✨Mạc phủ Tokugawa

Mạc phủ Tokugawa

Mạc phủ Tokugawa (Tiếng Nhật: 徳川幕府, Tokugawa bakufu; Hán Việt: Đức Xuyên Mạc phủ), hay còn gọi là Mạc phủ Edo (江戸幕府, Giang Hộ Mạc phủ), là chính quyền Mạc phủ ở Nhật Bản do Tokugawa Ieyasu thành lập và trị vì trong thời kỳ từ năm 1603 cho đến năm 1868 bởi các Chinh di Đại tướng quân nhà Tokugawa. Thời kỳ này còn gọi là Thời kỳ Edo (江戸時代; Giang Hộ thời đại), lấy từ tên nơi đóng bản doanh của mạc phủ là Thành Edo, nay là Hoàng cung Tokyo.

Sau thời kỳ Sengoku, chính quyền trung ương đã được tái lập phần lớn là nhờ công của Oda Nobunaga và Toyotomi Hideyoshi trong thời kỳ Azuchi-Momoyama. Sau trận Sekigahara năm 1600, chính quyền trung ương rơi vào tay Tokugawa Ieyasu, ông đã hoàn thành được đại nghiệp và được ban tước hiệu "Chinh di Đại tướng quân" vào năm 1603. Để trở thành Tướng quân, theo truyền thống phải là hậu duệ của gia tộc Minamoto.

Thời kỳ Tokugawa, không giống các Mạc phủ trước đó, được cho là lấy nền tảng từ hệ thống đẳng cấp cha truyền con nối nghiêm ngặt ban đầu do Toyotomi Hideyoshi thiết lập. Tầng lớp chiến binh samurai () là tầng lớp cao quý nhất, tiếp theo là nông dân (nông), thợ thủ công (công) và thương nhân (thương). Bản chất cứng nhắc của hệ thống đẳng cấp đã tạo ra trở lực đáng kể cho thời kỳ này. Thuế đối với nông dân luôn được giữ ở một mức cố định mà không tính tới lạm phát hay việc thay đổi tỷ giá tiền tệ. Kết quả là, tổng số thuế mà các samurai chúa đất thu được ngày càng giảm sút. Điều này cũng dẫn đến hàng loạt cuộc đối đầu giữa quý tộc và các samurai nghèo đói với những người nông dân giàu có, từ các cuộc va chạm lẻ tẻ ở địa phương đến những cuộc nổi loạn lớn. Tuy vậy, không có cuộc nổi dậy nào đủ mạnh để có thể thách thức thể chế đã được thiết lập, cho đến khi ngoại binh xuất hiện.

Cho đến cuối thế kỷ 19, liên minh giữa vài lãnh chúa đại danh hùng mạnh với vị Thiên hoàng trên danh nghĩa cuối cùng đã lật đổ được Mạc phủ sau chiến tranh Mậu Thìn, với đỉnh cao là cuộc Minh Trị Duy Tân. Mạc phủ Tokugawa chính thức chấm dứt năm 1868, với sự thoái vị của Tướng quân thứ 15 của nhà Tokugawa, Tokugawa Yoshinobu và "sự khôi phục" của Hoàng quyền (Ōsei fukko).

:Xem Mạc mạt để biết thêm chi tiết.

Chính quyền

Mạc phủ và các Han (phiên)

nhỏ|Tướng quân Tokugawa Ieyasu

Mạc phiên thể chế (bakuhan taisei ) là hệ thống chính trị phong kiến vào thời kỳ Edo ở Nhật Bản. "Baku", hay "cái màn", là cách viết tắt của "bakufu", nghĩa là "chính quyền quân sự" ("Mạc phủ’’). Han ("phiên") là các lãnh địa do đại danh đứng đầu.

Các chư hầu nắm giữ đất đai được thừa kế và cung cấp quân đội cho vị chúa tể của mình. Mạc phiên thể chế chia quyền lực phong kiến giữa Mạc phủ ở Edo và các lãnh địa ở tỉnh trong toàn cõi Nhật Bản. Các tỉnh có một mức độ tự trị nhất định và được cho phép tự quản các phiên để đối lấy lòng trung thành với Chinh di Đại tướng quân, người chịu trách nhiệm quan hệ đối ngoại và an ninh quốc gia. Tướng quân và các lãnh chúa đều là đại danh: lãnh chúa phong kiến với chính quyền, chính sách và lãnh thổ riêng. Chinh di Đại tướng quân cũng là đại danh nắm quyền lực lớn nhất, cha truyền con nối thái ấp của nhà Tokugawa. Mỗi cấp chính quyền thực hiện một hệ thống thuế khóa riêng.

