✨Lê Văn Trương

Lê Văn Trương

nhỏ|Ông Lê Văn Trương Lê Văn Trương (1906-1964), bút hiệu Cô Lý, là nhà báo, nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Theo nhiều nhà nghiên cứu văn học Việt, hiện nay (2009), ông được xem là cây bút có số lượng tác phẩm nhiều nhất.

Thân thế & sự nghiệp

Lê Văn Trương sinh tại làng Đồng Nhân, nay là khu phố Thịnh Yên, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.

Cha ông là Lê Văn Kỳ, gốc người Hà Đông cũ, lên lập nghiệp ở Bắc Giang (nay là phố Nghĩa Long, thành phố Bắc Giang). Mẹ ông là bà Nguyễn Thị Sâm.

Thuở nhỏ, Lê Văn Trương học tiểu học ở Bắc Giang. Năm 1921, ông theo cha về Hà Nội thi vào học trường Trung học Bảo hộ (tức trường Bưởi, Hà Nội). Học đến năm thứ ba (có sách ghi năm thứ hai) thì bị đuổi, vì cùng với một vài bạn cầm đầu cuộc phản kháng chống lại một Hiệu trưởng người Pháp đã mắng học sinh người Việt là "Sale Annamite" ("Tên An Nam bẩn thỉu!").

Năm 1926, sau khi đi học thêm, Lê Văn Trương thi đậu vào Sở Dây thép Đông Dương (Bưu điện Đông Dương). Mãn khóa, ông được bổ đi làm tại Battambang (Campuchia). Ở đây, ông cưới cô Ngô Thị Hương , một nữ sinh trường Battambang, và là con cả trong một gia đình người Việt đang cư trú nơi đó.

Năm 1930, ông chán nghề công chức, bỏ đi khai khẩn đồn điền ở huyện Monkolboray, thuộc tỉnh Lovea (Campuchia), giáp biên giới Thái Lan.

Sau khủng hoảng kinh tế 1931-1932, sau khi bị phá sản, ông đi làm thầu khoán, buôn bò, buôn ngọc, buôn lậu...có khi sang tận Thái Lan, Trung Quốc.

Năm 1932, ông trở về nước tham gia làng báo, làng văn ở đất Bắc, cộng tác với báo Trung Bắc tân văn, với nhà xuất bản Tân Dân và các cơ quan ngôn luận của nhà xuất bản này: Tiểu thuyết thứ Bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Ích hữu, Truyền bá.

Năm 1937, Lê Văn Trương được Chủ nhiệm Vũ Đình Long cho làm Chủ bút tờ Ích Hữu. Cuối năm đó, ông chủ trương ra tờ tuần báo Ích hữu đổi mới, và sau nữa là tờ Việt Nam hồn. Thời này, ông thường đi đôi với Trương Tửu, cổ xúy cho cái "triết lý về sức mạnh".

Sau 1945, ông làm chủ tịch Ủy ban Đãi vàng Bắc Bộ một thời gian rồi vào Tiểu ban Văn nghệ thuộc Ban Tuyên huấn thuộc Phòng Chính trị Liên khu III.

Lê Văn Trương có tham gia chiến dịch đánh Pháp ở Nam Định (28 tháng 5 năm 1951 - 20 tháng 6 năm 1951), và ở Hòa Bình (tháng 12 năm 1951 - tháng 1 năm 1952) và đã tường thuật lại trong cuốn tiểu thuyết "Tôi là quân nhân", nhưng bị phê phán tơi bời là đề cao "chủ nghĩa anh hùng cá nhân".

Buồn chán, nhân bệnh gan cũ tái phát ông đến Ủy ban Hành chính kháng chiến Liên khu III (lúc ấy đóng ở Xích Thổ, tỉnh Ninh Bình) xin phép được về thành (Hà Nội) chữa bệnh (1953). Về lại Hà Nội, ông cộng tác với báo Mới ở Sài Gòn, và viết sách.

