nhỏ|Hoàng Kiêm
Hoàng Kiêm (chữ Hán: 黃兼; 1870-1939), tự Cấn Sơn, hiệu là Ngọc Trang (玉莊), là một danh sĩ thời Nguyễn. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi Giáp Thìn 1904, làm quan đến chức Tổng đốc Nam Nghĩa (tương ứng với 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi ngày nay), hàm Hiệp tá Đại học sĩ, tước Vinh Lộc đại phu.
Thân thế và khoa bảng
Ông còn có tên là Miện, sinh năm Canh Ngọ 1870 (tuy nhiên nhiều tài liệu ghi theo thông tin trên bia Tiến sĩ Văn miếu Huế là ông sinh năm Quý Dậu 1873), người thôn Ngọc Lâm, xã Hoàng Xá, tổng Quỳ Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu (nay thuộc xã Diễn Cát, huyện Diễn Châu), tỉnh Nghệ An.
Theo văn bia Hoàng tộc tự bi ký do chính ông biên soạn, hiện vẫn còn được bảo tồn tại nhà thờ Hoàng tộc đại tôn, gia tộc ông vốn là một nhánh của họ Hoàng ở quận Giang Hạ (Trung Quốc), di cư sang Đại Việt, dòng họ nhiều đời từng dỗ đạt khoa bảng dưới thời nhà Lê. Đến Tiên tổ Hoàng Khắc Quýnh định cư ở xã Hoàng Xà, gia sản giàu có, mới lập ra Tế điền (ruộng tế), Kỵ điền (ruộng giỗ chạp), Văn điền (ruộng hội văn), Võ điền (ruộng hội võ) khoảng 30 mẫu, để hằng năm con cháu lấy đó phàm kế thờ phụng tổ tiên.
Đến đời thân phụ ông là Hoàng Ngọc Quý, vốn là một người thông minh, trọng đạo nghĩa, nhưng khoa trường lận đận, nên sinh sống bằng nghề dạy học. Thân mẫu ông là bà Lê Thị Tường, sinh hạ được 5 người con nhưng lâm bệnh mất sớm khi ông mới 5 tuổi. Ông là người con thứ 3, gia cảnh vất vả, nên từ nhỏ ông cùng người em gái út thường xuyên được thân phụ đưa đến chỗ dạy để tiện chăm dưỡng. Mãi sau khi thân phụ ông lập kế thất, gia đình ông mới đỡ vất vả. Tư chất thông minh, lại được thân phụ nghiêm khắc sự giáo dưỡng, từ bé ông đã có tiếng là ngoan ngoãn hiếu thuận, sáng dạ, học giỏi... Giai thoại địa phương kể lại xưa mỗi bận đến trường ông phải qua sông Đò Đạu. Nhưng vì không có tiền đi đò, nên ngày 2 lần đi về, ông đều phải vấn áo quần lên đầu để lội qua sông.
Khi trưởng thành, ông theo học Cử nhân Nguyễn Thức Tự, làng Đông Chữ, huyện Chân Phúc (nay là xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An), vốn nổi tiếng có kiến thức uyên thông, cốt cách thanh tao. Năm 1897, niên hiệu Thành Thái thứ 9, ông dự thi Hương và đỗ Tú tài. Năm 1903, niên hiệu Thành Thái thứ 15, ông đỗ Cử nhân khoa thi Quý Mão. Năm sau, vào thi Hội, ông đỗ Tiến sĩ; vào Đình thì, được xếp thứ 2 trong bảng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Khi ông thi đỗ, thầy Đông Khê Nguyễn Thức Tự có câu đối chúc mừng:
:''Thí hậu đoạt bào, thiên vị tài hoa trang diện mục
:''Môn tiền lập tuyết, nhân tương hàn mặc nhuận giang sơn
Nghĩa là:
:''Thi dật áo bào, trời vì tài hoa điểm trang mày mặt
:''Học dầm sương tuyết, người đem bút mực tô vẽ non sông
Khi vinh quy, cả tổng Quan Trung quê ông đã long trọng chuẩn bị đón rước, riêng nhân dân 2 làng: Ngọc Lâm (nay là xã Diễn Thắng), là tổ quán, và Quảng Hà (nay là xã Diễn Cát), là sinh quán của ông, đã cùng nhau đóng góp dựng một ngôi nhà gỗ 3 gian ngay tại vườn nhà (tức mảnh vườn di tích hiện nay) để làm quà tặng chúc mừng.