Mạc phủ có quyền thủ tiêu, sáp nhập và chuyển đổi các lãnh địa. Hệ thống luân phiên trình diện (sankin-kotai) yêu cầu mối đại danh phải sống ở cả các phiên của mình lẫn hiện diện ở Edo. Khi họ không ở Edo thì họ phải để lại gia đình mình làm con tin cho đến khi trở về. Tác dụng tuyệt vời của luân phiên trình diện giúp tập trung quyền lực trung ương và đảm bảo lòng trung thành với Tướng quân vì mỗi đại diện ở Edo đều vừa là con tin của Mạc phủ.

Các hậu duệ của nhà Tokugawa còn muốn đảm bảo lòng trung thành hơn nữa bằng cách nhấn mạnh vào một lòng trung thành giáo điều với Chinh di Đại tướng quân. Các đại danh Fudai là các daimyo là chư hầu của Ieyasu và con cháu của họ. Tozama, hay "người ngoài", trở thành chư hầu của Ieyasu sau trận Sekigahara. Shimpan, hay "họ hàng", là những người có quan hệ bà con với Tokugawa Hidetada. Vào đầu thời Edo, Mạc phủ xem Tozama là những người kém trung thành với mình; qua thời gian, những cuộc hôn nhân chính trị và việc hệ thống chính quyền ngày càng được củng cố ít nổi loạn hơn. Cuối cùng, các Tozama lớn của phiên Satsuma, Chōshū, Tosa và ở một mức độ ít hơn là cả Hizen nữa đã lật đổ Mạc phủ Bốn phiên này được gọi là Bốn gia tộc phía Tây hay ngắn gọn là Satchotohi.

Số lượng các han (khoảng 250) luôn dao động trong suốt thời Edo. Chúng được xếp hạng theo kích cỡ, được đo bằng số lượng koko mà mỗi phiên sản xuất ra mỗi năm. Một koku là số lượng gạo có thể nuôi sống được một người đàn ông trưởng thành trong một năm. Số lượng nhỏ nhất cho một đại danh là 10.000 koku; lớn nhất, trừ Tướng quân, là một triệu.

Tướng quân và Thiên hoàng

Bất chấp việc thiết lập Mạc phủ, Thiên hoàng ở kinh đô Kyoto vẫn là người thống trị trên danh nghĩa ở Nhật Bản. Nhật Bản được triều đình Kyoto giao cho gia tộc Tokugawa, cho đến khi họ giành lại quyền lực trong cuộc Minh Trị Duy Tân.

Mạc phủ bổ nhiệm một người đại diện của mình gọi là Kyoto Shoshidai (Kinh Đô Sở Tư Đại), để giải quyết công việc với Thiên hoàng, triều đình và các quý tộc ở Kyoto.

Tướng quân và ngoại thương

[[Chu ấn thuyền của Nhật Bản năm 1634]] Cổng Sakurada ở thành Edo, trung tâm quyền lực của nhà Tokugawa

Ngoại vụ và ngoại thương do Mạc phủ độc quyền, mang lại một nguồn lợi to lớn. Ngoại thương cũng được các phiên bang Satsuma và Đối Mã Phủ Trung cho phép.

Chuyến viếng thăm của các con tàu Nanban từ Bồ Đào Nha ban đầu là cầu nối ngoại thương duy nhất, tiếp theo đó là người Hà Lan, Anh, và đôi khi là cả các con tàu Tây Ban Nha.

Từ năm 1600 trở đi, Nhật Bản bắt đầu tham gia một cách chủ động vào ngoại thương. Năm 1615, một đoàn sứ thần và thương nhân do Hasekura Tsunenaga dong buồm ra Thái Bình Dương đến Nueva Espana (Tân Tây Ban Nha, sau này bị Mĩ chiếm do thua trận) con thuyền buồm lớn của người Nhật San Juan Bautista. Cho đến năm 1635, Tướng quân đã cấp rất nhiều giấy phép cho các "Chu ấn thuyền" với sứ mệnh giao thương với châu Á.

