Mạc Cảnh Huống (莫景貺, 1542-1677) là người xuất thân trong hoàng tộc nhà Mạc, em của Khiêm vương Mạc Kính Điển và đồng thời là chú của Quận chúa Mạc Thị Giai (người sau này trở thành vương phi của Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên). Ông được sử triều Nguyễn ghi nhận là một trong những bậc khai quốc công thần của nhà Nguyễn buổi sơ khai trên đất Thuận Hóa. Ông cũng là người sùng bái đạo Phật. Tương truyền, do Mạc Cảnh Huống chuyên tâm thực hiện những phương pháp thiền của Phật giáo mà ông đã sống tới hơn 100 tuổi.
Xuất thân
Quê gốc của Mạc Cảnh Huống ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương xưa (nay thuộc xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng), vốn là đất phát tích của nhà Mạc. Trong khi đất khởi tổ của dòng họ Mạc ở xã Cao Đôi, huyện Bình Hà, trấn Hải Dương, nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
Đại Nam liệt truyện tiền biên cũng có những dòng ghi chép về thân thế của Mạc Cảnh Huống: "Cảnh Huống người huyện Nghi Dương, thuộc Hải Dương, là em Khiêm Vương Mạc Kính Điển. Bà Hiếu Văn hoàng hậu (tức Mạc Thị Giai) là cháu gọi Mạc Cảnh Huống bằng chú. Năm Mậu Ngọ (1558), mùa đông, Thái Tổ (tức Nguyễn Hoàng) vào Nam trấn thủ Thuận Hóa. Cảnh Huống đem gia quyến đi theo, làm quan đến Thống binh, tham mưu trong màn trướng, giúp việc lúc khai quốc" (Bản dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1993 tập 1, trang 81).
Mạc Cảnh Huống tên húy là Lịch, xuất thân trong hoàng tộc nhà Mạc, là con út của Thái tông Mạc Đăng Doanh và thứ phi Đậu Thị Giang, xét theo thứ bậc thì Mạc Cảnh Huống đứng sau Hiển Tông Mạc Phúc Hải, Ninh Vương Mạc Phúc Tư, Khiêm Vương Mạc Kính Điển và Ứng vương Mạc Đôn Nhượng.
Theo gia phả của chi phái họ Mạc (sau đổi thành họ Nguyễn Trường dưới thời Tây Sơn) ở làng Trà Kiệu, xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam thì Mạc Cảnh Huống đã đưa gia quyến vào Thuận Hóa năm 1568 theo Nguyễn Hoàng. Lịch sử cũng như gia phả dòng họ Mạc không cho biết nhiều thông tin tại sao một người vốn xuất thân từ hoàng tộc nhà Mạc lại chọn con đường phò tá một nhân vật vốn thuộc phía đối địch với nhà Mạc như Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng.
Mạc Cảnh Huống cũng như anh ruột mình là Khiêm vương Mạc Kính Điển (?-1580), có tài năng trong lĩnh vực quân sự. Sau khi nhà Mạc thất thủ, người con gái của ông là quận chúa Mạc Thị Giai rời bỏ quê hương vào đất phương Nam lúc 15 tuổi, vào năm 1593 để tìm người chú ruột là Mạc Cảnh Huống. Có lẽ quận chúa Mạc Thị Giai đã đưa người em gái của mình là quận chúa Mạc Thị Lâu cùng vào Đàng Trong vào dịp này.
Tạo dựng quan hệ Mạc - Nguyễn
Năm 1564, Mạc Cảnh Huống lập gia đình với bà Nguyễn Thị Ngọc Dương, là em gái của phu nhân Đoan quốc công Nguyễn Hoàng. Và như vậy, Mạc Cảnh Huống và Nguyễn Hoàng là anh em đồng hao với nhau. Nếu căn cứ vào năm sinh của Mạc Cảnh Huống thì ông kém Nguyễn Hoàng (1525 - 1613) 17 tuổi.
