✨Hoàng Diệu

Hoàng Diệu

Hoàng Diệu (chữ Hán: 黃耀; 1829 - 1882) là một quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882.

Xuất thân

Hoàng Diệu tên thật là Hoàng Kim Tích, sau mới đổi là Hoàng Diệu, tự là Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai. Ông sinh ngày 10 tháng 2 năm Kỷ Sửu 14 tháng 3 năm (1829), trong một gia đình có truyền thống nho giáo tại làng Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (nay là thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Gia đình ông có 7 anh em và họ đều nổi tiếng là những người thông minh trong vùng. Sử chép rằng gia đình Hoàng Diệu có một người đỗ phó bảng, ba người đỗ cử nhân, hai người tú tài trong các kỳ thi dưới thời vua Tự Đức. Một trong những hậu duệ của ông là nhà toán học Hoàng Tụy.

Sự nghiệp

Hoàng Diệu là người nổi bật nhất trong số các anh em trong gia đình. Năm 20 tuổi ông đã đồng đỗ Cử nhân với anh trai Hoàng Kim Giám (khi ấy 23 tuổi) khoa Mậu Thân (1848) trong khoa thi Hương tại Thừa Thiên, năm 25 tuổi đỗ Phó bảng khoa Quý Sửu (1853), thời vua Tự Đức. Năm 1854, ông được vua Tự Đức bổ nhiệm làm Tri huyện Tuy Phước rồi Tri phủ Tuy Viễn (Bình Định)..

Được phục chức sau vụ "tẩy oan" Hồng Tập, Hoàng Diệu lần đầu ra Bắc năm 1868, làm Tri phủ Đa Phúc, rồi Tri phủ Lạng Giang (Bắc Giang), Án sát Nam Định, Bố chính Bắc Ninh. Trong chín năm ấy, ông lập nhiều quân công, dẹp trộm cướp và an dân, ở đâu ông cũng được sĩ dân quý mến.

Năm 1873 ông được triệu về kinh đô Huế giữ chức Tham tri Bộ Hình rồi Tham tri Bộ Lại, kiêm quản Đô Sát Viện, dự bàn những việc ở Cơ Mật Viện. Năm 1878, đổi làm Tuần phủ Quảng Nam, thăng Tổng đốc An Tịnh (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay), nhưng vì nguyên Tổng đốc Nguyễn Chính vẫn lưu nhiệm nên ông ở lại Huế, làm Tham tri Bộ Lại (Thực lục của Cao Xuân Dục). Chẳng bao lâu sau, ông được sung chức Phó Toàn quyền Đại Thần đàm phán với Sứ thần Tây Ban Nha một hiệp ước giao thương. Đầu năm 1880, ông làm Tổng đốc Hà Ninh, lãnh chức hàm Thượng thư bộ Binh, kiêm quản cả việc thương chính.

Biết rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp lúc bấy giờ, Hoàng Diệu bắt tay ngay vào việc chuẩn bị chiến đấu, kinh lý, biên phòng. Như Đại Nam chính biên liệt truyện đã nêu, tổng đốc Hà Ninh đã "cùng với tổng đốc tỉnh Sơn Tây Nguyễn Hữu Độ dâng sớ nói về việc bố phòng, lại cùng với Nguyễn Đình Nhuận mật tâu về chước phòng vị sẵn". Vua Tự Đức khen. "Nhưng sau đó - như trong di biểu nêu - vua lại trách cứ lưu binh... vì sợ giặc"... "chế ngự không đúng cách" (?)

Một mặt khác, Hoàng Diệu quan tâm ổn định chăm lo đời sống của dân chúng trong công bằng và trật tự. Ngày nay, ở Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, còn áp ở mặt tường cổng ra vào một phần tấm bia Lệnh cấm trừ tệ (Thân cấm khu tệ), niêm yết năm 1881, của Tổng đốc Hà Ninh Hoàng Diệu và Tuần phủ Hà Nội Hoàng Hữu Xứng, nhằm ngăn chặn các tệ nhũng nhiễu đối với nhân dân trong các dịp ma chay, cưới xin cũng như nạn vòi tiền, cướp bóc trên sông và ở các chợ, kèm theo các quy định cụ thể cần thi hành đến nơi đến chốn. Một di tích quý hiếm nói lên tấm lòng ưu ái của người công bộc mãi mãi còn giá trị của nó.