Năm 1635 với sự ra đời của Luật bế quan tỏa cảng (Tỏa Quốc), chỉ các chuyến tàu hồi hương mới được phép cập bờ, từ Trung Quốc, Triều Tiên và Hà Lan. Tuy Nhật Bản giới hạn nghiêm ngặt việc giao thương với người nước ngoài, điều này không có nghĩa là ngoại thương hoàn toàn chấm dứt. Người Nhật vẫn buôn bán với nhà Triều Tiên thông qua đảo Đối Mã, nhà Thanh qua Nam Tây Chư Đảo và Hà Lan qua thương điếm Dejima (Xích Đảo), một hòn đảo nhân tạo nằm ngoài khơi cảng Nagasaki. Nhờ sự tiếp xúc với người Hà Lan, các nghiên cứu khoa học của phương Tây vẫn tiếp tục được tiếp thu trong thời kỳ này với cái tên "Lan học" (rangaku), cho phép người Nhật học hỏi và làm theo phần lớn các bước của Cách mạng khoa học và Cách mạng công nghiệp..

Thể chế Mạc phủ

Rōjū và wakadoshiyori

Rōjū () là những thành viên cao cấp của Mạc phủ. Họ giám sát các ōmetsuke, machibugyō, ongokubugyō và các quan lại khá, quản lý quan hệ với Triều đình Kyoto, kuge (thành viên quý tộc), đại danh, chùa chiền và đền thờ Thần đạo. Bình thường, có từ 4 đến 5 người ở trong cơ quan này, và mỗi người đảm nhiệm chức vụ này trong một tháng dựa trên cơ chế luân phiên. Họ bàn bạc các vấn đề đặc biệt quan trọng. Trong cuộc cải cách quan lại năm 1867, cơ quan này bị dỡ bỏ và thay vào đó là hệ thống các cơ quan với các bộ nội vụ, tài chính, ngoại giao, quân sự và hải quân.

Trên nguyên tắc, yêu cầu để được bổ nhiệm vào rōjū gồm phải là daimyo fudai và phải sở hữu một thái ấp 50.000 koku trở lên. Tuy vậy, có một số ngoại lệ với tất cả các tiêu chuẩn. Nhiều người được đề bạt vào chức vụ này là người thân tín của Chinh di Đại tướng quân, ví dụ như soba yōnin, Kyoto shoshidai, và Osaka jōdai.

Đôi khi, các Tướng quân bổ nhiệm một rōjū làm đại lão (tairō). Vị trí này chỉ do thành viên của các gia tộc Ii, Sakai, Doi, và Hotta nắm giữ, nhưng Yanagisawa Yoshiyasu cũng từng được phong chức đại lão. Trong số họ, người nổi tiếng nhất Ii Naosuke, ông bị ám sát năm 1860 ở ngoài cửa Sakurada ở thành Edo.

Wakadoshiyori là vị trí thấp hơn của rōjū. Ban đầu cơ quan này có sáu người rokuninshū (1633–1649), cơ quan này được đặt tên và được tổ chức hoàn thiện năm 1662, với 4 thành viên. Trách nhiệm quan trọng của họ là quản lý mối quan hệ với các hatamoto và gokenin, các chư hầu trực tiếp của Tướng quân.

Vài Tướng quân bổ nhiệm các vị trí soba yōnin. Người này giữ vai trò liên lạc giữa Tướng quân và rōjū. Soba yōnin trở nên quan trọng hơn dưới thời Tướng quân thứ 5 là Tokugawa Tsunayoshi, khi một wakadoshiyori, Inaba Masayasu, ám sát đại lão Hotta Masatoshi. Lo sợ cho sự an nguy của mình, Tsunayoshi chuyển các rōjū đến một khu vực xa hơn của lâu đài. Một số soba yōnin nổi tiếng là Yanagisawa Yoshiyasu và Tanuma Okitsugu.