Năm 1568, Mạc Cảnh Huống đã đưa gia quyến vào Thuận Hóa, có thể với mục đích tạo dựng cơ đồ lâu dài cho họ Mạc trên dải đất phương Nam trong thế đối chọi với nhà Lê-Trịnh (Lê Trung Hưng) ở phía Bắc. Mạc Cảnh Huống cũng như người anh của mình Khiêm vương Mạc Kính Điển (?-1580) là người có tài năng trong lĩnh vực quân sự. Ông giúp đã hoạch định chiến lược quân sự của họ Nguyễn (Nguyễn Hoàng) ngay từ buổi đầu dựng nghiệp trên vùng đất mới, cùng với Nguyễn Ư Kỷ và Tống Phước Trị được coi là ba bậc khai quốc công thần của nhà Nguyễn buổi sơ khai. So với hai công thần nói trên, Mạc Cảnh Huống là người phục vụ lâu dài nhất dưới thời các Chúa Nguyễn, trải qua 3 đời chúa nối tiếp nhau kể từ thời Chúa Tiên Nguyễn Hoàng qua Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho đến Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan.
Ông cũng là vị chỉ huy tối cao của quân đội Đàng Trong, người vạch ra chiến lược quân sự để chống quân Trịnh ở phía Bắc và bình định Chiêm Thành ở phương Nam. Dưới thời Nguyễn Hoàng, ông đã đóng góp nhiều công lao trong công cuộc Nam tiến, đánh chiếm Đồng Xuân và Tuy Hòa của Chămpa vào năm 1611, mở rộng bờ cõi Đại Việt về phía Nam. Để ghi nhận công lao của ông, năm 1617, chúa Tiên Nguyễn Hoàng tấn phong ông chức Nguyên huân Sư Thống thủ Thống Thái phó hay còn được gọi là Thống binh Thái phó và sau này còn được ban quyền mang họ của nhà Chúa là Nguyễn Phúc (đến thời Tây Sơn đổi thành Nguyễn Trường).
Dưới thời Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, ông đã có vai trò quan trọng trong đường lối hòa bình để bình định bộ tộc Man ở Ai Lao thường hay cướp bóc, quấy rối ở biên giới phía Tây năm Tân Dậu (1621). Tiếp đó, ông cũng góp phần vào chiến thắng quân Trịnh do các tướng Nguyễn Khải và Nguyễn Danh Thế theo lệnh của chúa Trịnh Tráng đánh vào Đàng Trong lần thứ nhất vào năm 1627 và ngăn chặn được sự tấn công lần thứ hai của quân Trịnh vào năm 1633.
Để đáp lại mối thâm tình về việc Mạc Cảnh Huống đã gả cháu gái Mạc Thị Giai cho mình, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên về sau gả con gái trưởng của mình là công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Liên cho con trai trưởng của Mạc Cảnh Huống là Mạc Cảnh Vinh và do được ban họ Chúa mà phò mã Mạc Cảnh Vinh còn có tên khác là Nguyễn Phúc Vinh.
Trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang và chỉ huy quân đội Đàng Trong trong nhiều năm cũng như từ những bài học của thực tiễn chiến tranh, Thống binh Thái phó Mạc Cảnh Huống đã giành tâm huyết biên soạn cuốn sách về phép dùng binh, có tên là Binh thư trận đồ nhưng sau này cuốn sách đã bị thất lạc. Sức mạnh của quân đội Đàng Trong có sự đóng góp quan trọng của Mạc Cảnh Huống với tư cách là tổng chỉ huy quân đội.
Mạc Cảnh Huống giúp phò tá Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan cho đến năm Mậu Dần (1638) mới xin từ quan ở tuổi 96 để chuyên tâm tu hành. Ông chọn làng Trà Kiệu, huyện Diên Phước, dinh Quảng Nam (nay là xóm Hoàng Châu, xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) để định cư và trở thành thủy tổ của tộc Mạc ở đây.
