Mạc Kính Chỉ (chữ Hán: 莫敬止 ? - 1593) là vị vua đầu tiên nhà Mạc thời hậu kỳ, sau khi quân Nam triều chiếm được thành Thăng Long với cái chết của cha con Mạc Mục Tông (Mạc Mậu Hợp) và Mạc Cảnh Tông (Mạc Toàn). Nguyên quán Mạc Kính Chỉ là người xã Cao Đôi, huyện Bình Hà (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương).
Thân thế
Mạc Kính Chỉ là con cả của Khiêm vương Mạc Kính Điển, quan phụ chính trụ cột của nhà Mạc trong hơn 30 năm. Trước đó, Mạc Kính Chỉ được phong tước Đoan Hùng vương, sau vì có tội tư thông với người thiếp của cha nên bị giáng xuống làm thứ dân. Đến khi triều đình nhà Mạc suy yếu thì Mạc Kính Chỉ lại được ban tước Hùng Lễ công nhưng không có thực quyền; trong các tài liệu lịch sử Trung Quốc như Minh thực lục hay Minh sử thì gọi ông là Mạc Kính Bang.
Vua Bảo Định
Năm 1592 khi Mạc Mậu Hợp thất thế, ông thu thập tàn quân chiếm cứ vùng Thanh Lâm và xưng vua ở Nam Giản thuộc Chí Linh, Hải Dương, lấy niên hiệu Bảo Định thứ nhất (1592).
Mạc Kính Chỉ xưng Hoàng đế được tôn thất nhà Mạc hưởng ứng, lập bản doanh triệu tập quần tụ, được các đại thần văn võ còn xu hướng với nhà Mạc tôn phú, quân binh lên tới hàng vạn. Mạc Kính Chỉ sắp đặt các đại thần theo một triều đình có đầy đủ văn võ, cắt đặt các quan chức trong ngoài.
Khôi phục miền đông
Thấy nhà Mạc chưa hết người đứng lên khôi phục cơ nghiệp và còn được các văn thần, võ tướng vùng Bắc Hà tôn phù, Phụ chính Nam triều là Trịnh Tùng lập tức tiến binh đánh Mạc Kính Chỉ. Tháng chạp năm 1592, Tùng sai các Thái Quận công: Nguyễn Thất Lý, Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên, Nguyễn Nga dùng thủy binh tiến đánh.
Nhưng quân của Trịnh Tùng vừa tới nơi đã bị Kính Chỉ phục binh đánh cho quan quân Lê – Trịnh trở tay không kịp. Nguyễn Thất Lý bị chém chết tại trận, Nguyễn Nga trúng thương may mà ngã trên thuyền nên được cứu thoát, quân của Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên bị đánh tan tác. Kính Chỉ thu nhiều thuyền bè, khí giới và binh lương. Ngay trận đầu thắng lớn, Kính Chỉ sai Đông các Học sỹ Đỗ Trực làm tờ hịch bố cáo toàn bộ trấn Kinh Bắc, Hải Dương theo về với Kính Chỉ, Mạc Toàn biết tin cũng chạy sang chỗ Kính Chỉ nương nhờ.
Thất bại
Ngày 17 tháng 12 năm 1592, Trịnh Tùng lại sai Thái úy Hoàng Đình Ái, Thái bảo Trịnh Đô đốc binh và voi, ngựa tới đánh Kính Chỉ. Đình Ái cho lập đồn binh dọc tuyến sông. Trịnh Tùng lại sai Thái úy Nguyễn Hữu Liêu đưa thủy binh lên hỗ trợ Đình Ái. Kính Chỉ cũng dàn quân dọc tuyến sông cự địch. Một dải trường giang chia ra nam – bắc, quân nối quân liên tiếp chiến đấu kéo dài hàng tháng trời không phân thắng thua.
Ngày 9 tháng 1 năm Quý Mùi (1593), Trịnh Tùng đích thân đốc đại quân vượt sông Nhị Hà, ngày 12 tiến đến Cẩm Giang, hội với các tướng xong. Trịnh Tùng lại đích thân làm tướng trung quân, sai Đình Ái lẻn đánh úp sau lưng Kính Chỉ. Trịnh Tùng dùng thủy quân chặn vùng thượng lưu tạo thế bao vây tứ phía.