Từ 1879 đến 1882, Ông làm Tổng đốc Hà Ninh quản lý vùng trọng yếu nhất của Bắc Bộ là Hà Nội và phụ cận. Ông đã chỉ đạo quân dân Hà Nội tử thủ chống lại quân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận đầu hàng. Ngày 25 tháng 4 năm 1882 (tức ngày 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ), thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu đã tự vẫn tại Võ Miếu để không rơi vào tay đối phương.

Người Hà Nội vô cùng đau đớn trước cái chết của ông, ngay hôm sau, nhiều người họp lại, sắm sửa mền nệm tử tế, rước quan tài của Hoàng Diệu từ trong thành ra, tổ chức khâm liệm và mai táng tại khu vườn Dinh Đốc học (nay là địa điểm khách sạn Royal Star ở đường Trần Quý Cáp cạnh chợ Ngô Sĩ Liên, sau ga Hà Nội).

Hơn một tháng sau hai người con trai ông ra Hà Nội lo liệu đưa thi hài thân sinh về an táng ở quê quán vào mùa thu năm ấy.

Khu lăng mộ Hoàng Diệu, theo quyết định ngày 25 tháng 1 năm 1994 của Bộ Văn hóa Thông tin, được công nhận là một di tích lịch sử - văn hóa của Việt Nam.

Quyết tử với Hà thành

Năm 1873, sau khi chiếm được Nam Bộ, Pháp chuẩn bị tiến ra Bắc Bộ. Vua Tự Đức giao phó cho Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh. Ngay khi tới Hà Nội, Hoàng Diệu đã chú tâm tới việc xây dựng thành lũy chuẩn bị lực lượng để chống Pháp. Từ năm 1880 đến 1882, ông đã hai ba lần dâng sớ xin triều đình chi viện để củng cố phòng tuyến chống giặc tại Hà Nội, nhưng không nhận được hồi âm từ Huế.

Đầu năm 1882, lấy cớ Việt Nam không tôn trọng hiệp ước năm 1874 mà lại đi giao thiệp với Trung Hoa, dung túng quân Cờ Đen (một nhánh quân của Thái Bình Thiên Quốc) ngăn trở việc giao thông trên sông Hồng của người Pháp, Đại tá Henri Rivière của Hải quân Pháp cho tàu chiến cùng hơn 400 quân đóng trại tại Đồn Thủy (trên bờ bắc sông Hồng, cách thành Hà Nội 5 km) nhằm uy hiếp Hà Nội. Hoàng Diệu đã hạ lệnh giới nghiêm tại Hà Nội và bố cáo các tỉnh xung quanh sẵn sàng tác chiến, đồng thời yêu cầu viện binh từ triều đình Huế.

Tuy nhiên phái chủ bại của triều đình Huế đã thuyết phục vua Tự Đức chấp nhận mất miền Bắc để giữ an toàn cho ngai vàng. Vua Tự Đức đã hạ chiếu quở trách Hoàng Diệu đã đem binh dọa giặc và chế ngự sai đường. Nhưng Hoàng Diệu đã quyết tâm sống chết với thành Hà Nội. Các quan xung quanh ông Hoàng Diệu lúc bấy giờ có Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, Đề đốc Lê Văn Trinh, Bố chính Phan Văn Tuyển, Án sát Tôn Thất Bá và Lãnh binh Lê Trực đã cùng nhau uống rượu hòa máu tỏ quyết tâm sống chết với Hà thành.

nhỏ|phải|Quân Pháp tấn công thành Hà Nội Rạng ngày 25 tháng 4 năm 1882, tức ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ, Henri Rivière cho tàu chiến áp sát thành Hà Nội, đưa tối hậu thư, yêu sách ba điều:

  • Phá các tao tác phòng thủ trong thành.
  • Giải giới binh lính.
  • Đúng 8 giờ các vị quan văn võ trong thành Hà Nội phải thân đến trình diện với Henri Rivière. Sau đó, quân Pháp sẽ vào thành kiểm kê. Xong sẽ giao trả thành lại.