Đầu năm 1954, ông vào Sài Gòn làm thầu khoán, viết báo, tái bản sách. Năm 1959, ông làm việc cho Đài phát thanh Sài Gòn được một thời gian thì gặp chuyện không may: Vì trùng tên với một người dám đả kích bà Cố vấn Ngô Đình Nhu (tức Trần Lệ Xuân), ông bị gọi vào Phủ Tổng thống làm việc. Mặc dù đã minh oan và cả sau khi sự việc đã rõ, bà Trần Lệ Xuân vẫn dửng dưng không đính chính. Ông bị đài Phát thanh sa thải. Cảnh nhà hết sức quẫn bách cộng thêm nỗi sách in ra không bán được, công việc kinh doanh cũng đình đốn.

Ngày 25 tháng 2 năm 1964, Lê Văn Trương mất tại một căn nhà hẹp ở hẻm Bùi Viện, Sài Gòn (nay thuộc phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh), trong cảnh nghèo đói và tật bệnh, lúc 58 tuổi.

Mộ phần ông và vợ ông (Ngô Thị Hương) hiện ở tại Gò Sao thuộc Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tác phẩm

Lê Văn Trương là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết, theo một số nhà nghiên cứu, ông có đến 200 tác phẩm; nhưng theo bản thống kê của gia đình ông, thì chỉ còn lưu giữ được 125 tác phẩm, gồm 96 cuốn đã in và 29 cuốn chưa in.

Liệt kê theo Từ điển Tác gia Văn hóa Việt Nam: *Trước cảnh hoang tàn Đế Thiên Đế Thích*. Nhà in Trung Bắc tân văn, Hà Nội, 1934. Đưa cháu đồng bạc (tiểu thuyết), Tân Dân, Hà Nội, 1939. Dưới bóng thần Vệ Nữ, Nam Ký thư quán. Nhà in Trịnh Văn Bích, Hà Nội, 1939. Cô Tư Thung. Phổ thông bán nguyệt san, số 2 (1942). Một người. Phổ thông bán nguyệt san, số 6 và 7 (1942). Một người cha. Phổ thông bán nguyệt san, số 12. Một lương tâm trong gió lốc. Phổ thông bán nguyệt san, số 21 và 22. Trong ao tù trưởng giả. Phổ thông bán nguyệt san, số 28 và 29. Ngựa đã thuần rồi, mời ngài lên. Phổ thông bán nguyệt san, số 31. Một cô gái mới. Phổ thông bán nguyệt san, số 38. Tôi là mẹ. Phổ thông bán nguyệt san, số 43 và 44. Cánh sen trong bùn. Phổ thông bán nguyệt san, số 51 và 52. Bốn bức tường máu. Phổ thông bán nguyệt san, số 62 và 63. Trường đời. Phổ thông bán nguyệt san, số 73, 74 và 75. Nó giết người. Phổ thông bán nguyệt san, số 84. Người anh cả. Phổ thông bán nguyệt san, số 73, 74 và 75. Hai anh em. Phổ thông bán nguyệt san, số 98. Tiếng gọi của lòng. Phổ thông bán nguyệt san, số 106 và 107. Lòng mẹ. Phổ thông bán nguyệt san, số 113 và 114 (Các cuốn không ghi năm đều in từ 1937 – 1942). Hận nghìn đời. Hà Nội, 1938 Một linh hồn đàn bà. Hà Nội, 1940. Tôi thầu khoán** (hay Ba tháng ở Trung Hoa). Hà Nội, 1940.