Ōmetsuke và metsuke

Ōmetsuke và metsuke là các quan lại báo cáo công việc của mình với rōjū và wakadoshiyori. Năm ōmetsuke chịu trách nhiệm giám sát các sự vụ của các daimyo, kuge và triều đình. Họ cũng lãnh trách nhiệm khám phá bất kỳ nguy cơ nổi loạn nào.

Đầu thời Edo, những đại danh như Yagyū Munefuyu đứng đầu cơ quan này. Tuy vậy, sau đó, nó rơi vào tay các hatamoto với thứ bậc từ 5.000 koku trở lên. Để cho họ thêm quyền lực trong công việc với các daimyo, họ được xếp vào hạng 10.000 koku và được ban tước hiệu "kami" (một tước hiệu cổ, đặc biệt là để chỉ tỉnh trưởng các tỉnh như Bizen-no-kami.

Thời gian trôi qua, chức năng của ōmetsuke thay đổi thành người truyền lệnh của Mạc phủ đến các đại danh, và thực thi các nghi lễ trong lâu đài Edo. Họ cũng nhận thêm các trách nhiệm nữa như giám sát các sự vụ tôn giáo và kiểm soát súng ống.

Metsuke, dưới quyền wakadoshiyori, giám sát các sự vụ với chư hầu của Chinh di Đại tướng quân. Họ là lực lượng cảnh bị khoảng 10.000 người của hatamoto và gokenin tập trung ở Edo. Các phiên riêng rẽ đều có metsku của riêng mình, họ cũng làm nhiệm vụ bảo an tương tự cho các samurai.

San-bugyō

San-bugyō ("Tam Phụng Hành") là jisha, kanjō, and machi-bugyō, giám sát chùa và đền, và đôi khi là cả các thành phố. Jisha bugyō là vị trí cao nhất. Họ giám sát việc quản lý các chùa chiền đạo Phật (ji) và các đền thờ Thần đạo (sha), rất nhiều trong số họ nắm giữ các thái ấp. Họ cũng giải quyết các vụ kiện tụng của vài chúa đất ở ngoài tám tỉnh vùng Kantō. Đa phần những người được bổ nhiệm vốn là các đại danh nhưng Ōoka Tadasuke là một ngoại lệ, mặc dù sau này ông cũng trở thành đại danh.

Kanjō bugyō là vị trí tiếp theo. Bốn người ở cơ quan này nằm dưới quyền của rōjū. Họ chịu trách nhiệm các vấn đề tài chính của Mạc phủ.

Machi bugyō là người đứng đầu Edo và các thành phố khác. Vai trò của họ bao gồm thị trưởng, chỉ huy trưởng cảnh sát (và, sau đó, là đội cứu hỏa), và quan tòa cho các vụ án dân sự và hình sự không liên quan đến samurai. Hai người (đôi khi là ba), thường là hatamoto, nắm giữ chức vụ này, và được thay thế hàng tháng.

Ba machi bugyō của Edo đã trở nên nổi tiếng qua jidaigeki (phim truyền hình): Ōoka Tadasuke và Tōyama Kinshirō với vai anh hùng, và Torii Yōzō với vai kẻ xấu.

San-bugyō cùng nằm trong một hội đồng gọi là hyōjōsho. Với tư cách này, họ chịu trách nhiệm trông nom các tenryō, giám sát các gundai, daikankura bugyō, cũng như xét xử các vụ việc liên quan đến samurai.

Tenryō, gundai và daikan

Chinh di Đại tướng quân trực tiếp nắm giữ đất đai ở rất nhiều vùng của Nhật Bản. Họ được gọi là bakufu chokkatsuchi; kể từ thời Minh Trị, nó đồng nghĩa với cụm từ tenryō. Ngoài các vùng đất mà Ieyasu đã nắm giữ từ trước trận Sekigahara, nó còn bao gồm đất đai mà ông chiếm được trong trận đánh và đất đại có được sau hai cuộc vây hãm thành Osaka mùa hè và mùa đông. Cho đến cuối thế kỷ 17, số đất đai trong tay Tướng quân đã lên đến 4 triệu koku. Các thành phố lớn như Nagasaki và Osaka, và các mỏ, bao gồm mỏ vàng Sado, cũng nằm trong số này.

