✨Lê Văn Tư

Lê Văn Tư

Lê Văn Tư (1931-2021), nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ bị Quốc gia do Chính phủ Quốc gia Việt Nam thành lập với sự hỗ trợ của Quân đội Pháp nhằm mục đích đào tạo sĩ quan người Việt phục vụ cho Quân đội Liên hiệp Pháp. Ra trường ông gia nhập đơn vụ Nhảy dù nhưng chỉ phục vụ Binh chủng này một thời gian ngắn, sau chuyển qua đơn vị Bộ binh.

Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh ngày 29 tháng 9 năm 1931, là con thứ 4 trong một gia đình trung nông khá giả tại làng Điều Hòa, Thuận Trị, tỉnh Mỹ Tho. Ông học Tiểu và Trung học chương trình Pháp tại Mỹ Tho. Tốt nghiệp với văn bằng Thành chung. Sau đó từ năm 1947 đến năm 1949 ông theo học trường Y tá Đông Dương tại Bênh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn. Ra trường, về tùng sự tại Tòa Đô sảnh Sài Gòn. Sau chuyển về nguyên quán, phục vụ tại Bệnh viện Mỹ Tho.

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Cuối tháng 6 năm 1951, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 51/121.317. Theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 7 năm 1951. Ngày 24 tháng 4 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, tình nguyện vào đơn vị Nhảy dù của Quân đội Liên hiệp Pháp phục vụ tại Tiểu đoàn 1 với chức vụ Trung đội trưởng. Giữa năm 1953, ông được thăng cấp Trung úy chuyển sang Tiểu đoàn 3 Nhảy dù giữ chức vụ Đại đội phó.

Tháng 8 năm 1954, sau Hiệp định Genève (ngày 20 tháng 7), ông rời Binh chủng Nhảy dù. Chuyển nhiệm vụ sang Quân trường Huấn luyện Bộ binh, ông được cử giữ chức Thanh tra Quân huấn Trung tâm Huấn luyện số 1 Quán Tre do Trung tá Trần Tử Oai làm Chỉ huy trưởng.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Giữa Năm 1956, sau hơn nửa năm từ Quân đội Quốc gia chuyển sang phục vụ cơ cấu quân đội mới của Đệ nhất Cộng hòa là Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được cử làm Đại đội trưởng Đại đội Chỉ huy Công vụ của Trung đoàn 32 do Thiếu tá Đỗ Kiến Nhiễu làm Trung đoàn trưởng, đồn trú tại Cái Vồn thuộc Sư đoàn 11 khinh chiến. Đến tháng 7 năm 1957, chuyển qua giữ chức vụ Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 13 cũng thuộc Trung đoàn 32. Sau đó được cử đi học khóa Sĩ quan Hành chính, mãn khóa về làm Phụ tá Hành chính Trung đoàn 33 do Thiếu tá Phạm Quốc Thuần làm Trung đoàn trưởng. Đầu năm 1958, biệt phái ngoại ngạch tại Phủ Tổng thống, làm Phụ tá cho Thiếu tá Phạm Ngọc Thảo, đặc trách nghiên cứu Kế hoạch Khu trù mật. Tháng 3 năm 1959, ông được cử làm sĩ quan đặc trách Khu trù mật Ba Chúc, quận Tịnh Biên, Long Xuyên do Đại úy Nguyễn Văn Chất làm Quận trưởng, Trung tá Nguyễn Văn Minh làm Tỉnh trưởng.

Đầu năm 1960, ông được thăng cấp Đại úy, biệt phái sang lĩnh vực Hành chính Quân sự và được chỉ định làm Phó Tỉnh trưởng Nội an tỉnh Vĩnh Long do Đốc phủ sứ Khưu Văn Ba làm Tỉnh trưởng. Sau 10 ngày, bàn giao chức vụ Phó tỉnh Nội an lại cho Thiếu tá Lê Thành Đô. Ngay sau đó ông được cử đi làm Quận trưởng quận Sa Đéc.