Hoàng Diệu tiếp tối hậu thư, liền sai Tôn Thất Bá đi điều đình. Nhưng không đợi trả lời, lúc 8 giờ 15, Rivière với 4 tàu chiến là La Fanfare, La Massue, La Hache, La Surprise (tàu này không kịp tới, vì mắc cạn dọc đường Hải Phòng đi Hà Nội) bắn vào thành yểm trợ cho số quân 450 người và một ít thân binh đổ bộ hòng chiếm thành Hà Nội.

Ngay trong những phút đầu tiên, hoàng thân Tôn Thất Bá chạy trốn vào làng Mọc (Nhân Mục) ở phía Đông Nam Hà Nội theo Pháp và thông báo tình hình trong thành Hà Nội cho họ. Đồng thời, Bá cũng dâng sớ lên vua Tự Đức đổ tội cho Hoàng Diệu và xin với Pháp cho Bá thay làm Tổng đốc Hà Ninh.

Tuy vậy, quân Pháp vẫn vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân dân Hà thành dưới sự chỉ huy của Hoàng Diệu. Quân Pháp bị thiệt hại nặng và phải rút ra ngoài tầm súng để củng cố lực lượng.

Nhưng trong lúc chiến sự diễn ra khốc liệt thì kho thuốc súng của Hà Nội nổ tung, do Việt gian mua chuộc bởi bọn Pháp làm. Một số nhà sử học còn đoán rằng nó liên quan tới phản thần Tôn Thất Bá. dẫn tới đám cháy lớn trong thành làm cho lòng quân hoang mang. Quân Pháp thừa cơ phá được cổng Tây thành Hà Nội và ùa vào thành. Bố chính Nguyễn Văn Tuyển, Đề đốc Lê Văn Trinh và các lãnh binh bỏ thành chạy, còn Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng trốn trong hành cung.

Trong tình thế tuyệt vọng, Hoàng Diệu vẫn tiếp tục bình tĩnh dẫn đầu quân sĩ chiến đấu chống lại quân Pháp dù lực lượng ngày càng yếu đi, không thể giữ được thành nữa. Cuối cùng, Hoàng Diệu đã ra lệnh cho tướng sỹ giải tán để tránh thương vong. Một mình Hoàng Diệu vào hành cung, thảo tờ di biểu, rồi ra trước Võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử, hưởng dương 54 tuổi.

Tờ di biểu, ông cắn ngón tay lấy máu viết di biểu tạ tội cho vua Tự Đức: :Thành mất không sao cứu được, thật hổ với nhân sĩ Bắc thành lúc sinh tiền. Thân chết có quản gì, nguyện xin theo Nguyễn Tri Phương xuống đất. Quân vương muôn dặm, huyết lệ đôi hàng....

Ông mất ngày 25 tháng 4 năm 1882, thọ 53 tuổi.

Tưởng niệm

nhỏ|Câu đối hai bên cổng [[Trung Liệt miếu trên Gò Đống Đa để tưởng nhớ Hoàng Diệu.]] Hoàng Diệu được đông đảo sĩ phu, nhân dân Hà Nội và Bắc Hà khâm phục thương tiếc. Ông được thờ trong đền Trung Liệt (cùng với Nguyễn Tri Phương) trên gò Đống Đa với câu đối: :''Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địa :Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thiên niên tâm sự cộng thanh thiên

Dịch: :Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đất :Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh

Vua Tự Đức mặc dầu không ủng hộ Hoàng Diệu trong việc chống đối với quân Pháp tại thành Hà Nội, vẫn phải hạ chiếu khen ông đã tận trung tử tiết, sai quân tỉnh Quảng Nam làm lễ quốc tang.