Quan lộ
Sau khi thi đỗ, ông được triều đình bổ dụng làm Hàn lâm viện Biên tu. Tuy nhiên, đến năm 1906, thân phụ ông qua đời. Ông phải về quê cư tang 3 năm. Năm 1908, sau khi hết thời gian chịu tang, ông được triều đình bổ dụng làm Tri phủ Đức Thọ (Hà Tĩnh). Năm sau, ông được đổi làm Tri phủ Hà Thanh. Đến năm 1915, ông lại được điều về Kinh làm Lang trung bộ Hình. Năm 1918, ông được triệu làm Chánh chủ khảo khoa thi Hương ở trường thi Thừa Thiên Huế, sau đó được bổ dụng làm Án sát Thanh Hóa.
Năm 1921, ông được thăng làm Bố chính tỉnh Thanh Hóa. Cũng trong năm này, ông thay mặt dòng họ soạn văn bia Hoàng tộc tự bi ký biểu dương công đức tiên tổ, Tú tài Hàn lâm viện Hoàng Khắc Điển viết chữ. Nội dung văn bia vẫn còn được bảo tồn tại nhà thờ Hoàng tộc đại tôn.
Đầu năm 1924, ông được đổi làm chức Đồng thành phiên sứ tỉnh Quảng Bình. Năm 1925, ông được triều đình thăng làm Tuần vũ Hà Tĩnh. Nhân dịp này, Án sát Quảng Bình Ưng Bình có họa 2 bài thơ tiễn ông.
Thời bấy giờ, ở Trung kỳ nổ ra nhiều cuộc nổi dậy đấu tranh chống sưu cao thuế nặng của thực dân Pháp. Vốn là người đức độ, giàu lòng thương dân, lại đã từng trải qua cuộc sống nghèo khổ thuở thiếu thời, nên ông rất thông cảm với người dân. Vì vậy, thời gian này ông đã ngấm ngầm tìm cách giúp đỡ nhân dân và chống đối thực dân Pháp. Sách "Câu đối xứ Nghệ" có chép về việc ông đã từng bí mật dán lên cổng dinh Tuần phủ một đôi câu đối có nội dung phê phán nhắc nhở như sau:
:''Bần giả sĩ chi thường, vị bần nhi sĩ
:''Phú thị nhân sở dục, vi phú bất nhân"
Tạm dịch:
:''Kẻ sĩ nghèo là thường, vì nghèo nên phải học
:''Giàu sang ai cũng muốn, chớ vì làm giàu mà bất nhân."
Trước phản kháng của người dân, thực dân Pháp cho thành lập Viện dân biểu Trung kỳ để xoa dịu tình hình. Các nghị viên tham gia Viện dân biểu do các tầng lớp nhân dân bầu lên, có nhiệm vụ trực tiếp tư vấn cho chính quyền nhiều vấn đề về kinh tế, tài chính, an ninh, xã hội... Trong số các nghị viên của Viện dân biểu lúc bấy giờ có nhiều nhà yêu nước nổi tiếng như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thanh... Theo vị hiệu tại nhà thờ của ông, thì ông cũng từng được người dân bầu chọn vào Viện dân biểu Trung kỳ và trực tiếp giữ chức Hội trưởng Hội chu cấp An Định.
Năm 1927, ông được triều đình thăng làm Tổng đốc Nam Nghĩa. Thời gian làm Tổng đốc, ông dốc lòng chăm lo việc phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân. Ông cũng ra sức bảo vệ người dân trước sự quấy nhiễu và sưu cao thuế nặng của người Pháp. Năm 1929, do hạn hán diễn ra trên diện rộng, gây mất mùa, đói kém, ông đã đệ trình lên Khâm sứ Pháp đề nghị giảm sưu thuế và gia hạn thời gian nộp thuế cho nhân dân, đồng thời chưa cho cấp dưới thu thuế của nhân dân theo hạn định. Việc làm này của ông đã được nhân dân Quảng Nam biết ơn nhưng viên công sứ Pháp thì nổi nóng buông lời doạ dẫm. Bất bình trước thái độ láo xược đó, ông đã bất hợp tác với người Pháp. Ông thường xuyên đến thăm viếng chí sĩ Phan Bội Châu, bấy giờ đang bị thực dân Pháp bắt an trí tại Huế.