Giữa năm 1961, nhận lệnh bàn giao chức vụ Quận trưởng Sa Đéc lại cho Đại úy Nguyễn Văn Xinh Tháng 7 cùng năm, ông được thăng cấp Thiếu tá và được bổ nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh Phong Dinh thay thế Thiếu tá Trần Cửu Thiên được cử đi du học tu nghiệp khóa Bộ binh cao cấp tại Hoa Kỳ.

Tháng 11 năm 1962, ông nhận lệnh bàn giao tỉnh Phong Dinh lại cho Thiếu tá Trần Bá Di, Thiếu tá Trần Đình Thọ làm Phó tỉnh Nội an. Giữa năm 1963, ông được cử theo học lớp Chỉ huy và Tham mưu cao cấp tại Đà Lạt.

Đầu tháng 11 năm 1963, sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm (ngày 1 tháng 11), ông trở lại quân đội và được cử giữ chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 32 thuộc Sư đoàn 21 Bộ binh do Đại tá Cao Hảo Hớn làm Tư lệnh, đồng thời ông kiêm chức vụ Tư lệnh Khu chiến U Minh Thượng và U Minh Hạ.

Đầu tháng 6 năm 1964, bốn tháng sau cuộc Chỉnh lý nội bộ Hội đồng Quân nhân Cách mạng vào ngày 30 tháng 1 của tướng Nguyễn Khánh, một lần nữa ông được biệt phái sang Hành chính và được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng tỉnh Hậu Nghĩa thay thế vị tiền nhiệm đầu tiên là Trung tá Sầm Tấn Phước Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 cùng năm, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm.

Ngày 19 tháng 2 năm 1965, ông tham gia cuộc đảo chính Chính quyền quân đội do Thiếu tướng Lâm Văn Phát và Đại tá Phạm Ngọc Thảo cùng cầm đầu. Cuộc đảo chính bất thành, ông bị bắt giam tại Quân lao Gò Vấp. Trung tá Nguyễn Trí Hanh được cử thay thế ông làm Tỉnh trưởng Hậu Nghĩa. Đến ngày 7 tháng 5 cùng năm, ông bị xét xử trước Tòa án Mặt trận Quân sự, tòa tuyên án ông 6 tháng tù ở, giáng cấp xuống binh nhì, buộc giải ngũ và xóa tên trong danh bạ Quân đội VNCH. Sau khi bị buộc giải ngũ, ông về cư ngụ ở quê quán Mỹ Tho, sau lên Sài Gòn hành nghề lái xe Tắc xi để mưu sinh.

Cuối năm 1965, ông được gọi tái ngũ và được phục hồi cấp bậc Trung tá như cũ. Đầu năm 1966, ông được cử làm Phụ tá Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh đặc trách lãnh thổ Khu chiến thuật Tiền Giang kiêm Tham mưu phó Chiến tranh Chính trị do Đại tá Nguyễn Viết Thanh làm Tư lệnh.

Hạ tuần tháng 3 năm 1968, ông được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Gò Công thay thế Trung tá Trần Thanh Xuân. Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 cùng năm ông được thăng cấp Đại tá. Đến giữa năm 1969, ông nhận lệnh bàn giao tỉnh Gò Công lại cho Đại tá Nguyễn Tất Thinh ông chuyển đi giữ chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Long An thay thế Đại tá Nguyễn Văn Ngưu

Tháng 11 năm 1970, bàn giao tỉnh Long An lại cho bào đệ là Trung tá Lê Văn Năm(nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 14, Sư đoàn 9 Bộ binh). Ngay sau đó, ông được bổ nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Gia Định thay thế Đại tá Nguyễn Văn Tồn.

Ngày 19 tháng 1 năm 1972, được lệnh bàn giao chức vụ Tỉnh trưởng Gia Định lại cho Đại tá Châu Văn Tiên. Ngay sau đó, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh thay thế Trung tướng Nguyễn Xuân Thịnh được bổ nhiệm chức Chỉ huy trưởng Pháo binh Trung ương. *Sư đoàn 5 Bộ binh vào thời điểm tháng 1/1972, nhân sự ở Bộ Tư lệnh Sư đoàn và các Chỉ huy Trung đoàn được phân bổ trách nhiệm như sau:
-Tư lệnh - Đại tá Lê Văn Tư
-Tư lệnh phó - Đại tá Trần Vĩnh Huyến
-Tham mưu trưởng - Đại tá Trương Thắng Chức
-Chỉ huy Trung đoàn 46 - Đại tá Đỗ Thanh Liêm
-Chỉ huy Trung đoàn 49 - Đại tá Nguyễn Văn Thừa
-Chỉ huy Trung đoàn 50 - Đại tá Đặng Như Tuyết

Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 cùng năm, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm.