Tôn Thất Thuyết, một đại biểu nổi tiếng của sĩ phu kiên quyết chống Pháp đã ca ngợi ông trong hai câu đối: :Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện :Bình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâm

Dịch: :Một chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trước :Bình sanh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâm

Cụ Phó bảng Nguyễn Trọng Tỉnh có bài thơ điếu Hoàng Diệu, ghi lại trong Lịch sử vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe như sau: :Tay đã cầm bút lại cầm binh :Muôn dặm giang sơn nặng một minh :Thờ chúa, chúa lo, lo với chúa :Giữ thành, thành mất, mất theo thành :Suối vàng ắt hẳn mài gươm bạc :Lòng đỏ thôi đành gửi sử xanh :Di biểu nay còn sôi chính khí :Khiến người thêm trọng bút khoa danh.

Trích hai đoạn bút ký: *Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường: :Tôi có đi thăm mộ cụ Hoàng Diệu ở giữa cánh đồng Xuân Đài. Mộ không bề thế như tôi tưởng, còn quá nhỏ so với lăng mộ của những viên quan lớn vô tích sự trên triều đình Huế mà tôi vẫn thường thấy. Mộ là một nắm vôi khô nằm vùi giữa đồng cỏ voi, xa khu dân cư... :...Hồi nhỏ nhà nghèo, mẹ chăn tằm dệt lụa nuôi con ăn học. Hoàng Diệu lớn lên bằng tuổi trẻ gian khổ ở làng quê, buổi sáng sớm đi học chỉ súc miệng và nhịn đói, trưa về ăn một chén bắp nấu đậu, đến tối cả nhà chia mỗi người một bát cơm. Ngày nghe tin chồng tuẫn tiết, bà Hoàng Diệu đang cuốc cỏ lá de, ngất xỉu ngay trên bờ ruộng...Làm quan Tổng đốc mà nhà còn nghèo đến thế, huống là nhà dân...

*Nhà văn Sơn Nam: :Đi thăm mộ Hoàng Diệu, (nghe) lúc làm quan, có lần ông gửi về cho mẹ một vóc lụa. Bà mẹ không nhận, gửi trả lại cho con, kèm theo một nhánh dâu, tượng trưng cho ngọn roi, để cảnh cáo đứa con đừng nhận quà cáp gì của dân.

*Mượn ý bài "Chính khí ca" của Văn Thiên Tường, một Thừa tướng thời Tống mạt giúp vua không thành công và nguyện chết theo nhà Tống chứ không chịu đầu hàng nhà Nguyên - Ba Giai (Nguyễn Văn Giai) đã làm thành bài "Hà thành chính khí ca", ca ngợi lòng yêu nước và chí khí trung nghĩa lẫm liệt, thà chết chứ không chịu khuất phục của Tổng đốc Hoàng Diệu. Dưới đây là bài Hà thành chính khí ca (bản đã được in trong sách Văn cấp 3 cũ):