Năm 1930, ông xin hồi hưu. Triều đình thăng ông hàm Hiệp tá Đại học sĩ, cáo thụ Vinh Lộc đại phu, thụy Văn Ý, Tòng nhất phẩm. Hay tin ông từ quan, nhân dân Quảng Nam đã lưu luyến tiễn đưa ông và tặng ông các hoành phi, câu đối ca ngợi công đức của ông. Sách "Quan lại trong lịch sử Việt Nam" chép:
:"Ông làm quan to nhưng rất nghèo, có năm đến ngày tết mà nhà không có hương hoa cỗ bàn... Ông rất trong sáng, hiền từ, không giống bọn quan lại tham ô. Mà thường chú ý đến việc làm lợi cho nhân dân các địa phương... Khi ông rời đất Quảng Nam, dân ở đây đã tặng ông hai bức hoành phi, một bức đề bốn chữ "Vạn gia sinh Phật", một bức khác đề "Quảng Nam bồ tát". Vua Khải Định trong một đạo sắc đã ghi hai chữ "Thanh liêm" để công nhận phẩm chất của ông"
Những năm cuối đời
Sau khi hồi hưu, ông cùng gia đình sống ở Vinh một thời gian rồi về an dưỡng hẳn tại quê nhà. Với kiến thức và uy tín của mình, ông vận động và tổ chức nhân dân địa phương xây dựng nhiều công trình dân sinh như xây cống Thủy Quan ngăn nước mặn cho đồng điền ở 3 làng Ngọc Lâm, Phú Hậu, Nho Lâm; xây cầu Anh Liệt bắc qua sông Đại Vạc tạo điều kiện cho giao thông qua 2 làng Ngọc Lâm và Nho Lâm được thuận lợi; xây dựng đập Ba Ra Đô Lương và hệ thống kênh mương tưới tiêu nối từ đập Ba Ra đến đồng ruộng ở các làng xã ở 3 huyện phía Bắc Nghệ An là Diễn – Yên – Quỳnh.
Ông qua đời ngày 5 tháng 4 năm Kỷ Sửu (tức 23 tháng 5 năm 1939). Triều đình truy tặng ông hàm Thái tử Thiếu bảo. Mộ phần của ông được an táng đồng Cây Đa Đình, cách nhà thờ hiện nay chừng 3 km về phía Tây Nam. Để tỏ lòng kính trọng và ghi nhận công đức của ông, nhân dân địa phương đã lập bài vị phối thờ ông tại đền Hắc Y của làng Ngọc Lâm (nay là xã Diễn Thắng) để hương khói tri ân.
Hiện tại, mộ và nhà thờ của ông được đặt tại xóm 7, xã Diễn Cát, Diễn Châu, Nghệ An; được chính quyền tỉnh Nghê An công nhận là di tích lịch sử – văn hoá.
Di sản
Các tác phẩm thơ văn của ông chủ yếu được sáng tác trong thời gian về hưu tại quê nhà. Nội dung các bài thơ và câu đối của ông hầu hết đều mang nặng sự trăn trở trước cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, nhân dân lầm than, thiên tai mất mùa đói kém, túng quẫn của ngườc dân. Thơ của ông hầu hết bị thất tán, nay có một số bài đã được sưu tầm giới thiệu trong các sách "Câu đối xứ Nghệ".
Trước khi mất, ông để lại di chúc, trong có viết: ''"Sẽ làm nhà thờ tại nơi ở. Trước làm phòng đọc sách, sau đó là nhà thờ.Ta rất vui với ý nguyện đó".