Trước sức địch mạnh, ông phải chiến đấu quyết liệt và lui lên núi Chí Linh. Trịnh Tùng tiếp tục truy kích, cuối cùng tới ngày 14 tháng giêng thì bắt được Kính Chỉ ở thôn Tân Manh, huyện Hoành Bồ (Quảng Ninh) và nhiều tôn thất nhà Mạc. Ngày 27 tháng giêng, Mạc Kính Chỉ bị Trịnh Tùng mang chém ở bến Thảo Tân.
Mạc Kính Chỉ xưng vua được 3 tháng.
Miếu hiệu và thụy hiệu
Theo các sử sách chính thống của nhà Lê Trung hưng và nhà Nguyễn thì Mạc Kính Chỉ không có miếu hiệu và thụy hiệu, bởi thời gian xưng vua ngắn ngủi kéo theo đó là sự lụi bại tán vong của nhà Mạc. Tuy nhiên, trong tài liệu nghiên cứu gần đây của học giả Trung Quốc Ngưu Quân Khải và giáo sư tiến sĩ Việt Nam Phan Đăng Nhật thì miếu hiệu của ông là Mẫn Tông (闵宗) còn thụy hiệu là Hoài Nghị Minh Huấn Trinh Hoàng Đế (坏毅明训贞皇帝).
👁️
3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mạc Kính Chỉ** (chữ Hán: 莫敬止 ? - 1593) là vị vua đầu tiên nhà Mạc thời hậu kỳ, sau khi quân Nam triều chiếm được thành Thăng Long với cái chết của cha con
**Mạc Kính Cung** (chữ Hán: 莫敬恭 ? - 1625) là vua nhà Mạc thời hậu kỳ, khi Bắc triều chấm dứt với cái chết của cha con Mạc Mậu Hợp và Mạc Toàn. ## Khôi
** Khiêm Vương** **Mạc Kính Điển** (chữ Hán: 謙王 莫敬典; 1525? - 1580), tự **Kinh Phủ**, là đại công thần có công lớn trong việc gìn giữ cơ nghiệp nhà Mạc, được nhà Mạc phong
**Mạc Kính Vũ** (chữ Hán: 莫敬宇) là vua nhà Mạc thứ 10 và là vua Mạc thời hậu kỳ, khi đã rút lên Cao Bằng. Nguyên quán Mạc Kính Vũ là người xã Cao Đôi,
**Mạc Kính Khoan** (chữ Hán: 莫敬寬 ? - 1638) là vua nhà Mạc thứ 3 thời hậu kỳ, khi đã rút lên Cao Bằng. Nguyên quán Mạc Kính Khoan là người xã Cao Đôi, huyện
**Trường Trung học Mạc Đĩnh Chi** được thành lập năm 1957 là một trong những trường top đầu của thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, trường Trung
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Mạc Mậu Hợp** (chữ Hán: 莫茂洽, 1560 – tháng 1 năm 1593) là vị hoàng đế Đại Việt thứ năm của nhà Mạc thời Nam – Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Ông lên
**Mạc Toàn** (chữ Hán: 莫全 1580 – 1593) là vị vua thứ sáu và là vua cuối cùng của nhà Mạc thời kỳ Nam - Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế
**Thần kinh giữa** (tiếng Anh: **_median nerve_**; tiếng Pháp: **_le nerf médian_**) là thần kinh phân bố ở vùng chi trên người và một số động vật. Đây là một trong 5 dây thần kinh
**Thần kinh quay** (tiếng Anh: **_radial nerve_**; tiếng Pháp: **_le nerf radial_**) là dây thần kinh ở người, chi phối phần sau chi trên. Thần kinh chi phối đầu trong và đầu ngoài của cơ
**Thần kinh bì cẳng tay ngoài** (tiếng Anh: **_lateral antebrachial cutaneous nerve_**, **_lateral cutaneous nerve of forearm_**) là nhánh của thần kinh cơ bì. Thần kinh đi sau tĩnh mạch đầu, đến vị trí đối
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
**Nguyễn Kính** (chữ Hán: 阮敬; 1508 - 1572) tên thường gọi là Nguyễn Thanh Phúc, là một công thần khai quốc nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Nguyễn Kính, cũng còn
**Mạc Ngọc Liễn** (chữ Hán: 莫玉璉, 1528-1594) là một quan chức triều Mạc, người xã Dị Nậu, huyện Thạch Thất, Hà Nội, Việt Nam. ## Tiểu sử Mạc Ngọc Liễn nguyên có tên là Nguyễn
phải|Chu kỳ kinh nguyệt **Kinh nguyệt** là tập hợp các thay đổi sinh lý lặp đi lặp lại ở cơ thể phụ nữ dưới sự điều khiển của hệ hormone sinh dục và cần thiết