Các nhà viết sử triều Nguyễn sau này đã đánh giá cao sự đóng góp của Mạc Cảnh Huống trong việc xây dựng vương triều nhà Nguyễn buổi sơ khai: Khi Thái tổ Hoàng đế (chỉ Nguyễn Hoàng) vào Nam trấn Thuận Hóa, Tống Phước Trị sớm dâng bản đồ sổ sách trong xứ, lại cùng Uy Quốc công Nguyễn Ư Kỷ, Thống binh Mạc Cảnh Huống đồng tâm tận lực phụ tá vương thất, thật có công trạng trong thời quốc sơ vậy. Cảnh Huống dần dần làm quan tới chức Thống binh, góp mưu nơi màn trướng công lao phụ tá buổi quốc sơ ngang với Nguyễn Ư Kỷ, Tống Phước Trị.
Tìm về cõi Phật
Giống như nhiều người trong dòng tộc nhà Mạc, Mạc Cảnh Huống vốn là người rất sùng đạo Phật nên khi vào Đàng Trong, ông đã giúp cho làng Cổ Trai (Quảng Trị) xây dựng một ngôi chùa gọi là Lam Sơn Phật Tự. Sau khi từ quan, Mạc Cảnh Huống về sống ở làng Trà Kiệu (Quảng Nam), ông cho trùng tu ngôi chùa trên đồi Bảo Châu có tên gọi là Bảo Sơn Phúc hay Bảo Châu Sơn Tự và trụ trì với pháp danh Thuyền Cảnh Chân Tu. Tương truyền, do Mạc Cảnh Huống chuyên tâm thực hiện những phương pháp thiền của Phật giáo mà ông đã sống tới hơn 100 tuổi. Theo gia phả dòng họ cũng lời kể của dân làng, Mạc Cảnh Huống đã sống tới 135 tuổi, một tuổi thọ vô cùng hiếm có ở bất kỳ thời đại nào. Ông cũng được nhân dân hai làng Cổ Trai (Quảng Trị) và Trà Kiệu (Quảng Nam) tôn là vị thần bảo hộ cho dân làng và được kính ngưỡng như một vị Phật sống.
Ghi nhận công lao
Sử nhà Nguyễn sau này đã ghi nhận công lao của Mạc Cảnh Huống trong việc xây dựng vương triều nhà Nguyễn buổi sơ khai: Khi Thái tổ Hoàng đế (tức Nguyễn Hoàng) vào Nam trấn Thuận Hóa, Tống Phước Trị sớm dâng bản đồ sổ sách trong xứ, lại cùng Uy Quốc công Nguyễn Ư Kỷ, Thống binh Mạc Cảnh Huống đồng tâm tận lực phụ tá vương thất, thật có công trạng trong thời quốc sơ vậy. Cảnh Huống dần dần làm quan tới chức Thống binh, góp mưu nơi màn trướng công lao phụ tá buổi quốc sơ ngang với Nguyễn Ư Kỷ, Tống Phước Trị.