Thượng tuần tháng 11 năm 1973, do liên quan đến việc nhận hối lộ trong vụ buôn lậu quân trang quân dụng lúc bấy giờ. Ông bị câu lưu sau khi bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh lại cho Đại tá Nguyễn Hữu Toán. Ông bị đình chỉ quân vụ và bị quản thúc tại gia đợi lệnh của Tòa án Mặt trận Quân sự. Cuối năm 1974, ông bị tạm giam tại Đề lao Chí Hòa để chờ điều tra.

1975

Sau ngày 30 tháng 4, ông được cho về với gia đình. Sau đó trình diện ban Quân quản Thành phố Sài Gòn, chính quyền mới đưa ông đi học tập và cải tạo từ Nam ra Bắc đến ngày 11 tháng 2 năm 1988 mới được trả tự do.

Năm 1990, ông cùng gia đình xuất cảnh theo chương trình "Ra đi có trật tự" diện H.O do Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh. Định cư tại Garden Grove, Tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Ngày 1 tháng 2 năm 2021, ông từ trần tại nơi định cư, hưởng thọ 90 tuổi.

Huy chương

-Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng.
- Một số huy chương quân sự, dân sự khác.

Gia đình

Thân phụ: Cụ Lê Văn Tể (1906-1984) Thân mẫu: Cụ Trương Thị Xứng (1911-1981) (Hai cụ sinh hạ 10 người con gồm 6 trai, 4 gái). Nhạc phụ: Cụ Võ Văn Phu Nhạc mẫu: Cụ Cao Thị Biểu Bào tỷ: Lê Thị Đáng Bào huynh: Lê Văn Ba Bào đệ: Lê Văn Năm, Lê Văn Danh, Lê Văn Bảy, Lê Văn Minh. Bào muội: Lê Thị Hóa, Lê Thị Phụng, Lê Thị Hoàng. *Phu nhân: Bà Võ Thị Xương :Ông bà có 9 người con (4 trai, 5 gái):
Lê Thị Thu Nga, Lê Thị Thu Thủy, Lê Văn Quận, Lê Thị Thu Loan, Lê Văn Dinh, Lê Thị Thu Tâm, Lê Văn Trí, Lê Văn Hoàng, Lê Thị Thu Trang.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lê Văn Tư** (1931-2021), nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ bị
Dưới triều nhà Thanh (1644-1911), đã xảy ra hai vụ án lớn có liên quan đến văn tự, làm liên lụy nhiều người, đó là **vụ án Minh Sử** và **vụ án Điềm kiềm ký
**Án văn tự đầu đời Minh** hay **Ngục văn tự đời Minh** là tên chung dùng để chỉ những vụ án do chữ nghĩa mà ra, ngay sau khi nhà Minh được thành lập ở
**Giải thưởng Lê Văn Thiêm** là giải thưởng của Hội Toán học Việt Nam dành cho những người nghiên cứu, giảng dạy toán và học sinh giỏi toán xuất sắc ở Việt Nam được trao
Với sự nỗ lực phấn đấu không ngừng, Bệnh viện Lê Văn Thịnh được phân loại xếp hạng I theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế. Trong đó, luôn đề cao thái độ, phong cách
Với sự nỗ lực phấn đấu không ngừng, Bệnh viện Lê Văn Thịnh được phân loại xếp hạng I theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế. Trong đó, luôn đề cao thái độ, phong cách
**Tađêô Lê Hữu Từ** (28 tháng 10 năm 1897 – 24 tháng 4 năm 1967) là một giám mục Công giáo người Việt Nam, với khẩu hiệu giám mục là "Tiếng kêu trong hoang địa" (_Vox
**_Lê Vân, yêu và sống_** là tự truyện của nghệ sĩ múa, diễn viên điện ảnh Lê Vân, do nhà thơ nữ Bùi Mai Hạnh ghi, xuất bản bởi Nhà xuất bản Hội nhà văn,
nhỏ|Ông Lê Văn Trương **Lê Văn Trương** (1906-1964), bút hiệu **Cô Lý**, là nhà báo, nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Theo nhiều nhà nghiên cứu văn học Việt, hiện nay (2009), ông được