**Mạc Phúc Tư** (chữ Hán: 莫福滋; 1524 - 1593), thụy hiệu là **Phúc Triệu**, tước Ninh vương (寧王), là tướng nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Cùng với những thân
**Mạc Tuyên Tông** (chữ Hán: 莫宣宗 1540 - 1561) tên thật là **Mạc Phúc Nguyên** (莫福源), là hoàng đế thứ tư nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1546 đến 1561,
**Mạc Cảnh Huống** (莫景貺, 1542-1677) là người xuất thân trong hoàng tộc nhà Mạc, em của Khiêm vương Mạc Kính Điển và đồng thời là chú của Quận chúa Mạc Thị Giai (người sau này
**Mạc Cửu** (鄚玖), hay **Mạc Kính Cửu** (鄚敬玖): 1655 – 1735); là một thương gia người Hoa có công khai phá, hình thành vùng đất Hà Tiên (Kiên Giang) vào khoảng đầu thế kỷ XVII
nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Sahara|Sahara tại Algérie]] nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Gobi|Gobi, chụp từ vệ tinh]] [[Ốc đảo tại Texas, Hoa Kỳ]] Một cảnh [[sa mạc Sahara]] **Hoang mạc** là vùng có lượng mưa rất
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Mạc** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Mạc ở Việt Nam với nhà Minh của Trung Quốc xung quanh vấn đề biên giới
**Văn hóa Lê–Mạc** (hoặc được khái quát hóa lên là **Thời đại Lê–Mạc** hay cụ thể hơn nữa là **Thời kỳ chuyển giao Lê–Mạc**) là một khái niệm mang tính tổng hợp dùng để chỉ
**Mạc** là một họ của người, có ở các quốc gia Á Đông như Trung Quốc, Việt Nam,... Riêng ở Việt Nam, có cả một triều đại phong kiến do những ông vua mang họ
**Hiếu Văn hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文皇后; 1578 - 1630), hay **Huy Cung Từ Thận Thuận phi** (徽恭慈慎順妃), nguyên là Chính thất của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, thân mẫu của chúa Nguyễn Phúc Lan. Theo
**Thủ công nghiệp Đại Việt thời Mạc** chủ yếu là những ngành nghề gốm sứ, đúc tiền, chạm khắc đá và nghề dệt. Các ngành thủ công nghiệp được triều đình chú trọng phát triển,
**Mạc Đôn Nhượng** (1540-1593) là hoàng tử và là tướng nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia cuộc chiến tranh Lê-Mạc cho tới khi kết thúc thời Nam Bắc triều. ## Thân
**Thành nhà Mạc** ở tỉnh Lạng Sơn là một di tích lịch sử văn hóa ở phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. Đây là một trong số khá ít
**Mạc Thúy** (chữ Hán: 莫邃; 1346-1412) là tướng nhà Hồ trong lịch sử Việt Nam. Ông đã đem con em hợp tác với quân Minh chống lại nhà Hồ và các cuộc khởi nghĩa của
**Thành cổ cao bằng ** hay thường gọi là **thành nhà Mạc**, là một di tích lịch sử văn hóa nằm ở huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. ## Lịch sử Thành Phục
**Mạc Đăng Lượng** (1496-1604) là một võ quan được phong tước Quốc công dưới triều Hậu Lê. Triều Mạc từng được phong chức Phó quốc vương dưới thời nhà Mạc và được Mạc Thái Tổ
**Văn bia thời Mạc** là hệ thống những bia đá được dựng và khắc chữ văn bản dưới triều đại này. Hệ thống văn bia thời Mạc không chỉ là những tư liệu lịch sử
Một cặp kính râm **Kính râm** hay **kính mát** thường được đeo theo thời trang hay để khỏi bị chói nắng, nhưng có một lợi điểm cho sức khỏe - bảo vệ võng mạc và