Khi vua Duy Tân lên ngôi (1907-1916) đã đánh giá lại công lao của các huân thần trong buổi sơ khai xây dựng vương triều nhà Nguyễn, đã ra Sắc phong ngày 24 thánh 12 năm Duy Tân thứ nhất (1907), truy phong Mạc Cảnh Huống (tức Nguyễn Trường Huống) là bậc khai quốc công thần của triều đại.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mạc Cảnh Huống** (莫景貺, 1542-1677) là người xuất thân trong hoàng tộc nhà Mạc, em của Khiêm vương Mạc Kính Điển và đồng thời là chú của Quận chúa Mạc Thị Giai (người sau này
**Hiếu Văn hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文皇后; 1578 - 1630), hay **Huy Cung Từ Thận Thuận phi** (徽恭慈慎順妃), nguyên là Chính thất của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, thân mẫu của chúa Nguyễn Phúc Lan. Theo
**Mạc** là một họ của người, có ở các quốc gia Á Đông như Trung Quốc, Việt Nam,... Riêng ở Việt Nam, có cả một triều đại phong kiến do những ông vua mang họ
**Nguyễn Cảnh Kiên** (阮景健 21 tháng 8 1553 - 4 tháng 8 1619) là một vị tướng thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, làm quan tới chức Tả Đô đốc Thượng tướng
Nước hoa NAM EYFEL M130 - Mùi hương ấm áp, quyến rũ và tinh tế - Hàng chính hãng từ Châu Âu Bắt đầu với ý tưởng từ thiên nhiên, không gian mở, bầu trời
**Mạc Kính Chỉ** (chữ Hán: 莫敬止 ? - 1593) là vị vua đầu tiên nhà Mạc thời hậu kỳ, sau khi quân Nam triều chiếm được thành Thăng Long với cái chết của cha con
✔️Hương đầu:Hoa Sen, Hoa Anh Thảo, Hoa Lan Nam Phi, Hương Dưa Lưới.✔️Hương giữa:Hoa Mẫu Đơn, Hoa Lily,Hoa Cẩm Chướng.✔️Hương cuối:Gỗ Đàn Hương, Xạ Hương,Hổ Phách.Nhóm hương:Oriental Fougere (Hương Thơm Thảo Mộc Phương Đông).Kiểu mùi:
nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Sahara|Sahara tại Algérie]] nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Gobi|Gobi, chụp từ vệ tinh]] [[Ốc đảo tại Texas, Hoa Kỳ]] Một cảnh [[sa mạc Sahara]] **Hoang mạc** là vùng có lượng mưa rất
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Mạc Thiên Tứ** (chữ Hán: 鄚天賜, , sinh ngày 12 tháng 12, 1699 hoặc 16 tháng 12, 1705 hoặc 1 tháng 1, 1718, mất ngày 18 tháng 6, 1780), tự là **Sĩ Lân** (士麟, ),
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
[[Hồ Tchad trong một bức ảnh vệ tinh năm 2001, với vùng nước màu xanh lam. Từ thập kỷ 1960, hồ đã co lại, giảm 95% diện tích.]] **Sa mạc hóa** hay **hoang mạc hóa**
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
Chân đèn trang trí họa tiết rồng thời Mạc **Nghệ thuật Đại Việt thời Mạc** phản ánh các thành tựu về nghệ thuật của nước Đại Việt dưới thời nhà Mạc từ năm 1527 đến