  • Điều đàn muôn thuở. Hà Nội, 1941. *Một cuộc săn vàng* (phiêu lưu ký sự), 1941. Một trái tim. Phổ thông bán nguyệt san, số 15. Con đường hạnh phúc. Phổ thông bán nguyệt san. Con chim đầu đàn. Cuộc chạy thi quanh Hồ Tây. Truyện học sinh Đời mới (cùng viết 1942). Sau phút sinh li (tiểu thuyết). Hà Nội, Tân Dân, 1942. Sợ sống (Tủ sách người hùng...). Hà Nội, Nhà xuất bản Lê Văn Trương, 1942. Ái tình muôn mặt (tiểu thuyết). Hà Nội, 1942. Anh và tôi (giáo dục tiểu thuyết). Hà Nội, Nhà xuất bản Đời mới, Nhà in Thụy Ký, 1942. Bóng hạnh phúc. Hà Nội, Cộng Lực, 1942. Chồng chúng ta (xã hội tiểu thuyết). Hà Nội, Nhà xuất bản Đời Mới, 1942. Cô Thơm (xã hội tiểu thuyết). Hà Nội, Nhà xuất bản Duy Tân thư xã, 1941. Đầu bạc đầu xanh (xã hội tiểu thuyết). Hà Nội, Nhà xuất bản Đời Mới, 1942. Những thiên tình hận. Hà Nôi, Nhà xuất bản Hương Sơn. Nhà in Thụy Ký, 1943. Chung quanh người đàn bà (tâm lý tiểu thuyết). Nhà Nội, Nhà xuất bản Hương Sơn, 1943. Ái tình muôn mặt. Hà Nội, Lê Cường, 1941. Lịch sử một tội ác. Hà Nội, Nhà xuất bản TÂn Dân, 1941. Triết học sức mạnh. Hà Nội, Nhà xuất bản Hương Sơn, 1941. Bị sa lầy (truyện học sinh Đời Mới). Hà Nội, Nhà xuất bản Đời Mới, 1942. Chờ chết (truyện học sinh Đời Mới). Hà Nội, 1942. Hai người bạn (tiểu thuyết). Nhà Nội, Nhà xuất bản Đời Mới, 1942. Kẻ đến sau (tiểu thuyết). Hà Nội, Nhà xuất bản Đời Mời, 1942. Lấy chồng cọp (truyện học sinh Đời Mới). Hà Nội, 1942. Những kẻ có lòng (tiểu thuyết). Hà Nội, Nhà xuất bản Đời Mới, 1942. Săn đuổi (truyện học sinh Đời Mới). Nhà xuất bản Xuân Thu, 1942. Tiếng còi báo động (truyện học sinh Đời Mới). Hà Nội, 1942. Giọt nước mắt đầu tiên (tiểu thuyết). hà Nội, Nhà xuất bản Hương Sơn, 1943. Hai tâm hồn (tiểu thuyết). Hà Nội, Nhà xuất bản Đời Mới, 1942. Lỡ một kiếp người (tiểu thuyết). Hà Nội, 1943. Người mẹ tội lỗi (tâm lý tiểu thuyết). Hà Nội, 1943. Ba ngày luân lạc (giáo dục tiểu thuyết). Hà Nội, 1943. Cô giá tỉnh lị (tiểu thuyết). Hà Nội, 1943. Con đường dốc (truyện dài). Hà Nội, 1943. Dây san (truyện dài). Hà Nội. Hai ban tay thằng con trai (xã hội tiểu thuyết). Hà Nội, 1943. Kiếp hoa rơi (xã hội tiểu thuyết). Hà Nội, 1943. Những người đã sống. Hà Nội, 1943. Lịch sử một tan vỡ, 1943. Những mái nhà ấm, 1943. Những kẻ không nghèo, 1943. Những chợp mắt lịch sử**. Sài Gòn, 1958. *Những người có sứ mạng. Sài Gòn, 1959.

Tháng 10 năm 2005 được sự giúp đỡ của bạn bè, nhất là của nhà văn Triệu Xuân và nhà xuất bản Văn Học, bà Lê Thị Giáng Vân (con gái Lê Văn Trương) đã cho in bộ "Lê Văn Trương - tác phẩm chọn lọc" gồm 02 cuốn vào quý I năm 2006.

Nhận xét

Tác giả

Theo thi sĩ Nguyễn Vỹ-bạn Lê Văn Trương- ông Trương là người rất vui tính, rất tốt, ăn to, nói lớn, mà nói luôn mồm, chuyên môn nói phét, nói tục, nhưng rất thành thật, ngay thẳng, không làm hại ai cả...Lê Văn Trương nói chuyện thế nào, thì viết tiểu thuyết cũng y như thế. Có thể nhận xét rằng: "Lê Văn Trương là một cái máy nói ra một cái máy viết"...Nói liên miên, và liên miên...Anh ưa dẫn chứng những câu triết lý của vài ba danh nhân xưa mà anh ta đã đọc...Nhớ gì nói nấy, nhiều khi chẳng ăn khớp vào đâu với đâu cả...đến nỗi nhiều khi anh tự mâu thuẫn với anh mà anh không biết...Ở Hà Nội tiền chiến, Lê Văn Trương là một tay phong lưu hào hiệp, áo quần bảnh bao, ăn tiêu rộng rãi. Từ khi di cư vào Sài Gòn, anh nghèo túng, lại mang bệnh ghiền (thuốc phiện). Anh không còn viết được một tiểu thuyết nào nữa, và cũng không cộng tác với một tờ báo hay một cơ quan văn nghệ nào được lâu. Khả năng sáng tác của anh hoàn toàn kiệt quệ...