Gia đình
Ông có ba người vợ. Chánh thất là bà Hoàng Thị Đoái, người cùng thôn. Bà sinh hạ cho ông 6 người con. Hai thứ thất là bà Phan Thị Hoè, người gốc Huế, sống tại Kỳ Anh, Hà Tĩnh, sinh hạ được 8 người con; và bà Tạ Thị Sáu, người Diễn Bình, Diễn Châu, Nghệ An, không có con.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Hoàng Kiêm **Hoàng Kiêm** (chữ Hán: 黃兼; 1870-1939), tự **Cấn Sơn**, hiệu là **Ngọc Trang** (玉莊), là một danh sĩ thời Nguyễn. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi Giáp
**Lãnh địa Giáo hoàng** hay **Nhà nước Giáo hoàng** (tiếng Ý: _Stato Pontificio_; tiếng Anh: _Papal States_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Giáo hội** hay **Quốc gia Giáo hội** (tiếng Ý: _Stato della
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Hoàng Dược Sư** (phồn thể:黃藥師, giản thể:黄药师, bính âm: _Huáng Yàoshī_) ngoại hiệu **Đông Tà**, biệt hiệu **Hoàng Lão Tà** là nhân vật trong tiểu thuyết _Anh hùng xạ điêu_ của Kim Dung. Ông cũng
**Elsa**, còn được biết đến với tên gọi **Nữ hoàng băng giá**, là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong bộ phim hoạt hình chiếu rạp thứ 53 của Walt Disney Animation Studios, _Nữ
**_Thư kiếm ân cừu lục_** (書劍恩仇錄) là một tiểu thuyết võ hiệp của nhà văn Kim Dung, được đăng trên _Tân vãn báo_ của Hồng Kông từ ngày 8 tháng 2 năm 1955 đến ngày
**Hoàng Văn Thái** (1915 – 1986), tên khai sinh là **Hoàng Văn Xiêm** là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và là một trong những tướng lĩnh có ảnh hưởng quan trọng trong
**Hải chiến Hoàng Sa** là một trận hải chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Trung Quốc xảy ra vào ngày 19 tháng 1 năm 1974 trên quần đảo Hoàng Sa.
**Cuộc khủng hoảng tại Venezuela** là cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và chính trị mà Venezuela đã trải qua từ năm 2010 dưới thời tổng thống Hugo Chávez và tiếp tục dưới thời
**Gioan Phaolô II** (hay **Gioan Phaolô Đệ Nhị;** tiếng Latinh: _Ioannes Paulus II_; tên khai sinh: **Karol Józef Wojtyła,** ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Không quân Hoàng gia Lào** (tiếng Pháp: _Aviation Royale Laotienne_ – AVRL; tiếng Anh: _Royal Lao Air Force_), là quân chủng không quân của Quân lực Hoàng gia Lào (FAR), quân đội chính thức của
nhỏ|phải|Linh dương được bảo tồn tại Nam Phi, các loài linh dương là một trong những loài được nỗ lực bảo tồn và có kết quả qua những dự án **Bảo tồn động vật hoang
**Hoàng Tuần Tài** (tiếng Anh: _Lawrence Wong Shyun Tsai_, sinh ngày 18 tháng 12 năm 1972), là một nhà chính trị, nhà kinh tế và cựu công chức người Singapore. Ông hiện đảm nhận chức
**_Harry Potter và Hội Phượng hoàng_**, hoặc **_Harry Potter và Mệnh lệnh Phượng hoàng_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Harry Potter and the Order of the Phoenix_**), là một bộ phim giả tưởng năm 2007 của
**Khủng hoảng dầu mỏ** là thời kỳ giá dầu mỏ tăng cao gây áp lực lớn cho nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 bắt đầu từ tháng 10 năm 1973 khi
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**_Nữ hoàng băng giá_** (còn gọi là _Băng giá_, ) là một bộ phim điện ảnh nhạc kịch kỳ ảo sử dụng công nghệ hoạt hình máy tính của Mỹ do Walt Disney Animation Studios
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế
**Quản lý loài hoang dã** (_Wildlife management_) hay **quản lý động vật hoang dã** là quá trình quản lý ảnh hưởng đến sự tương tác giữa động vật hoang dã, môi trường sống của chúng
còn gọi là hay là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Nhiều sách báo ở Việt Nam gọi là _Nhật Hoàng_ (日皇), giới truyền thông Anh ngữ gọi người