**Chiến dịch Sa mạc Tây** hay **Chiến tranh Sa mạc** diễn ra tại Sa mạc Tây thuộc Ai Cập và Libya là giai đoạn đầu của Mặt trận Bắc Phi thuộc Chiến tranh thế giới
**Mạc Kính Cung** (chữ Hán: 莫敬恭 ? - 1625) là vua nhà Mạc thời hậu kỳ, khi Bắc triều chấm dứt với cái chết của cha con Mạc Mậu Hợp và Mạc Toàn. ## Khôi
**Sa mạc Kyzylkum** (chữ Anh: Kyzylkum Desert, chữ Uzbek: Qizilqum, Қизилқум) là chỉ sa mạc lớn thứ mười lăm của thế giới. Chữ Kyzyl và chữ kum trong ngữ hệ Đột Quyết (bao gồm tiếng
**Mạc Phúc Tư** (chữ Hán: 莫福滋; 1524 - 1593), thụy hiệu là **Phúc Triệu**, tước Ninh vương (寧王), là tướng nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Cùng với những thân
**Mạc Đăng Lượng** (1496-1604) là một võ quan được phong tước Quốc công dưới triều Hậu Lê. Triều Mạc từng được phong chức Phó quốc vương dưới thời nhà Mạc và được Mạc Thái Tổ
**Mạc Tử Dung** (鄚子溶, ?-1780), là võ tướng trải hai triều chúa Nguyễn: Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Mạc Tử Dung là
**Mạc phủ Tokugawa** (Tiếng Nhật: 徳川幕府, _Tokugawa bakufu_; Hán Việt: _Đức Xuyên Mạc phủ_), hay còn gọi là **Mạc phủ Edo** (江戸幕府, _Giang Hộ Mạc phủ_), là chính quyền Mạc phủ ở Nhật Bản do
**Văn bia thời Mạc** là hệ thống những bia đá được dựng và khắc chữ văn bản dưới triều đại này. Hệ thống văn bia thời Mạc không chỉ là những tư liệu lịch sử
**Giáo dục khoa cử thời Mạc** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống trường học và chế độ khoa cử nước Đại Việt từ năm 1527 đến năm 1592 trong vùng nhà Mạc
**Mạc Cửu** (鄚玖), hay **Mạc Kính Cửu** (鄚敬玖): 1655 – 1735); là một thương gia người Hoa có công khai phá, hình thành vùng đất Hà Tiên (Kiên Giang) vào khoảng đầu thế kỷ XVII
**Nông nghiệp Đại Việt thời Mạc** phản ánh tình hình ruộng đất và sản xuất nông nghiệp nước Đại Việt dưới quyền cai quản của nhà Mạc trong khoảng thời gian từ 1527 đến 1592.
**Hang Mạc Cao** () hay còn gọi là **Hang động Ngàn Phật** hay **Thiên Phật Động** () là một hệ thống 492 ngôi đền nằm cách 25 km về phía đông nam trung tâm Đôn
**Nguyễn Cảnh Hà** (1583-1645) giữ chức Thiếu phó Tả tư mã Đô úy tước Thắng quận công. Người gốc xã Ngọc Sơn huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An. Làm tướng nhà Lê trung hưng trong
**Mạc Tử Thảng** (hay **Mạc Tử Thăng**, chữ Hán: 鄚子淌; ? – 1780), là thuộc tướng của chúa Nguyễn. Mạc Tử Thảng là con trai thứ hai của Mạc Thiên Tứ – nhà cai trị
**Mạc Mậu Hợp** (chữ Hán: 莫茂洽, 1560 – tháng 1 năm 1593) là vị hoàng đế Đại Việt thứ năm của nhà Mạc thời Nam – Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Ông lên
:_Về một bộ lạc người bản thổ Mỹ, xem Mohave._ **Hoang mạc Mojave**, người địa phương thường gọi là **High Desert** (có nghĩa là Hoang mạc trên cao), chiếm một phần lớn vùng đông nam
[Mẫu thử 2ml] Nước hoa Nam Eyfel Perfume- Chính hãng từ Châu ÂuCÓ 3 MÙI NƯỚC HOA NAM CHO AE LỰA CHỌN:------------------------------------------------------------------- EYFEL PERFUME M79: là sự kết hợp hoàn hảo giữa các nốt hoa
[Mẫu thử 2ml] Nước hoa Nam Eyfel Perfume- Chính hãng từ Châu ÂuCÓ 3 MÙI NƯỚC HOA NAM CHO AE LỰA CHỌN:------------------------------------------------------------------- EYFEL PERFUME M79: là sự kết hợp hoàn hảo giữa các nốt hoa
[Mẫu thử 2ml] Nước hoa Nam Eyfel Perfume- Chính hãng từ Châu ÂuCÓ 3 MÙI NƯỚC HOA NAM CHO AE LỰA CHỌN:-------------------------------------------------------------------EYFEL PERFUME M79: là sự kết hợp hoàn hảo giữa các nốt hoa trên