Tác phẩm

GS. Nguyễn Huệ Chi viết: :Với hơn trăm tác phẩm trong hơn 30 năm đời văn, Lê Văn Trương quả là một cây bút tiểu thuyết sung sức. Tất nhiên, cũng giống như đa số người cầm bút ở giai đoạn này, nhất là những nhà văn thuộc nhóm Tân Dân, một phần trong khối lượng đồ sộ đó của ông là loại sách viết để "kiếm sống", chứ không gửi gắm tâm huyết gì của tác giả...

Theo GS. Phạm Thế Ngũ, thì số tác phẩm ấy, có thể phân chia thành ba loại: Loại truyện phiêu lưu ly kỳ của những trai tứ chiếng, gái giang hồ: Trước cảnh hoang tàn Đế Thiên Đế Thích, Cô Tư Thung, Cánh sen trong bùn, Trường đời, Tôi thầu khoán, Những đồng tiền xiết máu,... Loại truyện đề cao những quan hệ tình cảm gia đình, với tám gương mẫu mực của những người làm cha, làm mẹ, làm anh, làm vợ: Một người cha, Người anh cả, Người vợ lý tưởng, Người vợ hoàn toàn, Một đứa bé mồ côi, Con đường hạnh phúc, Đứa con hạnh phúc... *Loại truyện phê phán, đả kích những thói hư tật xấu của Xã hội thượng lưu trưởng giả: Trong ao tù trưởng giả, Một lương tâm trong gió lốc, Đứa cháu đồng bạc, Một cô gái mới, Chồng chúng ta...

Theo đánh giá của GS. Nguyễn Huệ Chi, thì cái chung nhất trong cả ba loại truyện trên là cái "triết lý sức mạnh", biểu hiện qua nhân vật người hùng. Người hùng không chỉ oanh liệt trong cuộc phiêu lưu mạo hiểm, mà còn là người có lương tâm cao quý, gương mẫu. Đó là kiểu người hăng hái, xông pha, không từ nan trước mọi khó khăn, luôn gánh chịu phần thiệt thòi về minh, nhằm trừ tai cứu nạn, đem lại hạnh phúc cho người khác. Tuy nhiên, trong phong cách thể hiện, Lê Văn Trương thường cường điệu lên quá múc khiến cho câu chuyện cứ lộ dần những ảo tưởng...Đa phần tác phẩm của ông là loại tiểu thuyết chú trọng đến cốt truyện. Ở đó, ông biết khéo léo dẫn dắt để mạch truyện lôi cuốn độc giả. Những nhân vật mà ông dựng lên rất giàu cá tính nên dễ ăn sâu vào tâm trí người đọc. Nhưng cũng có khi vì thái quá, nhiều nhân vật "người hùng" của ông có những hành vi bất thường, quá khổ một cách không thực

Sau khi phân tích một số tác phẩm của Lê Văn Trương, nhà văn Vũ Ngọc Phan cũng đã kết luận rằng: :Lê Văn Trương là một nhà tiểu thuyết luân lý, nhưng cái luân lý của ông là một thứ luân lý rất thông thường: vợ phải nghe theo chồng, em phải nghe anh...Ông lại tựa vào một lý thuyết rất hẹp. Cái thuyết sứ mạnh của ông là thứ lý thuyết nông nổi, không có gì vững vàng... :Tiểu thuyết của ông mỗi ngày một nhiều, nhưng xét chung tất cả, người ta thấy các truyện của ông không khác nhau mấy tí. Người ta lại thấy về đường tư tưởng và ý kiến, những truyện của ông chỉ có chiều rộng mà không có chiều sâu...Về cách hành văn...cũng không thay đổi mấy. xưa kia ông hay nghị luận...thì bây giờ ông cũng hay nghị một cách trường giang đại hải. Văn ông chỉ là một thứ văn hoạt, thứ văn dễ hiểu,...không có gì đặc sắc..