:Một vừng chính khí lưu hình, :Khoảng trong trời đất nhật, tinh, sơn, hà, :Hạo nhiên ở tại người ta, :Tấc gang son sắt hiện ra khi cùng. :Hơn thua trong vận truân phong, :Nghìn thu để tiếng Anh hùng sử xanh. :Có quan tổng đốc Hà Ninh :Hiệu là Quang Viễn, trung trinh ai bằng? :Lâm nguy, lý hiểm đã từng, :Vâng ra trọng trấn mới chừng ba năm :Thôn Hồ dạ vốn nhăm nhăm, :Ngoài tuy giao tiếp, trong chăm những là... :Vừa năm Nhâm Ngọ, tháng ba, :Sáng mai mồng tám, bước qua giờ thìn, :Biết cơ trước đã giữ gìn, :Hơn trăm vũ sĩ, vài nghìn tinh binh. :Tiên nghiêm lên đóng trên thành, :Thệ sư rót chén rượu quỳnh đầy vơi. :Văn quan vũ tướng nghe lời, :Hầm hầm xin quyết một bài tận trung. :Ra oai xuống lệnh vừa xong, :Bỗng nghe ngoài đã đùng đùng pháo ran. :Tiêm cừu nổi giận xung quan, :Quyết rằng chẳng để chi đàn chó dê. :Lửa phun súng phát bốn bề, :Khiến loài bạch quỷ hồn lìa phách xiêu :Bắn ra nghe chết cũng nhiều :Phố phường nghe thấy, tiếng reo ầm ầm. :Quan quân đắc chí bình tâm, :Cửa Đông, cửa Bắc vẫn cầm vững binh. :Chém cha cái lũ hôi tanh :Phen này quét sạch sành sanh mới là! :Nào ngờ thất ý tại ta, :Rõ ràng thắng trạng, hóa mà thua cơ! :Nội công rắp những bao giờ, :Thấy kho thuốc cháy, ngọn cờ ngả theo :Quan quân sợ chết thảy đều, :Cửa Tây, Bạch quỷ đánh liều trèo lên. :Nào ai cơm áo dốc đền? :Nào ai gìn giữ vững bền ba quân? :Nào ai còn chí kinh luân? :Nào ai nghĩ đến thánh quân trên đầu? :Một cơn gió thảm mưa sầu, :Nấu nung gan sắt, dãi dầu lòng son, :Chữ trung còn chút con con, :Quyết đem gửi cái tàn hồn gốc cây. :Trời cao biển rộng đất dày, :Núi Nùng sông Nhị chốn này làm ghi! :Thương thay gặp buổi truân nguy, :Lòng riêng ai chẳng thương vì người trung! :Rủ nhau tiền góp của chung, :Rước người ra táng ở trong học đường. :Đau đớn nhẽ, ngẩn ngơ dường! :Tả tơi thành quách, tồi tàn cỏ hoa! :Kể từ năm Dậu bao xa, :Đến nay tính đốt phỏng đà mười niên. :Long thành thất thủ hai phen, :Kho tàng hết sạch, quân quyền dời tan. :Đổi thay trải mấy ông quan, :Quyên sinh tựu nghĩa, có gan mấy người? :Trước quan Võ hiển khâm sai, :Sau quan Tổng đốc một vài mà thôi. :Ngoài ra võ giáp văn khôi, :Quan, bào, trâm, hốt nhác coi, ngỡ là... :Khi bình làm hại dân ta, :Túi tham mở rộng chẳng tha miếng gì. :Đến khi hoạn nạn lâm nguy, :Mặt trông ngơ ngác, chân đi gập ghềnh. :Võ như đề đốc Lê Trinh, :Cùng là chánh phó lãnh binh