[Mẫu thử 2ml] Nước hoa Nam Eyfel Perfume- Chính hãng từ Châu ÂuCÓ 3 MÙI NƯỚC HOA NAM CHO AE LỰA CHỌN:------------------------------------------------------------------- EYFEL PERFUME M79: là sự kết hợp hoàn hảo giữa các nốt hoa
[Mẫu thử 2ml] Nước hoa Nam Eyfel Perfume- Chính hãng từ Châu ÂuCÓ 3 MÙI NƯỚC HOA NAM CHO AE LỰA CHỌN:-------------------------------------------------------------------EYFEL PERFUME M79: là sự kết hợp hoàn hảo giữa các nốt hoa trên
• Scent trên vỏ chai: cánh hoa xương rồng, dừa, vani #CACTUSBLOSSOM Em này nằm trong BST #Desert hay còn gọi là nhóm hương vùng Hoang Mạc, không điệu đà phá cách, không quyến rũ
**Lễ khai mạc Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021** được diễn ra vào tối thứ năm ngày 12 tháng 5 năm 2022 tại Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình ở thủ đô
**Mạc Tử Sanh** (鄚子泩, 1769- 1788), là nhà cai trị trấn Hà Tiên - Mueang Phutthai Mat; một vùng lãnh thổ nay thuộc cực Nam Việt Nam và một phần Campuchia. ## Thân thế &
**Mạc Kính Khoan** (chữ Hán: 莫敬寬 ? - 1638) là vua nhà Mạc thứ 3 thời hậu kỳ, khi đã rút lên Cao Bằng. Nguyên quán Mạc Kính Khoan là người xã Cao Đôi, huyện
**Chi Cỏ phấn hương** (danh pháp khoa học: **_Ambrosia_**) là một chi thực vật có hoa trong họ Cúc (Asteraceae). Tên gọi khoa học của chi này có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp _a-brotos_
**Thành nhà Mạc** ở tỉnh Lạng Sơn là một di tích lịch sử văn hóa ở phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. Đây là một trong số khá ít
thumb|Kalahari in Namibia **Hoang mạc Kalahari** là một khu vực lớn chứa cát bán khô cằn đến khô cằn ở miền nam châu Phi có diện tích khoảng 500.000 km². Nó chiếm 70% diện tích của
**Mạc Đĩnh Chi** (chữ Hán: 莫挺之 1272 – 1346), tên tự là **Tiết Phu** (節夫), hiệu là **Tích Am** (僻庵) là một quan đại thần và nhà ngoại giao nổi tiếng triều Trần trong lịch
Cảnh quan sa mạc Taklamakan Sa mạc Taklamakan tại [[lòng chảo Tarim.]] nhỏ|phải|Một [[quạt bồi tích khổng lồ giữa các dãy núi Côn Lôn và Altun-Tagh tạo thành ranh giới phía nam của sa mạc
**Nguyễn Cảnh Huy** (1473-1536) người làng Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An, là tướng nhà Lê trung hưng, tước Hoàng Hưu tử, Bình Dương hầu. Về sau được gia phong Phúc Khánh Quận
nhỏ| Sương mù từ Đại Tây Dương chuyển 100 hướng km về phía đông vào [[Hoang mạc Namib|Namib -Desert đến Aus
]] **Sa mạc sương mù** là một loại sa mạc nơi
phải|nhỏ|250x250px| Phạm vi sa mạc và cây bụi xeric **Vùng sa mạc và cây bụi xeric** là một loại môi trường sống được xác định bởi Quỹ Quốc tế Bảo vệThiên nhiên. Sa mạc và
thumb|Video Sahara và Trung Đông. **Sahara** (, __, nghĩa là _sa mạc lớn_) là sa mạc lớn nhất trên Trái Đất, là hoang mạc lớn thứ 3 trên Trái Đất (sau Châu Nam Cực và
**Sa mạc Aralkum** là một sa mạc mới xuất hiện từ năm 1960 trên khu vực đáy biển từng được phủ kín bởi biển Aral. Nó nằm ở phía nam và phía đông của những