**Lê Văn Linh** (黎文靈 hay 黎文零, 1376 - 1448) là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, làm quan trải ba triều vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê
**Lê Văn Phong** (1769 - 1824) là tướng của chúa Nguyễn - Nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Ông sinh năm Kỷ Sửu (1769) tại làng Long Hưng, huyện Kiến Hưng,
**Lê Văn Hiến** (15 tháng 9 năm 1904 – 15 tháng 11 năm 1997) là một nhà cách mạng, chính trị gia, nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ Lao động nước Việt Nam
**Giuse Lê Văn Ấn** (1916–1974) là một giám mục Công giáo người Việt. Ông là giám mục tiên khởi của giáo phận Xuân Lộc, quản lý giáo phận này từ năm 1965 cho đến khi
**Lê Văn Hưng** (1933 - 1975) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Sĩ
**Lê Văn Huân** (1876 - 1929), hiệu **Lâm Ngu**; là một chí sĩ theo đường lối kháng Pháp ở đầu thế kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Ông
**Lê Văn Thảo** (1 tháng 10 năm 1939 – 21 tháng 10 năm 2016), quê quán tại tỉnh Long An, là một nhà văn Việt Nam, được xem là cây bút gạo cội trong dòng
**Lê Văn Thành** (20 tháng 10 năm 1962 – 22 tháng 8 năm 2023) là một chính trị gia Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Phó
**Lê Văn Hẳn** (sinh ngày 12 tháng 10 năm 1970) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Uỷ ban
**Lê Văn Hưu** (chữ Hán: 黎文休;1230-1322) là một nhà sử học đời nhà Trần, tác giả bộ _Đại Việt sử ký_, bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam. Bộ sách này không còn nhưng
**Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng** (sinh 1940) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng Giám mục Tổng giáo phận Huế, cũng từng giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng
**Lê Văn Hiểu** (tức Lê Tiến Hàn, hay Hàn Tiến, Trịnh Đào, Quan Phủ Tướng Hàn, 1601 - 1654) là một tướng lĩnh Việt Nam vào thế kỷ 17, thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ông sinh
** Giacôbê Lê Văn Mẫn** (1922 – 2001) là một linh mục được bí mật tấn phong Giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam. Ông được Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn
**Lê Văn Kỷ** (chữ Hán: 黎文紀; 1892-1959) là một nhà khoa bảng Việt Nam. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi 1919, khoa thi Nho học cuối cùng trong lịch sử khoa cử Việt Nam.
**Lê Văn Công** (sinh ngày 20 tháng 6 năm 1984) là một vận động viên cử tạ người Việt Nam. Anh là vận động viên Việt Nam đầu tiên đoạt huy chương vàng của Paralympic,
**Dương Ngọc Chúc** bút danh **Lê Văn Duy** hay **Lê Hằng** (15 tháng 9 năm 1942 – 27 tháng 1 năm 2024) là nhà văn, đạo diễn, biên kịch điện ảnh Việt Nam. Ông được
**Lê Vân** là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Phó Cục trưởng Cục An ninh chính trị nội bộ, Bộ Công an Việt Nam. ## Sự nghiệp Từ tháng 12
**Lê Văn Long** là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Hàm Vụ trưởng Vụ tổng hợp, Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Phó Chánh Văn phòng
**Emmanuel Lê Văn Phụng** là một câu họ theo đạo Công giáo, tử vì đạo dưới triều vua Tự Đức, được Giáo hội Công giáo Rôma phong Hiển Thánh vào năm 1988. Ông sinh năm
**Lê Văn Sao** (sinh năm 1967) là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với quân hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ chức vụ Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh
**Lê Văn An** (chữ Hán: 黎文安; 1384-1437) là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Mục Sơn nay là xã Xuân Bái huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, Việt