một đoàn, :Đang khi giao chiến ngang tàng, :Thấy cơ hầu đổ vội vàng nhót ngay. :Nghĩ xem thật cũng ghê thay, :Bảo thân chước ấy ai bày sẵn cho? :Lại còn nghe những mơ hồ :Rằng quan đề đốc dưới hồ cửa tây; :Kẻ rằng: treo ở cành cây :Kẻ rằng: hẳn dưới giếng này chẳng chơi. :Thăm tìm ngày một ngày hai, :Định rằng hợp táng ở nơi học đường. :Hỏi ra sau mới tỏ tường, :Cũng loài úy tử, cũng phường tham sinh. :Phép công nên bắt gia hình, :Rồi ra nặng chữ nhân tình lại thôi. :Văn như Tuần phủ nực cười, :Bình Chi là hiệu, năm mươi tuổi già. :Biết bao cơm áo nước nhà? :Kể trong sĩ tịch cũng là đại viên. :Chén son chưa cạn lời nguyền, :Thế mà bỗng chốc quên liền ngay đi? :Lại còn quanh quẩn làm chi? :Hay là thương tiếc vật gì ở đây? :Hay là có chước bình Tây, :Trước kia hoảng hốt sau này nghiên tinh? :Hay là tiếc cái xuân xanh? :Tìm nơi kiếm chốn gieo mình trú chân? :Hay là còn chút từ thân, :Đã toan tịch cốc mấy lần lại thôi! :Sao không biết xấu với đời? :Sao không biết thẹn với người tử trung? :Kìa Tôn Thất Bá niết công, :Kim chi ngọc diệp, vốn dòng tôn nhân, :Đã quốc tộc, lại vương thần, :Cũng nên hết sức kinh luân mới là... :Nước non vẫn nước non nhà, :Nỡ nào bán rẻ một tòa Thăng Long? :Thề xưa liệu đã chẳng xong, :Mặt nào còn đứng trong vòng lưỡng gian. :Tư giao rắp những mưu gian, :Thừa cơ xin dự hội thương ra ngoài. :Ấy mới khôn, ấy mới tài, :Lẩn đi tránh tiếng, giục người nói quanh. :Dâng công quyền lĩnh tỉnh thành, :Mà toan đổ tội một mình quan trên. :Tội danh thật đã quả nhiên, :Xin đem giao xuống cửu nguyên chế đài. :Lân la kể đến phiên đài, :Xỉ ban cũng đã tuổi ngoài sáu mươi. :Thác trong thôi cũng nên đời. :Sống thừa chỉ để kẻ cười, người chê! :Nhị hà, Tản lĩnh đi về, :Giang sơn tuyết chở, sương che cũng liều! :Còn như ty thuộc hạ liêu, :Kẻ công người quá còn nhiều:chan chan, :Biết đâu cho khắp mà bàn, :Sau này đã có sử quan thẩm bình, :Trước rèm gió mát trăng thanh :Thừa lương nhân chốn nhàn đình thong dong. :Xa trông tút vút Bình phong, :Chúc mừng vạn thọ thánh cung lâu dài! :Rồi ra cá nước duyên hài, :Ra tay khang tế, giở tài kinh luân. :Đã thánh quân lại hiền thần, :Có đâu mà chẳng quần dân thái hòa! :Bấy giờ ta lại với ta, :Tỉnh say dật hứng, ngâm nga tiêu sầu. :Hà thành văn vũ công hầu, :Càng nghe thấy chuyện càng rầu bên tai! :Diễn ca Chính khí một bài, :Để cho thiên hạ người người khuyên răn.