Thay vì bổ nhiệm các đại danh đứng đầu số đất đai này, Mạc phủ đặt ra những người quản nhiệm. Vị trí quản nhiệm này bao gồm gundai, daikan, và ongoku bugyō. Loại cuối cùng bao gồm Osaka, Kyoto và Sumpu machibugyō, và Nagasaki bugyō. Những người giữ vị trí này đều là hatamoto.

Gaikoku bugyō

Gaikoku bugyō là các quan lại được bổ nhiệm trong khoảng từ 1858 đến 1868. Họ chịu trách nhiệm giám sát các công việc ngoại thương và ngoại giao với nước ngoài, và đặt trụ sở ở các thương cảng Nagasaki và Kanagawa (Yokohama).

Mạc mạt (1853-1867)

[[Tokugawa Keiki|Tokugawa Yoshinobu, Tướng quân cuối cùng trong bộ quân phục Pháp, năm 1867]] Thời kỳ Mạc Mạt ( Bakumatsu) là thời kỳ từ 1853 đến 1867, khi Nhật Bản chấm dứt chính sách bế quan toả cảng (Tỏa Quốc - "Sakoku") và tiến hành hiện đại hóa từ Mạc phủ phong kiến thành triều đình Minh Trị. Đây là sự chấm dứt của thời kỳ Edo, mở đầu thời kỳ Minh Trị. Các phe phái chính trị, tư tưởng lớn của thời kỳ này chia thành những người bảo hoàng Ishin Shishi (những người dân tộc yêu nước) và lực lượng Mạc phủ, bao gồm lực lượng shinsengumi ("Tân Tuyển Tổ"). Mặc dù hai nhóm này có quyền lực lớn nhất, rất nhiều phe phái khác cũng nhân tình hình hỗn loạn để giành lấy quyền lực cá. Thêm nữa, có hai yếu tố chính dẫn đến sự bất đồng:

  • Sự bất mãn ngày càng tăng của các đại danh tozama. Điều này liên quan đến các lãnh chúa đã chống lại quân đội Tokugawa tại Sekigahara năm 1600 và vì thế họ không bao giờ được nắm các vị trí quan trọng trong hệ thống chính quyền Mạc phủ.
  • Năm 1854, Phó đề đốc Hải quân Hoa Kỳ Matthew C. Perry mang một hạm đội chín chiếc tàu chiến tới buộc Nhật Bản mở cửa, chấm dứt thời kỳ bế quan tỏa cảng. Nhưng người Mỹ đã bắt chính quyền Mạc phủ ký một hiệp định buôn bán bất bình đẳng. Tiếp đó, các nước như Anh, Hà Lan, Pháp, Nga,... cũng đua nhau tới và ép Mạc phủ ký các hiệp ước tương tự. Việc mất đi một loạt chủ quyền quốc gia khiến Nhật Bản đứng trước cuộc khủng hoảng dân tộc và này gây bất mãn trong quần chúng nhân dân. Lý do thứ hai được phản ánh trong thành ngữ sonnō jōi (Tôn Hoàng, Nhương Di), tức nâng cao uy tín Thiên hoàng, đánh đuổi người ngoại quốc ra khỏi xứ sở. Các Phiên ở vùng Tây Nam Nhật Bản - vốn từ lâu bất mãn với Mạc phủ - đã nhân cơ hội này đi rêu rao khắp nơi rằng chính quyền Mạc phủ câu kết với người nước ngoài, bán đứng chủ quyền quốc gia; mưu dùng chiêu bài "Tôn hoàng, nhương di" để lật đổ chế độ Mạc phủ.

Bước ngoặt của thời Mạc mạt là chiến tranh Mậu Thìn và trận Toba-Fushimi khi quân đội Mạc phủ bị đánh bại, uy quyền của Hoàng gia được khôi phục.