Tư liệu liên quan

Thi sĩ Nguyễn Vỹ trong hồi ký của mình đã cung cấp thêm mấy nét về Lê Văn Trương, trích: :Vài ngày sau cái chết của Nguyễn Tường Tam, Lê Văn Trương đến thăm tôi tại tạp chí Phổ thông. Anh buồn bã gục đầu xuống. Tôi lặng thinh chờ xem anh muốn nói gì. Một lúc khá lâu, có vẻ trịnh trọng, Lê Văn Trương cất tiếng: "Thằng Nhất Linh đi rồi, bạn cũ tụi mình ở đây chỉ còn mày, với một vài thằng nữa thôi. Nhưng tao buồn là không để lại một tác phẩm nào xứng đáng với cuộc đời của tao". Im lặng một lúc, Lê Văn Trương lại nói tiếp: "Tớ muốn cậu tự ý chọn một quyển truyện nào của tớ mà cậu ưng ý nhất, cậu viết một bài phê bình thật đầy đủ, cho tớ xem trước khi tớ làm cuộc du lịch cuối cùng và vĩnh viễn."

:Tôi hỏi: "Trong tất cả các truyện cậu đã viết cậu thích quyển nào nhất". Lê Văn Trương trả lời liền không do dự: "Tớ đ. thích quyển nào". -"Ít nhất cũng có một vài quyển hay hơn các quyển khác chứ". -"Tớ viết quyển nào cũng hay cả, mà chẳng có quyển đ. nào hay cả! Thế mới chó!"

:Câu nói mâu thuẫn đó tiết lộ tính chất sáng tác đặc biệt của Lê Văn Trương. Tác phẩm nào cũng hấp dẫn nhưng không có một kiệt tác. Tôi bảo: "Cậu chọn một vài quyển tương đối nổi bật hơn hết, đưa đây tôi. Tôi sẽ viết một bài dài và thật khách quan". Nhưng tôi đã chờ mãi Lê Văn Trương cho đến ngày anh chết.

Và nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn có lời bàn: :Với một cuộc đời nhiều phen ngang dọc như Lê Văn Trương, một kết cục như thế thật ngoài sự chờ đợi của mọi người. Hôm qua, trong văn học, ông như con cá kình trên sông lớn, muốn in gì thì in, muốn viết thế nào thì viết, tha hồ lui tới. Đã bao nhiêu lần người ta chê bai ông, giễu cợt ông, bảo ông là vội vàng cẩu thả là văn chương dây cà ra dây muống, nhưng đã lại có không biết bao nhiêu độc giả lắng nghe ông, suy tôn ông, thế là được rồi. Đến nay rút lại, hoá ra thời gian vẫn làm công việc của nó, và cái đòn chí tử giáng vào văn nghiệp Lê Văn Trương lại chính do Lê Văn Trương thực hiện. Công bằng làm sao mà cũng oan nghiệt làm sao!...Trên nhiều phương diện trước sau, Lê Văn Trương vẫn là một số phận văn học mà các thế hệ sau cần luôn luôn nghiền ngẫm để rút kinh nghiệm.