Để vang danh tên tuổi Hoàng Diệu, ông được đặt tên cho nhiều trường học và đường phố tại Việt Nam.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hoàng Diệu** (chữ Hán: 黃耀; 1829 - 1882) là một quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882. ## Xuất
**Đoàn Thanh niên Tuyên truyền Xung phong thành Hoàng Diệu** là một lực lượng võ trang tuyên truyền tự phát tồn tại từ 1945 đến 1947 ở nội thành Hà Nội, sau thuộc quyền chỉ
**Hoàng Phê** (ngày 5 tháng 7 năm Kỷ Mùi, 1919 - 29 tháng 1 năm Ất Dậu, 2005) là Giáo sư, một nhà từ điển học, chuyên gia về chính tả tiếng Việt. ## Tiểu
**Hoàng Tụy** (7 tháng 12 năm 1927 – 14 tháng 7 năm 2019) là một giáo sư, nhà toán học tiêu biểu của Việt Nam. Cùng với Giáo sư Lê Văn Thiêm, ông là một
Bánh Mì Xíu Mại Hoàng Diệu là điểm ăn sáng quen thuộc ở Đà Lạt, nổi tiếng với hương vị xíu mại thơm ngon, đậm đà và cách chế biến truyền thống. Một phần bánh
**Chiến dịch Hoàng Diệu (1955)** là chiến dịch của Quân đội Quốc gia Việt Nam, theo lệnh của Thủ tướng Ngô Đình Diệm, diễn ra từ ngày 21 tháng 9 năm 1955 và kết thúc
**Hoàng Diệu** là một xã thuộc huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Xã Hoàng Diệu có diện tích 8,06 km², dân số năm 1999 là 8.381 người, mật độ dân số đạt 1.040
**Cửa khẩu Hoàng Diệu** là cửa khẩu quốc gia đường bộ tại vùng đất xã Hưng Phước huyện Bù Đốp tỉnh Bình Phước, Việt Nam . _Cửa khẩu Hoàng Diệu_ thông thương với **cửa khẩu
**Chu Hoàng Diệu Linh** (sinh 1994) là nữ vận động viên Taekwondo người Việt Nam, từng thi đấu tại Thế vận hội Mùa hè 2012 tại Luân Đôn ở hạng cân 67 kg. Thành tích đáng
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Giáo hoàng Gioan Phaolô I** (Latinh: _Ioannes Paulus PP. I_, tiếng Ý: _Giovanni Paolo I_, tên khai sinh là **Albino Luciani**, 17 tháng 10 năm 1912 – 28 tháng 9 năm 1978) là vị Giáo
**Hoàng** hay **Huỳnh** (chữ Hán: 黃) là một họ ở Việt Nam. Ngoài ra họ **Hoàng** có thể tìm thấy ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Triều Tiên. Họ Hoàng trong tiếng Trung có
là Thiên hoàng thứ 40 của Nhật Bản theo thứ tự thừa kế ngôi vua truyền thống Nhật Bản. Triều đại của Tenmu kéo dài từ 673 cho đến khi ông qua đời năm 686.
nhỏ|phải|[[Giáo hoàng đối lập Felix II]] Giáo hoàng đối lập **Felix II** là được xem như một Giáo hoàng vào năm 355 sau khi Hoàng đế Constantinus II đưa đi lưu đày Giáo hoàng Liberius
Mộ Hoàng Kế Viêm tại làng Văn La,huyện Quảng Ninh, Quảng Bình **Hoàng Kế Viêm** (1820 - 1909) là phò mã và là một danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu
**Urbanô VII** là vị giáo hoàng thứ 228 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1838 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1590 và ở ngôi Giáo hoàng trong thời
nhỏ|235x235px|Quốc huy của [[Tòa Thánh]] Dưới đây là **danh sách các giáo hoàng** theo quốc gia nơi sinh ở thời cổ đại – Trung Cổ và theo quốc tịch ở thời hiện đại, được liệt
DẦU XOA BÓP ĐẠI LỰC HOÀNG - GIẢI PHÁP ĐẨY LÙI CƠN ĐAU XƯƠNG KHỚP AN TOÀN - HIỆU QUẢ NGAY SAU KHI SỬ DỤNGDẦU XOA BÓP ĐẠI LỰC HOÀNG ĐIỀU TRỊ: Bệnh Gút, tê
là Thiên hoàng thứ 108 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Triều Go-Mizunoo kéo dài từ năm 1611 đến năm 1629. ## Phả hệ Trước khi Go-Mizunoo lên ngôi Thiên hoàng,
**Thiên hoàng Viên Dung** (円融天皇 En'yū-tennō?, 12 tháng 4 năm 959 – 1 tháng 3 năm 991) là Thiên hoàng thứ 64 của Nhật Bản theo danh sách kế vị truyền thống. Triều đại của
Trong suốt lịch sử, một số thành viên của các gia tộc quân chủ và quý tộc có quan hệ cùng giới. Ngay cả ở những khu vực tài phán mà đồng tính luyến ái
Tại khách sạn, các phòng đều có bàn làm việc. Với phòng tắm riêng được trang bị vòi xịt/chậu rửa vệ sinh và đồ vệ sinh cá nhân miễn phí, các phòng tại Hoàng Linh