Danh sách Tướng quân nhà Tokugawa

Trong suốt thời kỳ Edo, những người họ hàng giàu ảnh hưởng của Tướng quân bao gồm:

  • Tokugawa Mitsukuni của lãnh địa Mito.
  • Tokugawa Nariaki của lãnh địa Mito.
  • Tokugawa Mochiharu của chi Hitotsubashi.
  • Tokugawa Munetake của chi Tayasu.
  • Matsudaira Katamori của chi Aizu.
  • Matsudaira Sadanobu, sinh ra ở chi Tayasu, được gia tộc Hisamatsu-Matsudaira Shirakawa nhận làm con nuôi.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mạc phủ Tokugawa** (Tiếng Nhật: 徳川幕府, _Tokugawa bakufu_; Hán Việt: _Đức Xuyên Mạc phủ_), hay còn gọi là **Mạc phủ Edo** (江戸幕府, _Giang Hộ Mạc phủ_), là chính quyền Mạc phủ ở Nhật Bản do
hay còn gọi là , là một thể chế độc tài quân sự phong kiến do các Shogun của gia đình Ashikaga đứng đầu. Thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ Muromachi, danh
**Quan chế Mạc phủ Nhật Bản** được tính từ khi Shogun Minamoto no Yoritomo (源頼朝 _Nguyên Lại Triều_) thiết lập quan chế Mạc phủ cho đến khi Minh Trị xóa bỏ chế độ Mạc phủ.
**Mạc phủ** là hành dinh và là chính quyền của tầng lớp võ sĩ Nhật Bản. Thông thường, hành dinh là nơi sống và lãnh đạo của người đứng đầu chính quyền quân sự, tức
**Tokugawa Iemitsu** (Kanji: 徳川家光, kana: とくがわいえみつ, phiên âm: Đức Xuyên Gia Quang, 12 tháng 8, 1604 - 8 tháng 6, 1651), là Vị Chinh Di Đại tướng quân thứ 3 của dòng họ Tokugawa trong
là vị Tướng Quân (Shōgun) thứ 8 của Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản. Ông cai trị nước Nhật từ năm 1716 cho đến khi thoái vị vào năm 1745. Ông là con trai của
**Tokugawa Yoshinobu** (徳川 慶喜 _ Đức Xuyên Khánh Hỉ_), còn gọi là **Tokugawa Keiki**, sinh ngày 28 tháng 10 năm 1837, mất ngày 22 tháng 11 năm 1913) là Tướng quân thứ 15 và là
là vị Tướng Quân thứ 6 của Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản. Ông là con trai cả của Tokugawa Tsunashige, là cháu họ của Tokugawa Ietsuna và cũng là con nuôi của Tokugawa Tsunayoshi,
nhỏ|Gia huy của [[Gia tộc Tokugawa]] là một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản. Ông là người sáng lập và cũng là vị Shōgun (Tướng Quân) đầu tiên của Mạc phủ Tokugawa,
là vị Tướng quân thứ 4 của Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản. Ông là con trai thứ hai, nhưng được xem như con trai trưởng của Tokugawa Iemitsu, và là cháu nội của Tokugawa
**Tokugawa Ietsugu** (徳川 家継, Đức Xuyên Gia Kế) (8 tháng 8 năm 1709 - 19 tháng 6 năm 1716) là vị Tướng Quân thứ 7 của Mạc phủ Tokugawa trong lịch sử Nhật Bản. Ông
là vị Tướng quân thứ 5 của Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản. Ông là em trai của Tokugawa Ietsuna, là con trai của Tokugawa Iemitsu, và là cháu nội của Tokugawa Hidetada. Tsunayoshi nổi
là vị Tướng Quân thứ 2 của Mạc phủ Tokugawa. Ông là con trai thứ ba của Tokugawa Ieyasu, vị Tướng Quân đầu tiên của Mạc phủ Tokugawa. ## Thiếu thời Tokugawa Hidetada được phu
thumb|[[Matsudaira Sadaaki trong trang phục phương Tây dưới thời Bakumatsu với tư cách là _Kyōto Shoshidai_ cuối cùng từ năm 1864 đến năm 1867.]] là một chức vụ hành chính và chính trị quan trọng