Sách tham khảo

Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (trọn bộ 2 cuốn, tập 2). Nhà xuất bản.Khoa học Xã hội, Hà Nội in lại năm 1989. Nhiều người soạn, Từ điển Văn học (bộ mới). Nhà xuất bản.Thế giới, 2004. Nguyễn Vỹ, Văn thi sĩ tiền chiến. Nhà xuất bản.Văn học in lại năm 2007. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (trọn bộ 3 quyển, quyển 3). Quốc học tùng thư ấn hành, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Ông Lê Văn Trương **Lê Văn Trương** (1906-1964), bút hiệu **Cô Lý**, là nhà báo, nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Theo nhiều nhà nghiên cứu văn học Việt, hiện nay (2009), ông được
**Lê Văn Trường** (sinh ngày 25 tháng 12 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ bóng đá Khánh Hòa ở vị trí thủ
Với sự nỗ lực phấn đấu không ngừng, Bệnh viện Lê Văn Thịnh được phân loại xếp hạng I theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế. Trong đó, luôn đề cao thái độ, phong cách
Với sự nỗ lực phấn đấu không ngừng, Bệnh viện Lê Văn Thịnh được phân loại xếp hạng I theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế. Trong đó, luôn đề cao thái độ, phong cách
**Lê Văn Thiêm** (29 tháng 3 năm 1918 – 3 tháng 7 năm 1991) là tiến sĩ toán học đầu tiên của Việt Nam, giáo sư toán học và là một trong số các nhà
**Lê Văn Hiến** (15 tháng 9 năm 1904 – 15 tháng 11 năm 1997) là một nhà cách mạng, chính trị gia, nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ Lao động nước Việt Nam
**Lê Văn Lương** (1912-1995) là một chính trị gia Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ quan trọng trong Đảng Cộng sản Việt Nam như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương
**Lê Văn Lan** (sinh năm 1934, người Hà Nội) là phó chủ tịch Hội đồng khoa học Khu di tích lịch sử đền Hùng, một trong những người sáng lập Viện sử học Việt Nam,
**Lê Văn Hẳn** (sinh ngày 12 tháng 10 năm 1970) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Uỷ ban
**Giuse Lê Văn Ấn** (1916–1974) là một giám mục Công giáo người Việt. Ông là giám mục tiên khởi của giáo phận Xuân Lộc, quản lý giáo phận này từ năm 1965 cho đến khi
**Mạch Văn Trường** (sinh 1936-2021), nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân vào thời kỳ
**Lê Vân** là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Phó Cục trưởng Cục An ninh chính trị nội bộ, Bộ Công an Việt Nam. ## Sự nghiệp Từ tháng 12
**Lê Văn Thành** (20 tháng 10 năm 1962 – 22 tháng 8 năm 2023) là một chính trị gia Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Phó
**Lê Văn Dũng** (sinh năm 1945) là một tướng lĩnh cao cấp, quân hàm Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt
**Lê Văn Vọng** (sinh năm 1947) là nhà thơ, nhà văn Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật vào năm 2022. ## Tiểu sử Lê Văn Vọng sinh ngày
**Lê Văn Hải** là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với quân hàm Thiếu tướng. Ông nguyên Cục trưởng Cục Hậu cần, Bộ Công an Việt Nam. ## Tiểu
**Lê Văn Sao** (sinh năm 1967) là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với quân hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ chức vụ Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh
**Lê Văn Minh** (1958-2021) là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Từ tháng 8 năm 2011 đến tháng 8 năm 2018, ông giữ chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần -
**Lê Văn Lành** (sinh năm 1960) là kiểm sát viên cao cấp người Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh. ## Tiểu sử Lê Văn
**Lê Văn Long** là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Hàm Vụ trưởng Vụ tổng hợp, Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Phó Chánh Văn phòng
**Quan Vân Trường** (chữ Hán phồn thể: 關雲長, chữ Hán giản thể: 关云长, bính âm: Guān Yúncháng, tựa tiếng Anh: **The Lost Bladesman**) là một bộ phim điện ảnh Trung Quốc - Hồng Kông được
**Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng** (sinh 1940) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng Giám mục Tổng giáo phận Huế, cũng từng giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng
**Lê Văn Thành** (tên thường gọi: **Lê Thành**, sinh ngày 19 tháng 10 năm 1947) là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam và chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là đại
**Lê Văn Linh** (黎文靈 hay 黎文零, 1376 - 