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Bắc Kinh** (Tiếng Trung Quốc: **北京市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Běijīng shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán - Việt: _Bắc Kinh thị Nhân dân Chính phủ
**Mạc Hiến Tông** (chữ Hán: 莫憲宗 1517 – 1546) là vị hoàng đế thứ ba của nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1540 đến 1546 và chỉ dùng một niên
**Thần kinh ngực ngoài** (tiếng Anh: **_lateral pectoral nerve_**) phát sinh từ bó ngoài của đám rối thần kinh cánh tay, chứa các sợi C5, C6, C7. Thần kinh bắt chéo động mạch nách và
**Thần kinh bì cẳng tay trong** (tiếng Anh: **_Medial antebrachial cutaneous nerve_**; tiếng Pháp: **_Le nerf cutané médial de l'avant-bras_**) xuất phát từ bó trong của đám rối cánh tay. Thần kinh chứa các sợi
thumb|Một ngôi mộ tập thể trong thảm sát Nam Kinh Tổng số người thiệt mạng trong vụ **thảm sát Nam Kinh** là một vấn đề gây tranh cãi trong lịch sử Nhật Bản và Trung
**Thần kinh phụ** (hay **thần kinh sọ XI**, tiếng Anh: _accessory nerve_, tiếng Pháp: _le nerf accessoire_) là thần kinh sọ thứ 11 trong tổng số 12 đôi dây thần kinh sọ. Thần kinh chi
**Mạc Hiển Tích** (chữ Hán: 莫顯績 1060—1189) là người đỗ đầu tại khoa thi năm Quảng Hựu thứ 2 (Bính Dần, 1086) thời vua Lý Nhân Tông. Quê ông ở làng Lũng Động, huyện Chí
**Thần kinh nách** (tiếng Anh: **_axillary nerve_**; tiếng Pháp: _Le **nerf axillaire**_) là thần kinh của người, bắt nguồn từ đám rối thần kinh cánh tay (thân trên, ngành sau, bó sau) ở ngang mức
Trong giải phẫu người, **thần kinh trụ** (tiếng Anh: **_ulnar nerve_**; tiếng Pháp: **_le nerf ulnaire_**) là dây thần kinh chạy gần xương trụ. Dây chằng bên trong khớp khuỷu tay liên quan mật thiết
**Thần kinh bì cẳng tay sau** (tiếng Anh: **_posterior cutaneous nerve of forearm_**) là dây thần kinh ở người và một số động vật. Đây là một dây thần kinh bì (chi phối cảm giác
**Thần kinh bì cánh tay trong** (tiếng Anh: **_medial brachial cutaneous nerve_**) chi phối cảm giác da ở phía trong-giữacánh tay. ## Giải phẫu học Đây là nhánh nhỏ nhất của đám rối cánh tay,
**Nhánh mu tay của thần kinh trụ** phát sinh ở vị trí cách cổ tay khoảng 5 cm, tách ra từ thần kinh trụ. Thân kinh đi dưới cơ gấp cổ tay trụ, xuyên qua mạc
**Thân trên của đám rối thần kinh cánh tay** là tập hợp thần kinh có nguồn gốc từ C5 và C6. Tổn thương ở thân trên: # Cánh tay giạng quá mức (góc tạo bởi
**Thần kinh bì cánh tay trên ngoài** (tiếng Anh: **_superior lateral cutaneous nerve of arm, superior lateral brachial cutaneous nerve_**) là sự tiếp nối của bó sau thần kinh náchsau khi thần kinh xuyên qua
**Nguyễn Từ Chi** (tên đầy đủ là **Nguyễn Đức Từ Chi**, tên thường gọi là **Từ Chi**; 1925 – 1995), là một trong những nhà dân tộc học hàng đầu của Việt Nam thế kỷ
phải|nhỏ|Đường Nguyễn Thị Minh Khai đoạn bên khuôn viên [[Dinh Độc Lập, đối diện là cổng Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn vào đầu năm 2020]] **Đường Nguyễn Thị Minh Khai** là một