là vị Tướng Quân thứ 9 của Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản. Ông là con trai cả của Tướng Quân Tokugawa Yoshimune, mẹ của ông là Okubo Tadanao, được biết đến với tên Osuma
liên quan đến vụ sát hại hai thủy thủ Hải quân Hoàng gia ở Nagasaki, Nhật Bản, vào năm 1867, dẫn đến căng thẳng ngoại giao gia tăng giữa Vương quốc Liên hiệp Anh và
là vị Tướng Quân thứ 14 của chế độ Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản, tại vị từ năm 1858 đến 1866. Trong thời kỳ cai trị của ông, Nhật Bản có nhiều rối loạn
là một loạt các cuộc pháo kích chống lại phiên Chōshū vào năm 1863 và 1864, nhằm giành quyền kiểm soát eo biển Shimonoseki bởi hạm đội liên hợp hải quân bốn nước Anh, Pháp,
phải|nhỏ|Đài tưởng niệm Ieyoshi tại [[Zōjō-ji (_Tăng thượng tự_)]] là vị Tướng Quân thứ 12 của chế độ Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản. Ông là con trai thứ hai của vị Tướng Quân thứ
là vị Tướng Quân thứ 11 của Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản, ông cũng là vị Tướng Quân nắm quyền lâu nhất (từ 1787 đến 1837). ## Tiểu sử Năm 1778, Hitotsubashi Toyochiyo, một
là vị Tướng Quân thứ 13 của chế độ Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản. Ông cầm quyền trong 5 năm từ 1853 đến 1858. Ông có thể lực yếu. Sự ngự trị của ông
**Trận chiến eo biển Shimonoseki** (tiếng Nhật:下関海戦, _Shimonoseki Kaisen_, _Hạ Quan hải chiến_) là một trận hải chiến diễn ra vào ngày 16 tháng 7 năm 1863, do tàu chiến của Hải quân Mỹ tiến
là một chức quan do Mạc phủ Tokugawa lập nên và hoạt động từ năm 1862 đến năm 1868. Viên chức này chịu trách nhiệm gìn giữ trật tự trị an cho kinh thành Kyōto
****, ấu danh , thông gọi **Hoà Cơ** (和姫; Kazuhime; _công chúa Kazu_); là _hoàng hậu_ của Thiên hoàng Go-Mizunoo. Bà là con gái của Tokugawa Hidetada - Tướng Quân thứ hai của Mạc phủ
thumb|Sự kiện Namamugi được mô tả trong một [[bản in khắc gỗ của Nhật Bản vào thế kỷ 19 với Charles Lennox Richardson ở trung tâm hiện trường.]] , còn gọi là **biến cố Kanagawa**
là vị Tướng Quân thứ 10 của Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản. Ông cai trị đất nước từ 1760 đến 1786. Ieharu là con trai cả của Tokugawa Ieshige, vị Tướng Quân thứ 9.
thumb|_Tranh minh họa tàu _Morrison_ của Nhật Bản, neo đậu phía trước Uraga năm 1837._ năm 1837 xảy ra khi một tàu buôn của Mỹ mang tên _Morrison_ do **Charles W. King** cầm lái, bị
**Đại Áo** (chữ Hán: 大奥; おおおくŌoku) hiểu đơn giản là hậu cung của thành Edo (Tokyo, Nhật Bản ngày nay), nơi mà rất nhiều phụ nữ có quan hệ với Tướng quân (shōgun) đương kim
Hình nhân mặc kiểu đồng phục của Shinsengumi (còn được gọi là _Tân Đảng_) là lực lượng cảnh sát được thành lập để trấn áp các thế lực chống đối Mạc Phủ Tokugawa, và giữ
thumb|[[Bắc Điều Chính Tử - vị phu nhân đầu tiên sử dụng danh vị Ngự đài sở.]] thumb|[[Trúc Sơn điện - Ngự đài sở đầu tiên của gia tộc Tokugawa.]] thumb|phải|[[Nhất Điều Mỹ Hạ Tử
là một gia đình daimyo hùng mạnh ở Nhật Bản. Họ là hậu duệ của Thiên hoàng Seiwa (850-880) và là một chi của gia tộc Minamoto (Seiwa Genji) qua gia tộc Nitta. Minamoto no
, là chức vụ cao cấp trong Mạc phủ Tokugawa. Đây là một hội đồng dưới quyền Shogun. _Rōjū_ được bổ nhiệm từ _fudai daimyō_ với lãnh địa trong khoảng 25,000 đến 50,000 _koku_. ##
**Pháo kích Kagoshima**, còn gọi là , là một trận chiến giữa Anh và phiên Satsuma ở Kagoshima từ ngày 15 đến ngày 17 tháng 8 năm 1863. Người Anh đang cố gắng lấy tiền
**Tairō** (大老, "Đại lão") là quan chức cao cấp trong Mạc phủ Tokugawa, tương đương với chức vụ thủ tướng ngày nay. _Tairō_ chủ trì hội đồng _rōjū_ trong thời kỳ khẩn cấp. _Tairō_ được
**Tứ đại Hitokiri thời Mạc mạt** (tiếng Nhật: 幕末四大人斬り | _Bakumatsu Shidai Hitokiri_) là tên chung chỉ bốn Hitokiri vào cuối thời kỳ Edo (thời Mạc mạt) là Kawakami Gensai, Nakamura Hanjiro (cũng được gọi
, Hán-Việt: **Hoà Cung Thân Tử Nội Thân vương**, sinh ngày 3 tháng 7 năm 1846, mất ngày 2 tháng 9 năm 1877; là con gái của Thiên hoàng Nhân Hiếu và là chính thất
, còn gọi là **Matsudaira Keiei**, hay được biết đến với cái tên là một _daimyō_ of cuối thời Edo. Ông là người đứng đầu phiên Fukui tỉnh Echizen. Ông được coi là một trong
**Cải cách Minh Trị**, hay **Cách mạng Minh Trị**, hay **Minh Trị Duy tân**, (明治維新 _Meiji-ishin_) là một chuỗi các sự kiện cải cách, cách tân dẫn đến các thay đổi to lớn trong cấu
**Thiên Chương viện** (chữ Hán: 天璋院; hepburn: Tenshōin; sinh ngày 5 tháng 2 năm 1836 — 20 tháng 11 năm 1883), cũng được biết đến với các tên gọi như **Nguyên Đốc Tử** (源篤子; Minamoto
là một samurai sống vào thời Bakumatsu và thời Minh Trị. Ông là _daimyō_ thứ 9 của phiên Aizu và _Kyōto Shugoshoku_ (Thủ hộ Kyoto). Trong chiến tranh Boshin, đích thân ông lãnh đạo cả
là một loạt các chính sách kinh tế và văn hóa do Mạc phủ Tokugawa tiến hành vào năm 1736 vào giữa thời kỳ Edo. Những cải cách này được Tướng quân đời thứ 8
**Tây Hương Cục** ( hoặc hay **', 1552  - 1 tháng 7 năm 1589), còn được biết đến với tên gọi là **Oai''', là vị thứ thất kiêm nữ quan thân cận của Tướng quân
là một lực lượng vũ trang với trọng trách bảo vệ Mạc phủ Tokugawa ở Nhật Bản cuối thời Mạc mạt, được thành lập vào năm 1862 (Bunkyū thứ 2) vào cuối thời kỳ Edo,
(mất năm 1579) là chính thất của Tướng quân Tokugawa Ieyasu, người thiết lập và là vị Tướng quân đầu tiên của Mạc phủ Tokugawa. Bà sinh ra trưởng nữ của Ieyasu, Kamehime, và là
, là thành phố thủ phủ của phủ Kyōto, Nhật Bản. Thành phố có dân số gần 1,47 triệu người vào năm 2018 và là một phần chính của vùng đô thị Kansai. Năm 794,
là một loạt thay đổi chính sách và sắc lệnh phản động do Mạc phủ Tokugawa tiến hành nhằm mục đích giải quyết các vấn đề quan trọng liên quan đến kinh tế, thuế khóa,
**** là một loạt các chính sách mới được Mạc phủ Tokugawa tiến hành vào năm 1866. Cải cách được tạo ra nhằm phản ứng với bạo động gia tăng ở Satsuma và các phiên
**Chính quyền thời kỳ Minh Trị Nhật Bản** (1868-1911) là một sự tiến triển về thể chế và cấu trúc từ trật tự phong kiến của Mạc phủ Tokugawa đến chế độ quân chủ lập
nhỏ| Chân dung của Senhime, con gái của Tướng quân Tokugawa Hidetada. là con gái cả của Tướng quân Tokugawa Hidetada và là vợ của Toyotomi Hideyori. Bà đã tái hôn với Honda Tadatoki sau
(còn được gọi là ) (13 tháng 7 năm 1832 – 12 tháng 3 năm 1907) hiệu là **Lan Trù**, **Lạc Si**, bề tôi của Mạc Phủ cuối thời Edo, quan chức thời Minh Trị,