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Giáo hoàng Grêgôriô I** (Latinh: _Gregorius I_), thường được biết đến là **Thánh Grêgôriô Cả**, là vị giáo hoàng thứ 64 của Giáo hội Công giáo. Cùng với Giáo hoàng Lêôn I, ông được suy
**Honorius** (; 384 – 423), là một vị Hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã, ở ngôi từ năm 395 cho đến khi mất năm 423. Ông là người con út của Hoàng đế
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Trường Trung học Phổ thông Trần Phú - Hoàn Kiếm**, tiền thân là **Trường Petit Lycée**, rồi **Trường Albert Sarraut**. Là một trong các trường trung học phổ thông công lập hệ không chuyên nổi
**Hoàng Diệu** (chữ Hán: 黃耀; 1829 - 1882) là một quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882. ## Xuất
nhỏ|Những người [[thất nghiệp xếp hàng bên ngoài một nhà bếp từ thiện do Al Capone mở tại Chicago vào tháng 2 năm 1931, trong thời kì Đại khủng hoảng.]] liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:Real_GDP_of_the_United_States_from_1910-1960.svg|nhỏ|GDP thực tế hàng
**Khủng hoảng hiến pháp Nga năm 1993** là một cuộc cạnh tranh chính trị giữa phe phái của Tổng thống Nga với nghị viện Nga và phe cánh tả thân Cộng sản, rồi cuối cùng
**Khủng hoảng kinh tế** là một giai đoạn suy thoái kéo dài, liên tục trong hoạt động kinh tế ở một hoặc nhiều nền kinh tế. Đây là một cuộc suy thoái kinh tế nghiêm
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Nguyễn Phúc Bửu Kiêm** (chữ Hán: 阮福寶嵰; 1884 – 5 tháng 8 năm 1940), thường được gọi là **Ông Hoàng Mười**, tước phong **Hoài Ân vương** (懷恩王), là một hoàng tử con vua Dục Đức
**Hoàn Kiếm** là một quận cũ, trung tâm của thành phố Hà Nội, Việt Nam. Tên quận được đặt theo tên của hồ Hoàn Kiếm. Quận Hoàn Kiếm là trung tâm hành chính, chính trị,
**Hoàng Văn Trà** (sinh năm 1964) là một chính khách người Việt Nam. Ông hiện giữ chức Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương. Ông nguyên là Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ
**Tích Thiện Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 積善何皇后, ? - 22 tháng 1, năm 906.), cũng gọi **Tích Thiện Hà Thái hậu** (積善何太后), là Hoàng hậu dưới thời Đường Chiêu Tông Lý Diệp, mẫu thân
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
**Bệnh viện Đại học Y Dược - Hoàng Anh Gia Lai** (_tên tiếng Anh: Hoang Anh Gia Lai - University Medical Center_) là một bệnh viện đại học trực thuộc Tập đoàn Hoàng Anh Gia
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Giáo hoàng Gioan Phaolô I** (Latinh: _Ioannes Paulus PP. I_, tiếng Ý: _Giovanni Paolo I_, tên khai sinh là **Albino Luciani**, 17 tháng 10 năm 1912 – 28 tháng 9 năm 1978) là vị Giáo
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Nicôla I** (Latinh: Nicolaus I) là vị giáo hoàng thứ 105 của giáo hội Công giáo. Là người kế nhiệm Giáo hoàng Benedict III, Giáo hoàng Nicolau I được giáo hội suy tôn là thánh
nhỏ|phải|Một con mèo hoang nhỏ|Một con mèo con "hoang" (hình trái) và sau khi được thuần hóa chừng 3 tuần (hình phải). **Mèo hoang** hay còn gọi là **mèo mả** là những con mèo nhà
**Thục Gia Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần người gốc Triều
**Hoàng Nghĩa Mai** là kiểm sát viên cao cấp người Việt Nam. Ông nguyên là Phó Viện trưởng Thường trực Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam, trợ lý của ông Lê Hồng
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
là vị Thiên hoàng thứ 38 của Nhật Bản theo danh sách thiên hoàng truyền thống. Thời đại của ông bắt đầu từ năm 668 đến khi ông qua đời vào năm 672, nhưng trên
**Hoàng Quang Hàm** (sinh ngày 3 tháng 5 năm 1970) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021, thuộc đoàn đại
**Phan Hoàng Hải** là kiểm sát viên cao cấp người Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh. ## Tiểu sử Phan Hoàng Hải là Đảng