**Lê Vân** (tên đầy đủ **Trần Lê Vân**, sinh ngày 24 tháng 7 năm 1958 tại Hà Nội) là một nữ diễn viên điện ảnh, nghệ sĩ múa Việt Nam. Chị là con của hai
**Lê Văn Phước** (sinh năm 1958) là thẩm phán người Việt Nam. Ông từng là Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên (2010-2018). ## Năm sinh thật Lê Văn Phước khai sinh tháng
** Lê Văn Khoa** (sinh năm 1961) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
**Lê Văn Minh** (1958-2021) là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Từ tháng 8 năm 2011 đến tháng 8 năm 2018, ông giữ chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần -
**Lê Văn Thụ** (30 tháng 5 năm 1908 –1996) là luật sư từng giữ chức Phó Tổng Chưởng lý Tối cao Pháp viện Việt Nam Cộng hòa. ## Tiểu sử Lê Văn Thụ chào đời
**Lê Văn Vọng** (sinh năm 1947) là nhà thơ, nhà văn Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật vào năm 2022. ## Tiểu sử Lê Văn Vọng sinh ngày
**Lê Văn Tĩnh** (21 tháng 7 năm 1936 – 12 tháng 8 năm 2021) là một nhà giáo, đạo diễn người Việt Nam. Ông là thầy của nhiều nghệ sĩ như Trịnh Kim Chi, Trung
**Lê Văn Khoái** (12 tháng 7 năm 1913 – 22 tháng 10 năm 1977) là chính khách Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức Tỉnh trưởng Phước Tuy và Tỉnh trưởng Tây Ninh dưới thời
**Lê Trạc Tú** () (1533 hoặc 1534-1609) là một tể tướng và thượng thư thời Lê trung hưng. nay là vùng Cốc, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa, thuộc dòng dõi thế phiệt. ## Sự nghiệp
**Lê Văn Lành** (sinh năm 1960) là kiểm sát viên cao cấp người Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh. ## Tiểu sử Lê Văn
**Lê Văn Thành** (tên thường gọi: **Lê Thành**, sinh ngày 19 tháng 10 năm 1947) là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam và chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là đại
**Lê Văn Long** là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với quân hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ chức vụ Cục trưởng Cục Quản lý xây dựng và doanh
**Lê Văn Hoạch** (1896 – 1978) là Thủ tướng Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ từ tháng 11 năm 1946 đến tháng 9 năm 1947. ## Tiểu sử ### Thân thế Lê Văn Hoạch sinh
**Lê Thanh Tú** (sinh ngày 27 tháng 11 năm 1985) là một vận động viên môn cờ vua của Việt Nam. Trong bảng xếp hạng hiện tại của FIDE, Tú là một trong 4 nữ
**Lê Văn Thu** (15 tháng 8 năm 1915 – ?) là luật sư, nhà báo, giáo sư và Quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa. ## Tiểu sử Lê Văn Thu chào
**Lê Văn Huyên** (sinh năm 1964) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, Ông nguyên là Cục trưởng Cục Tổ chức thuộc Tổng cục chính trị
**Phaolô Lê Văn Lộc** là một linh mục tử vì đạo, được Giáo hội Công giáo Rôma tôn phong Hiển Thánh vào năm 1988. Ông sinh năm 1830 tại xã An Nhơn, phủ Tân Bình
**Phêrô Nguyễn Văn Tự** sinh năm 1796 tại xã Trực Phú, huyện Trực Ninh (nay là thị trấn Ninh Cường, huyện Trực Ninh), tỉnh Nam Định, thuộc Giáo phận Bùi Chu. Năm 1826 ông Tự
**Lê Ngọc Tú** (sinh ngày 9 tháng 10 năm 1990) là cầu thủ bóng rổ chuyên nghiệp hiện đang chơi cho Saigon Heat. ## Sự nghiệp câu lạc bộ ### Hochiminh City Wings ## Sự
**Lê Thái Tông** (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy **Lê Nguyên Long** (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại