chia làm 3 phần: Ngu Hạ thư, Thương thưChu thư.

Tiêu đề một số thiên dùng chữ khác nhau, chủ yếu là do giả tá, tuy nhiên có trường hợp dùng sai chữ. Ví dụ như thiên thứ 57 trong bản hiện hành có tên là Phí thệ (費誓), thiên thứ 31 trong bản thời Đông Hán có tên là Bí thệ (粊誓), thiên thứ 28 trong bản thời Tây Hán có tên là Tiên thệ (鮮誓), hai chữ Tiên (鮮) và (粊) có thể dùng thay cho nhau, hơn nữa còn cùng một địa danh, trong khi chữ Phí (費) không cùng địa danh, hai địa điểm này tuy gần nhau nhưng không phải là một, vì vậy tên của thiên này không nên viết thành Phí (費).

Nội dung

Nội dung chủ yếu của Kinh Thư là ghi chép lịch sử Trung Quốc thời thượng cổ, bắt đầu từ thời Nghiêu, Thuấn và kết thúc vào thời Tần Mục công, bao gồm ba triều đại Hạ, Thương, Chu. Nhượng Tống đánh giá Kinh Thư "là một cuốn sử cổ nhất nước Tàu, mà có lẽ cổ nhất cả thế gian"

Điển (典): chế độ kiến thiết của đời Đào Đường và Hữu Ngu. Bao gồm 2 thiên Nghiêu điểnThuấn điển.

(謨): lời điều trần của quan đời Hữu Ngu. Bao gồm 2 thiên Đại Vũ môCao Dao mô.

Huấn (訓): lời khuyên bảo. Bao gồm thiên Y huấn là lời khuyên bảo của Y Doãn đối với Thái Giáp.

Cáo (誥): lời răn bảo hoặc bố cáo ra khắp thiên hạ. Bao gồm 8 thiên, như thiên Đại cáo là lời bố cáo của Chu Công sau khi dẹp loạn "Tam giám" và tiêu diệt Vũ Canh.

Thệ (誓): lời thề, khi dụng binh tức là bài hịch. Bao gồm 6 thiên, như thiên Tần thệ ghi lại lời thề của Tần Mục công.

Mệnh (命): lời sắc mệnh của người trên ban khắp thiên hạ. Bao gồm 7 thiên như các thiên Duyệt mệnh, Vi Tử chi mệnh.

Các thiên trong Kinh Thư đều có nghĩa lý cổ xưa thâm thúy, khó đọc khó hiểu, trong đó thể cáo đặc biệt trúc trắc khó hiểu, mỗi lời mỗi chữ đều có nhiều cách giải thích khác nhau, Hán thư, Nho lâm truyện nói rằng: "Một bộ kinh có đến hơn trăm vạn lời giải thích", ví dụ như bốn chữ "viết nhược kê cổ" (曰若稽古) có rất nhiều cách giải thích khác nhau, lên tới 3 vạn chữ, như Trịnh Huyền giải thích là: "Kê cổ nghĩa là theo đạo trời, nói phép tắc của vua Nghiêu giống như đạo trời", Vương Túc giải thích là: "Khảo cứu phép cũ mà làm theo". Vì vậy Hàn Dũ trong Tiến học giải nói các thiên Chu cáo, Ân Bàn trúc trắc khó hiểu. Khi Tư Mã Thiên viết Sử ký cũng đã dịch một đoạn Kinh Thư để đưa vào tác phẩm của mình, như trong thiên Nghiêu điển của Kinh Thư có câu "khâm nhược hạo thiên" (欽若昊天), trong Sử ký, Ngũ đế bản kỷ được viết thành "kính thuận hạo thiên" (敬順昊天). Dương Hùng trong Pháp ngôn, thiên Vấn thần nói rằng: "Theo thuyết xưa Kinh Thư có khoảng 100 thiên [...] Ngu Hạ thư rộng lớn thay, Thương thư mênh mông thay, Chu thư chính trực thay". Vương Quốc Duy cho rằng gần một nửa Kinh Thư không thể giải thích được.

Ngu thư ghi chép lịch sử cổ đại của Trung Quốc thời Nghiêu, Thuấn. Cố Viêm Vũ trong Nhật tri lục, quyển 2 nói: "Nghi rằng thời cổ có Nghiêu điển không có Thuấn điển, có Hạ thư không có Ngu thư, mà Nghiêu điển cũng nằm trong Hạ thư". Nhật tri lục tập thích dẫn lời Tôn thị Chí Tổ nói rằng: "Xét trong Tả truyện, Văn công năm thứ 18 có nói rõ về Ngu thư, kể công lao của vua Thuấn là làm sáng rõ ngũ điển..., vậy sao lại nói chỉ có Hạ thư không có Ngu thư? Thiết nghĩ người xưa lấy hai điển (Nghiêu điển, Thuấn điển) làm Ngu thư, từ Đại Vũ mô trở xuống làm Hạ thư". Thiên Vũ cống trong Hạ thư ghi chép địa lý Trung Quốc sau khi vua Vũ trị thủy thành công, số người nghiên cứu thiên này rất nhiều, thiên Cam thệ xuất hiện trong sách Mặc Tử thời Chiến Quốc, Ngu thư cũng xuất hiện trong Tả truyện. Chu thư ghi lại các tư liệu quan trọng của nhà Chu trong những năm đầu lập quốc, phần nhiều là những ghi chép của chính bản thân Chu Công.

Mạnh Tử từng nói thiên Vũ thành trong Kinh Thư không thể tin hết được: "Trọn tin Kinh Thư chẳng bằng không có Kinh Thư. Trong thiên Vũ thành ta chỉ tin được hai ba đoạn mà thôi. Người có nhân thì vô địch trong thiên hạ. Lấy chí nhân đánh chí bất nhân, tại sao máu lại chảy đến mức trôi cả chày?".

Có rất nhiều tác phẩm nghiên cứu, chú thích Kinh Thư, như Thượng Thư khảo dị của Mai Trạc, Thượng Thư Cổ văn sớ chứng của Diêm Nhược Cừ, Cổ văn Thượng Thư khảo của Huệ Đống đều là những tác phẩm được lưu truyền đến ngày nay. Học giả đời Thanh là Tôn Tinh Diễn mất hơn 20 năm để hoàn thành tác phẩm Thượng Thư Kim Cổ văn chú sớ, là bản chú thích Kinh Thư khá tốt, Tôn Tinh Diễn còn cho rằng "chắc chắn còn nhiều chỗ thiếu sót sai lầm". Gần đây có Thượng Thư chính độc của Tăng Vận Càn và Đồng văn Thượng Thư của Mưu Đình cũng là những bản tốt. Tác phẩm Thượng Thư hiệu thích dịch luận của Cố Hiệt Cương và học trò của ông là Lưu Khởi Vu là một tập đại thành nghiên cứu về Kinh Thư.

Khái niệm chủ yếu

"Dân duy bang bản" (Dân là gốc của nước) - Kinh Thư, thiên Ngũ tử chi ca (五子之歌) viết: Dân duy bang bản, bản cố bang ninh (民惟邦本,本固邦寧), nghĩa là "Dân là gốc của nước, gốc vững thì nước yên".

"Vương đạo lạc thổ" (Đường vua, đất vui) - Kinh Thư, thiên Hồng phạm (洪範) viết: Vô hữu tác hảo, tuân vương chi đạo (無有作好、遵王之道), nghĩa là "Yêu chớ theo cách thiên vị, hãy theo đạo Vương".

"Quy mã phóng ngưu" (Trả ngựa, thả bò) - Trong Kinh Thư, thiên Vũ thành (武成), sau khi Vũ Vương (nhà Chu) đã trả thù đối Trụ Vương (nhà Thương), có viết: Quy mã ư Hoa Sơn chi dương, phóng ngưu ư Đào Lâm chi dã (歸馬于華山之陽、放牛于桃林之野), nghĩa là "Trả ngựa ở hướng nam của núi Hoa Sơn và thả con bò ở đồng của rừng Đào Lâm", tức là chiến tranh đã được kết thúc rồi.

Bản dịch tiếng Việt

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, tháng 4 năm 1395 Hồ Quý Ly dịch thiên Vô dật trong Kinh Thư ra chữ Nôm để dạy Trần Thuận Tông. Tác phẩm diễn Nôm toàn bộ Kinh Thư hiện còn là Thư kinh đại toàn toàn tiết yếu diễn nghĩa (書經大全節要演義), bản viết tay ký hiệu AB. 145/1-5, 382 trang, lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Ngoài ra còn có Thư kinh diễn nghĩa (書經演義) của Lê Quý Đôn viết bằng chữ Hán năm 1772, bản viết tay ký hiệu A.1251, 184 trang, dẫn giải và chú thích từng thiên, từng đoạn và từng câu văn trong Kinh ThưThư kinh tiết yếu (書經節要) cũng viết bằng chữ Hán của Bùi Huy Bích, bản viết tay ký hiệu VHv.4/1-4, 704 trang, tóm lược nội dung Kinh Thư, có chú thích và bình luận.

Các bản Kinh Thư dịch ra chữ quốc ngữ là:

  • Thượng Thư, bản dịch của Nhượng Tống (1940), Nhà xuất bản Tân Việt xuất bản năm 1963, Nhà xuất bản Văn học tái bản năm 2001
  • Kinh Thư, bản dịch của Thẩm Quỳnh, Trung tâm Học liệu xuất bản tại Sài Gòn năm 1968, in lần thứ hai năm 1973
  • Kinh Thư, bản dịch của Trần Lê Sáng và Phạm Kỳ Nam, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin năm 2004
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kinh Thú Nhận** (hoặc **Kinh Cáo Mình**, Latinh: **Confiteor**) là một bài kinh được dùng trong Nghi lễ Rôma và một số trường hợp khác, được linh mục cùng với giáo dân đọc vào trước
**Kinh Thư** (書經 _Shū Jīng_) hay còn gọi là **Thượng Thư** (尚書) là một bộ phận trong bộ sách Ngũ Kinh của Trung Quốc, ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua
Giới Thiệu Kinh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một trong những bộ kinh quan trọng nhất trình bày về giáo lý viên đốn của Đại thừa, khó có thể kể hết các
**_Trang Tử_**, hay còn được biết đến rộng rãi hơn trong tiếng Việt với tên gọi **_Nam Hoa kinh_**, là một tác phẩm triết học, văn học Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc (476–221 TCN)
**Đại tạng kinh** (, _Dàzàngjīng_; , _Daejanggyeong_; , _Daizōkyō_), còn được gọi tắt là **Tạng kinh** (藏經) hay **Nhất thiết kinh** (一切經), là danh xưng dùng để chỉ các tổng tập Kinh điển Phật giáo
**Kinh** (經 - đường dọc, sợi thẳng) là đường chính đi thông mọi chỗ. **Lạc** (絡 - đan lưới, mạng) là những nhánh phân ra từ Kinh. Kinh Lạc làm thành một mạng lưới nối
thumb|right|Bản đồ Xuân Thu thế kỷ thứ 5 trước công nguyên **Xuân Thu** (chữ Trung Quốc: 春秋时代; Hán Việt: _Xuân Thu thời đại_, bính âm: _Chūnqiū Shídài_) là một giai đoạn lịch sử từ 771
**Sân bay quốc tế Thủ Đô Bắc Kinh** (; tiếng Anh: _Beijing Capital International Airport_; Hán-Việt: _Bắc Kinh Thủ đô Quốc tế Cơ trường_) là sân bay quốc tế phục vụ thủ đô Bắc Kinh.
**Đại Phật đỉnh thủ-lăng-nghiêm kinh** (sa. _Śūraṃgama-samādhi-sūtra_; zh. 大佛頂首楞嚴經 Đại Phật đỉnh thủ-lăng-nghiêm kinh), hoặc **Lăng-nghiêm kinh** (楞嚴經), hay còn được gọi là **Trung Ấn Độ Na-lan-đà Đại Đạo tràng Kinh** (中印度那爛陀大道場經), đã được tất
**Động kinh** là một chứng bệnh hệ thần kinh do xáo trộn lặp đi lặp lại của một số nơron trong vỏ não tạo nhiều triệu chứng rối loạn hệ thần kinh (các cơn động
Dịch học nhập môn - Thu Giang Nguyễn Duy Cần Bộ kinh Chu Dịch tính đến nay theo ước lượng đã có hơn 4500 năm tồn tại và phát triển. Chỉ tính riêng loại sách
**Thần kinh học động vật** (_Neuroethology_) là phương pháp tiếp cận so sánh và tiến hóa để nghiên cứu hành vi của động vật cùng sự kiểm soát cơ học cơ bản của nó từ
nhỏ|ung thư vú giai đoạn 1A **Ung thư vú** là loại ung thư thường gặp nhất và gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ nhiều nước công nghiệp. Theo Cơ quan Nghiên cứu Ung
nhỏ|phải|Một lăng kính phân tam giác đang tán sắc **Lăng kính** là một dụng cụ quang học, sử dụng để khúc xạ, phản xạ và tán xạ ánh sáng sang các màu quang phổ (như
**Kính hiển vi điện tử quét** (tiếng Anh: **_scanning electron microscope_**, thường viết tắt là _SEM_), là một loại kính hiển vi điện tử có thể tạo ra ảnh với độ phân giải cao của
Kinh Dịch Đạo Của Người Quân Tử Kinh Dịch là một trong ba bộ kinh cổ nhất của Trung Hoa, sau kinh Thi và kinh Thư. Ban đầu, Kinh Dịch được dùng để bói toán,
**Thần kinh hạ thiệt** là thần kinh thứ 12 trong tổng số 12 đôi dây thần kinh sọ, chi phối vận động các cơ trong và ngoài của lưỡi, ngoại trừ cơ khẩu cái -
**Cầu kính Rồng Mây** (còn có tên gọi khác là **cầu kính Sa Pa**, **cầu kính Ô Quý Hồ**) là một cầu đi bộ trên cao nằm trong khuôn viên khu du lịch cầu kính
thumb|right|Tượng mô tả đức Phật thuyết kinh Chuyển pháp luân cho năm anh em [[Kiều Trần Như tại một ngôi chùa Việt Nam tại Quebec, Canada.]] **_Kinh Chuyển pháp luân_** (chữ Hán: 轉法輪經; _Chuyển pháp
**Cầu kính Bạch Long** là một cầu đi bộ sàn kính nằm trong khuôn viên khu du lịch Mộc Châu Island, thuộc xã Mường Sang, thị xã Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Được khởi công
nhỏ|Một lăng kính Amici nhỏ|Phân đoạn lăng kính của một lăng kính đôi Amici nhỏ|273x273px| Một lăng kính Amici, với phương pháp dò tia đồ họa nhỏ|Một đèn huỳnh quang nhỏ gọn nhìn qua lăng
MÔ TẢ SẢN PHẨMDầu Cù Là Giúp Ngủ Ngon Ngon, Thư Giãn GRACE Skin Nourishing Balm Lavender - Xuất xứ: Thái Lan- Thương hiệu: Grace- Thông số: 10-1-6200009331- Trông lượng: 20g- Gía bán: CÔNG DỤNG-
Dầu Cù Là OTOP Lavender Sleep Balm Giúp Ngủ Ngon & Thư Giãn Xuất xứ: Thái Lan✅ Thương hiệu: Otop⚖Trọng lượng: 15gram/ hủ☘CÔNG DỤNG- Có tác dụng tuyệt vời đối với hệ thần kinh, thư
**Thần kinh thị giác** còn được gọi là **thần kinh sọ II**, viết tắt là **CN II**, là đôi dây thần kinh sọ thực hiện chức năng truyền thông tin thị giác từ võng mạc
**Lăng kính boong tàu** là loại lăng kính được đưa vào boong tàu để cung cấp ánh sáng xuống bên dưới. nhỏ|300x300px| Nhóm lăng kính boong nguyên bản Trong nhiều thế kỷ, thuyền buồm sử
phải|nhỏ| Nguyên lý làm việc của lăng kính Sénarmont **Lăng kính Sénarmont** là một loại kính lọc phan cực. Nó được làm từ hai lăng kính của vật liệu lưỡng chiết như canxit, thường được
Trong hệ thần kinh, **dây thần kinh ly tâm** hay **dây thần kinh vận động** (tiếng Anh: efferent nerves, motor neurons, effector neurons) truyền xung thần kinh ra khỏi hệ thần kinh trung ương đến
Microphone Boya BY-MC2 là sản phẩm microphone condenser sử dụng cho hội nghị, hội thảo, họp trực tuyến. Với khả năng thu âm đa hướng180 độ và bán kính thu rộng tới 6m Microphone Boya
**Kinh Không gì chuyển hướng** () là bài kinh thứ 60 trong Kinh Trung Bộ (_Majjhima Nikāya_) của Kinh điển Pāli. Nội dung kinh trình bày “giáo pháp chắc chắn” (_apaṇṇaka dhamma_) dưới dạng các
nhỏ|Một đoàn tàu tại ga Thiên Tân **Đường sắt liên thành phố Bắc Kinh – Tân Hải** (Binhbin), còn được gọi là tuyến đường sắt liên tỉnh Bắc Kinh thứ hai, là một tuyến đường
**Có ít nhất 90 trường Đại học và cao đẳng ở Bắc Kinh**. Thủ đô và thành phố trực thuộc trung ương của Trung Quốc có hầu hết các cơ sở giáo dục đại học
**Đại học Sư phạm Bắc Kinh** (**BNU**; chữ Hán giản thể: 北京师范大学; chữ Hán phồn thể: 北京師範大學; Pinyin: Běijīng Shīfàn Dàxué; thông dụng 北师大, Pinyin: Běishīdà) là một trường đại học ở Cộng hoà Nhân
Đây không phải một cuốn sách khác về cách có những cuộc gọi lạnh hay chốt giao dịch. Đây là toàn bộ kinh thư về bán hàng mới cho CEO những doanh nhân và Phó
Đây không phải một cuốn sách khác về cách có những cuộc gọi lạnh hay chốt giao dịch. Đây là toàn bộ kinh thư về bán hàng mới cho CEO những doanh nhân và Phó
Xà bông với tinh chất hoàn toàn từ nguồn nguyên liệu thiên nhiên an toàn với cơ thể. Đặc biệt an toàn đối với trẻ em và phụ nữ mang thai.Thành phần: - Tinh dầu
Xà bông với tinh chất hoàn toàn từ nguồn nguyên liệu thiên nhiên an toàn với cơ thể. Đặc biệt an toàn đối với trẻ em và phụ nữ mang thai.Thành phần: - Tinh dầu
**Bảo tàng Nam Kinh** (tiếng Trung: 南京 博物院; bính âm: Nánjīng Bówùyuàn) nằm ở Nam Kinh, thủ phủ của tỉnh Giang Tô ở miền Đông Trung Quốc. Với diện tích 70.000 mét vuông (17 mẫu
thumb|Trụ sở Thư viện Trung tâm Quốc gia tại Đài Loan. thumb|Former National Central Library in [[Nam Kinh.]] **Thư viện Trung tâm Quốc gia**, tiếng Anh: **National Central Library**, viết tắt là**NCL**, là thư viện
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**Kinh tế Nhật Bản** là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
nhỏ|263x263px|Một hiện vật kinh Diệu Pháp Liên Hoa bằng tiếng Phạn ([[Thế kỷ 5|thế kỉ V) được lưu giữ ở bảo tàng Lăng mộ Triệu Văn Đế]] **Kinh Diệu Pháp Liên Hoa** (sa. Saddharma Puṇḍarīka
**_Kinh Thi_** () là một bộ tổng tập thơ ca vô danh của Trung Quốc, một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo. Các bài thơ trong _Kinh Thi_ được sáng tác trong
**Kinh điển Phật giáo** có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84.000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở
**Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London** (tiếng Anh: _The London School of Economics and Political Science_, viết tắt **LSE**), là một cơ sở nghiên cứu và giáo dục công lập chuyên về
**Kinh tế Pháp** là nền kinh tế phát triển cao và định hướng thị trường tự do. Pháp là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 7 trên thế giới vào năm 2020 tính
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
**Cạnh tranh** kinh tế là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, nhà phân phối, bán lẻ, người tiêu dùng, thương nhân...) nhằm giành lấy những vị thế tạo nên
**Kinh tế Vương quốc /Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là một nền kinh tế thị trường xã hội và định hướng thị trường phát triển cao. được cấu thành bởi 4 nền kinh tế
**Kinh tế Hoa Kỳ** (Mỹ) là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hỗn hợp với kỹ nghệ, mức độ công nghiệp hóa và trình độ phát triển rất cao. Đây không chỉ là