1448) là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, làm quan trải ba triều vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê
**Lê Văn Thu** (15 tháng 8 năm 1915 – ?) là luật sư, nhà báo, giáo sư và Quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa. ## Tiểu sử Lê Văn Thu chào
**Lê Văn Long** là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với quân hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ chức vụ Cục trưởng Cục Quản lý xây dựng và doanh
**Lê Văn Hưu** (chữ Hán: 黎文休;1230-1322) là một nhà sử học đời nhà Trần, tác giả bộ _Đại Việt sử ký_, bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam. Bộ sách này không còn nhưng
**Lê Văn Minh** (sinh ngày 30 tháng 11 năm 1964) là một thẩm phán người Việt Nam. Ông hiện là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao của Việt Nam, thành viên Hội đồng
**Lê Văn Hiểu** (tức Lê Tiến Hàn, hay Hàn Tiến, Trịnh Đào, Quan Phủ Tướng Hàn, 1601 - 1654) là một tướng lĩnh Việt Nam vào thế kỷ 17, thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ông sinh
**Lê Văn Tĩnh** (21 tháng 7 năm 1936 – 12 tháng 8 năm 2021) là một nhà giáo, đạo diễn người Việt Nam. Ông là thầy của nhiều nghệ sĩ như Trịnh Kim Chi, Trung
**Lê Văn Thụ** (30 tháng 5 năm 1908 –1996) là luật sư từng giữ chức Phó Tổng Chưởng lý Tối cao Pháp viện Việt Nam Cộng hòa. ## Tiểu sử Lê Văn Thụ chào đời
**Lê Văn Khoái** (12 tháng 7 năm 1913 – 22 tháng 10 năm 1977) là chính khách Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức Tỉnh trưởng Phước Tuy và Tỉnh trưởng Tây Ninh dưới thời
**Lê Văn Cương** là Phó Giáo sư, Tiến sĩ Triết học, Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Bộ Công an Việt Nam. Ông là một
Với phương châm chỉ nói đến các bạn làng văn mà tôi đã được hân hạnh quen biết nhiều, những gương mặt văn sĩ tiền chiến được nhà thơ Nguyễn Vỹ khắc họa chân dung,
**Lê Văn Hoan** (sinh năm 1931) là chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam tỉnh Bình Trị Thiên khóa 8 nhiệm kì 1987-1992, Chủ tịch Ủy ban
**Lê Văn Đệ** (sinh 1957) là một Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam, nguyên Chánh Văn phòng Tổng cục Chính trị, Bộ Công an (Việt Nam), nguyên là Phó Tổng cục trưởng Tổng
**Lê Văn Huyên** (sinh năm 1964) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, Ông nguyên là Cục trưởng Cục Tổ chức thuộc Tổng cục chính trị
Qua hơn một trăm trang sách, Lan Khai đã khắc họa trong hình dung và tâm tưởng của mình các văn sĩ đương thời như Tản Đà, Lê Văn Trương, Vũ Trọng Phụng, Ngọc Giao
**Lê Văn Phước** (sinh ngày 15 tháng 10 năm 1929) là một cựu vận động viên đua xe đạp người Việt Nam. Cùng với 7 vận động viên khác, ông đã đại diện Việt Nam
**Lê Văn Hoạch** (1896 – 1978) là Thủ tướng Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ từ tháng 11 năm 1946 đến tháng 9 năm 1947. ## Tiểu sử ### Thân thế Lê Văn Hoạch sinh
**Lê Văn Tư** (1931-2021), nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ bị
**Lê Văn Tỵ** (1904-1964) là một tướng lĩnh Lục quân của Quân đội Quốc gia Việt Nam và Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thống tướng. Ông xuất thân từ trường Thiếu sinh
**Lê Văn Nghiêm** (1912 – 1988) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông xuất thân từ trường Sĩ quan của Quân đội thuộc địa Pháp mở
**Nguyễn Văn Trương** (; 1740 - 1810), là một trong Ngũ hổ tướng Gia Định, và là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Lê Văn Hưng** (chữ Hán:黎文興, ?-1794?) là một danh tướng của nhà Tây Sơn. Ông được tôn xưng là một trong Tây Sơn thất hổ tướng. Xuất thân trong một gia đình giàu có, buôn
**Lê Văn Hưng** (1933 - 1975) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Sĩ
**Lê Văn Duyệt** (1763 hoặc 1764 – 28 tháng 8 năm 1832) còn gọi là **Tả Quân Duyệt**, là một nhà chính trị, nhà quân sự lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông là một
**Lê Văn Thanh** (黎文清) là tướng lĩnh của phong trào Tây Sơn. ## Hành trạng Lê Văn Thanh tham gia phong trào Tây Sơn khi nào không rõ, nhưng ông là tướng lĩnh cao cấp
nhỏ|Võ sư Lê Văn Thạnh - Trưởng tràng Hệ phái Suzucho KarateDo **Lê Văn Thạnh** (sinh 1949) là một võ sư Karate người Việt Nam. Ông hiện mang cửu đẳng huyền đai Karatedo Suzucho Ryu,
**Phan Văn Trường** là chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực đàm phán quốc tế và là cố vấn của Chính phủ Pháp về thương mại Quốc tế. Ông được Tổng thống Pháp trao tặng