Kỹ sư **Hoàng Văn Đức** (1918 - 1996) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa đầu tiên, thuộc đoàn đại biểu Hà Nội. Sau khi trúng cử ông được bầu làm ủy viên Ban
còn gọi là hay là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Nhiều sách báo ở Việt Nam gọi là _Nhật Hoàng_ (日皇), giới truyền thông Anh ngữ gọi người
**Anh hùng xạ điêu** là phần mở đầu trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Xạ điêu tam bộ khúc của nhà văn Kim Dung. Trong truyện có nhiều nhân vật có tiểu sử riêng. Dưới
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Diêu Hưng** () (366–416), tên tự **Tử Lược** (子略), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Tần Văn Hoàn Đế** ((後)秦文桓帝), là một hoàng đế của nước Hậu Tần trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**_Thần điêu hiệp lữ_** () hay **_Thần điêu đại hiệp_** là một tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung. Tác phẩm được đăng tải lần đầu tiên trên tờ Minh báo vào ngày 20 tháng
**Hoàng Dược Sư** (phồn thể:黃藥師, giản thể:黄药师, bính âm: _Huáng Yàoshī_) ngoại hiệu **Đông Tà**, biệt hiệu **Hoàng Lão Tà** là nhân vật trong tiểu thuyết _Anh hùng xạ điêu_ của Kim Dung. Ông cũng
**_Anh hùng xạ điêu_** (; Hán Việt: **Xạ điêu anh hùng truyện**) là một trong những tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung được đánh giá cao, được _Hương Cảng Thương Báo_ xuất bản năm
nhỏ|Những người [[thất nghiệp xếp hàng bên ngoài một nhà bếp từ thiện do Al Capone mở tại Chicago vào tháng 2 năm 1931, trong thời kì Đại khủng hoảng.]] liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:Real_GDP_of_the_United_States_from_1910-1960.svg|nhỏ|GDP thực tế hàng
**_Nữ hoàng băng giá_** (còn gọi là _Băng giá_, ) là một bộ phim điện ảnh nhạc kịch kỳ ảo sử dụng công nghệ hoạt hình máy tính của Mỹ do Walt Disney Animation Studios
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế
**Biển Đức XVI** (cách phiên âm tiếng Việt khác là _Bênêđictô XVI_ hay _Bênêđitô_, xuất phát từ Latinh: _Benedictus_; tên khai sinh là **Joseph Aloisius Ratzinger**; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12
**Gioan Phaolô II** (hay **Gioan Phaolô Đệ Nhị;** tiếng Latinh: _Ioannes Paulus II_; tên khai sinh: **Karol Józef Wojtyła,** ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Thánh Giáo hoàng Phaolô VI** (tiếng Latinh: _Paulus VI_; tiếng Ý: _Paolo VI_, tên khai sinh: **Giovanni Battista Enrico Antonio Maria Montini**; 26 tháng 9 năm 1897 – 6 tháng 8 năm 1978) là giáo
**Giáo hoàng Piô XII** (Tiếng Latinh: _Pius PP. XII_, Tiếng Ý: _Pio XII_, tên khai sinh là **Eugenio Maria Giuseppe Giovanni Pacelli**, 2 tháng 6 năm 1876 – 9 tháng 10 năm 1958) là vị
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Giáo hoàng Phaolô III** (Tiếng Latinh: **Paulus III**, Tiếng Ý: _Paolo III_) (29 tháng 2 năm 1468 – 10 tháng 11 năm 1549) là vị Giáo hoàng thứ 220 của Giáo hội Công giáo Rôma.
**Lịch sử của chế độ Giáo hoàng** là một lịch sử lâu dài kéo dài trong suốt 2000 năm với rất nhiều sự kiện và biến động. Giáo hội Công giáo nhìn nhận Giáo hoàng
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của
**Elsa**, còn được biết đến với tên gọi **Nữ hoàng băng giá**, là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong bộ phim hoạt hình chiếu rạp thứ 53 của Walt Disney Animation Studios, _Nữ
**Hải chiến Hoàng Sa** là một trận hải chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Trung Quốc xảy ra vào ngày 19 tháng 1 năm 1974 trên quần đảo Hoàng Sa.
nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Sahara|Sahara tại Algérie]] nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Gobi|Gobi, chụp từ vệ tinh]] [[Ốc đảo tại Texas, Hoa Kỳ]] Một cảnh [[sa mạc Sahara]] **Hoang mạc** là vùng có lượng mưa rất
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc