✨Nguyễn Kính

Nguyễn Kính

Nguyễn Kính (chữ Hán: 阮敬; 1508 - 1572) tên thường gọi là Nguyễn Thanh Phúc, là một công thần khai quốc nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam.

Tiểu sử

Nguyễn Kính, cũng còn thường gọi là Phúc, sinh ra trong một gia đình làm nghề đốn củi ở xã Dị Nậu, nơi sử sách chép là Cổ Nậu Trang, dân gian quen gọi là Kẻ Núc, nay thuộc huyện Thạch Thất, Hà Nội. Thuở bé, Phúc diện mạo khôi ngô, khỏe mạnh, ham học hỏi và nghịch ngợm. Sách Đại Việt thông sử của nhà Hậu Lê đối lập với nhà Mạc mô tả ông là người "tính hung hãn, vô lại".

Đánh Trần Cảo

Thời Nguyễn Kính lớn lên, nhà Hậu Lê suy yếu trầm trọng do hai vua Uy Mục và Tương Dực. Vua Lê Tương Dực ăn chơi trụy lạc, dân gian bị bóc lột cùng khốn, đồng loạt nổi dậy làm phản, trong đó lớn nhất khởi nghĩa Trần Cảo.

Trong triều nảy sinh bè phái, đại thần Trịnh Duy Sản can ngăn vua Tương Dực bị đánh đòn nên sinh oán hận, giết chết vua Tương Dực, lập chắt của vua Lê Thánh Tông là Y mới 11 tuổi lên ngôi, tức là Lê Chiêu Tông (1516).

Quân khởi nghĩa Trần Cảo tiến đánh kinh thành Thăng Long. Cùng lúc đó Nguyễn Hoằng Dụ đóng quân ở Bồ Đề, được tin Duy Sản giết vua, liền đem quân qua sông, đốt hết phố xá trong kinh thành. Trịnh Duy Sản thấy kinh thành bị phá liền mang vua Lê Chiêu Tông bỏ chạy về Tây Đô (Thanh Hóa).

Nhân đấy Trần Cảo sang qua sông, vào chiếm cứ kinh thành. Lúc đó con nuôi Trịnh Duy Sản là Thiết Sơn bá Trần Chân thống suất các dũng sĩ cũ cùng con em trong nhà, binh tráng trong làng đóng ở chợ Hoàng Hoa, để mưu tính công việc đánh Trần Cảo. Nguyễn Kính bèn tụ tập con em đi theo Trần Chân, được Trần Chân tin dùng.

Ông cùng Trần Chân từ làng Dư Dụ huyện Thanh Đàm đem quân đón đánh tướng của Trần Cảo là Phan Ất từ làng Bảo Đà huyện Thanh Oai tiến đến. Quân hai bên kịch chiến ở xạ đôi (mô đất để tập bắn). Trần Chân bị thương, lại thấy rằng toán quân của mình chơ vơ khó có thể đánh lâu được, bèn nhân đêm rút quân đến chợ Hoàng Hoa.

Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoằng Dụ, Trịnh Tuy và các quan cựu thần phân binh ra vây Đông Kinh. Trần Cao phải bỏ kinh thành chạy lên đất Lạng Nguyên. Vua Chiêu Tông trở lại kinh thành.

Sau đó Trịnh Duy Sản đi đánh Cảo bị tử trận ở Chí Linh. Cảo lại mang quân về định đánh kinh thành. Nguyễn Kính theo Trần Chân phá được Cảo ở Gia Lâm. Cảo thua chạy rút qua sông Cầu, truyền ngôi cho con là Cung và bỏ đi làm sư mất tích.

Võ tướng bất trị

Trần Cảo tạm bị dẹp yên nhưng các đại thần nhà Lê lại quay sang đánh nhau. Nguyễn Hoằng Dụ cất quân đánh Trịnh Tuy. Tuy bèn bỏ chạy. Trần Chân về phe với Trịnh Tuy, cất quân đánh Hoằng Dụ. Nguyễn Kính theo giúp, theo mật lệnh của Trần Chân cùng con em các quân doanh ở Sơn Tây đánh Hoằng Dụ. Dụ không chống nổi, chạy vào Thanh Hoa.

Trần Chân đã đuổi được Nguyễn Hoằng Dụ, cầm quân bảo vệ kinh sư, một mình cầm quyền bính trong tay. Mạc Đăng Dung muốn kết thân, liền hỏi lấy con gái Trần Chân cho con trai mình là Mạc Đăng Doanh.

Ngày 11 tháng 7 năm 1518, Chiêu Tông tin lời gièm pha muốn giết Trần Chân, bèn cho triệu Trần Chân vào trong cung cấm. Trần Chân cùng các thủ hạ Trần Trí, Nguyễn Nga, Nguyễn Bá Đại, Lê Nguyên Khâm... 6 người đi vào. Chiêu Tông hạ lệnh đóng các cửa thành rồi sai lực sĩ bắt, Trần Chân chạy đến trên thành, người giữ cửa bắt được đem chém chết.

Nguyễn Kính cùng các thủ hạ của Trần Chân là Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Áng nghe tin Trần Chân bị hãm trong thành, bèn đánh ba hồi chiêng, đem quân vào cửa Đại Hưng. Thấy các cửa thành đã đóng, Nguyễn Kính cùng các tướng bèn tiến thẳng vào ty Địch vạn vệ Cẩm y. Người giữ cửa ngăn lại không cho vào. Vua Chiêu Tông đem quân đi tuần trong thành, bêu đầu Trần Chân cho xem. Nguyễn Kính biết Trần Chân đã bị giết, mà mình thì cô thế, bèn tạm rút lui ra ngoài. Ông tập hợp đông đủ các thủ hạ của Trần Chân để đánh báo thù.

Ngày 14 tháng 7, Nguyễn Kính cùng Nguyễn Áng, Nguyễn Hiêu, Cao Xuân Thì (có sách chép là Nguyễn Chi, Mã Cử) cùng họp với nhau ở chùa Yên Lãng , đem quân đánh vào sát kinh thành. Vua Chiêu Tông đang đêm phải chạy sang dinh Bồ Đề ở Gia Lâm để tránh.

Trịnh Tuy đóng quân ở Sơn Nam có hơn 1 vạn người, nghe tin vua chạy ra ngoài, quân lính tan rã. Quân Sơn Tây của Nguyễn Kính thả sức cướp phá, kinh thành sạch không. Chiêu Tông cho gọi Nguyễn Hoằng Dụ ra đánh Nguyễn Kính, nhưng Hoằng Dụ lưỡng lự không đi.

Chiêu Tông bèn triệu thông gia của Trần Chân là Mạc Đăng Dung đang trấn thủ Hải Dương về cứu, rồi sai người đi dụ Nguyễn Kính. Ông đòi vua Chiêu Tông phải giết Chử Khải, Trịnh Hựu, Ngô Bính là những người gièm pha Trần Chân. Chiêu Tông nghe kế của Đàm Cử, bèn giết 3 người. Nhưng Nguyễn Kính lại càng hoành hành, đóng quân không rút.

Tháng 9 năm 1518, Trịnh Tuy và văn thần Nguyễn Sư mưu lập người con của Tĩnh Tu công Lộc tên là Bảng làm vua, đổi niên hiệu là Đại Đức, rồi lại phế Bảng và lập em Bảng là Lê Do, đổi niên hiệu là Thiên Hiến, làm hành diện ở xã Do Nha, huyện Từ Liêm. Tuy sai người dụ Nguyễn Kính. Nguyễn Kính thấy Tuy là người cùng phe với Trịnh Duy Sản và Trần Chân trước đây nên đồng lòng đi theo.

Chiêu Tông sai người đi mời Nguyễn Hoằng Dụ lần nữa và sai Mạc Đăng Dung cùng đi đánh Nguyễn Kính. Hoằng Dụ được tin, bèn đem quân Thanh Hoa ra cứu. Nguyễn Kính đánh cho Hoằng Dụ thua to, quân chết rất nhiều. Hoằng Dụ chạy xuống thuyền, tự liệu không đánh được Nguyễn Kính, liền bãi binh bỏ chạy về Thanh Hóa rồi chết, chỉ để một mình Mạc Đăng Dung ở lại cầm cự.

Tháng 1 năm 1519, Chiêu Tông sai các tướng đánh phá, Trịnh Tuy thua trận, cùng Lê Do rút về vùng Yên Lãng, Yên Lạc . Chiêu Tông lại sai tướng đến đánh, bọn Tuy đang đêm kinh sợ trốn chạy.

Tháng 7 năm 1519, Mạc Đăng Dung thống lĩnh các quân thủy bộ phá Lê Do ở Từ Liêm rồi bắt được Do ở Ninh Sơn, giải về giết chết. Trịnh Tuy bỏ chạy về Thanh Hoá. Nguyễn Kính cùng Nguyễn Áng, Hoàng Duy Nhạc đều xin hàng triều đình.

Bỏ Lê theo Mạc

Ngày 27 tháng 7 năm 1522, Chiêu Tông không muốn bị Đăng Dung khống chế, bèn chạy ra Sơn Tây gọi quân Cần vương. Đăng Dung sai Hoàng Duy Nhạc mang quân đuổi theo, tới huyện Thạch Thất thì đuổi kịp. Chiêu Tông đem quân huyện Thạch Thất chống lại, bắt được Duy Nhạc.

Đăng Dung bèn lập em Chiêu Tông là Xuân lên ngôi, tức là Lê Cung Hoàng, lấy niên hiệu là Thống Nguyên. Từ bấy giờ trong nước có 2 vua là Chiêu Tông và Cung Hoàng.

Vua Chiêu Tông được các tướng Hà Phi Chuẩn, Đàm Thận Huy, Lê Đình Tú về cứu. Nguyễn Kính cùng Nguyễn Áng cũng theo giúp Chiêu Tông chống Đăng Dung. Thanh thế Chiêu Tông rất lớn, làm chủ các xứ phía Tây, Nam, Bắc. Mạc Đăng Dung và vua Cung Hoàng chỉ còn phía đông. Nhưng sau đó Trịnh Tuy ở Thanh Hóa ra cần vương, các tướng bất hoà. Trịnh Tuy trở thành lực lượng cần vương mạnh nhất, tranh công mang Chiêu Tông vào Thanh Hoá, ra lệnh các đạo bãi binh, từ đó các tướng không theo Chiêu Tông nữa.

Nguyễn Kính và Nguyễn Áng thấy vậy bèn đi theo Mạc Đăng Dung. Từ đó ông trở thành trợ thủ đắc lực của họ Mạc. Ông theo Mạc Đăng Dung đi đánh dẹp các lực lượng đối lập, tới năm 1525 bắt được vua Chiêu Tông, dẹp các lực lượng trung thành với nhà Lê.

Đại thần nhà Mạc

Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê, lập ra nhà Mạc, Nguyễn Kính được phong tước Tây Thanh hầu rồi Tây quận công trấn giữ vùng Sơn Tây.

Đầu năm 1531, Nguyễn Kim khởi binh chống nhà Mạc ở Ai Lao, mang quan về đánh Thanh Hoá. Mạc Thái Tông sai Tây quận công Nguyễn Kính vào đánh. Nguyễn Kính bị thua hai trận. Nhưng tới tháng 9, trời đổ mưa nhiều, ông thừa cơ dùng thủy quân tiến đánh, quân Nguyễn Kim rối loạn phải rút về Ai Lao.

Năm 1546, Mạc Hiến Tông mất, con là Mạc Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông. Khiêm vương Mạc Kính Điển là người được Hiến Tông chọn làm phụ chính. Trong triều xảy ra biến loạn: Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi muốn lập người em của Mạc Thái Tông là Hoằng vương Mạc Chính Trung (con thứ hai của Mạc Thái Tổ) đã trưởng thành nhưng Mạc Kính Điển không thuận, quyết phò Phúc Nguyên lên ngôi. Tử Nghi bèn cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn. Nguyễn Kính đứng về phía Mạc Kính Điển, dốc sức phò tá vua nhỏ Tuyên Tông.

Ban đầu Phạm Tử Nghi thắng thế, Nguyễn Kính theo Mạc Kính Điển cùng đi đánh Tử Nghi bị bại trận. Tuy nhiên sau đó Tử Nghi nhiều lần tiến đánh Đông Kinh nhưng đều bị Kính Điển, Nguyễn Kính và con ông là Hữu Mệnh kiên cường chống trả nên Tử Nghi không thể chiếm được thành, hao binh tổn tướng, phải đem Mạc Chính Trung chạy ra chiếm cứ Yên Quảng (Quảng Ninh) và thường kéo về cướp phá Hải Dương. Sau Tử Nghi quay sang đánh phá sang Quảng Đông, Quảng Tây, nhà Minh không kiềm chế nổi.

Sau Tử Nghi lại đem Chính Trung quay về Yên Quảng định đánh Đông Kinh. Năm 1551, Mạc Kính Điển mang quân đi dẹp Phạm Tử Nghi, sai kẻ dưới quyền lừa bắt được Tử Nghi đem chém. Mạc Chính Trung bỏ chạy sang Trung Quốc và bị giết.

Do có công lao với nhà Mạc trong trận này, ông được phong làm thái uý, Tây quốc công, được mở phủ riêng ở Cần Kiệm (Thạch Thất).

Năm 1572 thời Mạc Mậu Hợp, Nguyễn Kính mất. Ông được chôn cất tại Cần Kiệm (Thạch Thất). Nhà Mạc truy tặng ông là Tây Kỳ vương. Ông là công thần khai quốc duy nhất của nhà Mạc sống cả năm đời vua Mạc.

Các con ông có ba người đều làm đại thần nhà Mạc và được ban họ vua: Mạc Nguyên làm đến thái bảo, tước Phú quốc công; Mạc Hữu Mệnh làm võ tướng, Mạc Ngọc Liễn là phò mã nhà Mạc, làm đến chức thái bảo Đà quốc công chưởng phủ sự.

Nhận định

Nhận định về hành động báo thù cho Trần Chân của Nguyễn Kính, sách Đại Việt Sử ký Toàn thư viết:

:Hợp cả Nguyễn Kính, Nguyễn Ánh mà bàn, thì hai người này là tướng dưới trướng của [Trần] Chân, mài chí phục thù, dốc lòng trừ gian, liều mình cứu mạng cho chủ, trên là để báo lại ơn đức xưa nay, dưới là giải được mối oan khiên uất ức, phù trì chính khí cho ức vạn năm, diệt bọn gian hùng cho ngay lúc ấy, đạo thờ thầy đã sáng rõ lắm rồi.

Nhà Hậu Lê đổ nát, lại càng suy yếu vì loạn lạc giặc giã, quyền thần. Nhiều người nuôi chí làm bá vương trong bối cảnh đó.

Nguyễn Kính dốc lòng theo Trần Chân đánh giặc phò trợ nhà Lê, sau đó vì chủ tướng bị giết oan, bất chấp lệnh triều đình mà cất quân báo thù cho chủ. Khi đó Nguyễn Kính không nắm được Chiêu Tông như Đăng Dung nắm Cung Hoàng sau này, trường hợp ông gây sức ép yêu sách Chiêu Tông giết 3 người gièm pha Trần Chân cũng là duy nhất trong lịch sử Việt Nam, vua phải làm theo ý bầy tôi bên ngoài mà dằn lòng giết cận thần của mình.

Sau khi thù thầy rửa được rồi, đạo quân của Nguyễn Kính có dáng dấp một đạo quân phiến loạn vô chính phủ, loay hoay không biết đâu là chỗ sáng, hết phá phách càn rỡ, rồi theo Trịnh Tuy, lại theo Chiêu Tông.

Có ý kiến cho rằng Nguyễn Kính là người phản phúc, nhưng xét kỹ thì không phải như vậy. Nguyễn Kính chỉ mang cái dạ bộc trực mong báo thù, "hung hãn", giống như hình ảnh cơn giận của một Trương Phi trong Tam Quốc diễn nghĩa, Lý Quỳ trong Thủy Hử, chỉ biết tới chủ mà không cần biết tới vua. Ông không có toan tính, chí làm bá vương như Trịnh Tuy, Nguyễn Hoằng Dụ, Mạc Đăng Dung mà chỉ mong tìm chỗ theo như trước đây từng theo Trần Chân. Sau cùng, khi cả Trịnh Tuy lẫn Chiêu Tông đều khiến ông thất vọng, ông đã nhận ra Mạc Đăng Dung là minh chủ có thể theo giúp.

"Chim khôn chọn cành mà đậu, bầy tôi chọn chủ mà thờ". Nếu Nguyễn Kính là người chỉ biết hùa theo phe mạnh, ông đã theo Chiêu Tông đang thắng thế trước Mạc Đăng Dung (chỉ còn Hải Dương) khi Chiêu Tông theo Trịnh Tuy vào Thanh Hoá (1522). Nhưng lúc đó ông đã nhận ra sự thiếu sáng suốt của Chiêu Tông (trước giết oan Trần Chân, sau bỏ rơi các tướng Bắc bộ); còn với Trịnh Tuy - người quen cũ của ông – ông nhận ra Tuy không phải là đối thủ của Đăng Dung nên ông dứt khoát đi theo Đăng Dung. Sau nữa, lúc nhà Mạc chao đảo vì loạn Phạm Tử Nghi và sự ly khai về với nhà Lê của một loạt đại thần chủ chốt trong nhà Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến, nếu Nguyễn Kính xu thời, ông cũng sẽ theo về nhà Lê trung hưng. Nhưng ngược lại, ông vẫn tận trung với ấu chúa nhà Mạc, là số ít các tướng tận tuỵ ở lại cùng hoàng thân Mạc Kính Điển chống giữ bảo vệ cơ nghiệp nhà Mạc. Không phải ngẫu nhiên ông trở thành người duy nhất ngoài gia tộc vua Mạc được truy tặng tước vương.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Kính** (chữ Hán: 阮敬; 1508 - 1572) tên thường gọi là Nguyễn Thanh Phúc, là một công thần khai quốc nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Nguyễn Kính, cũng còn
nhỏ|phải|Nguyễn Kinh Thiên tại Hội chợ sách quốc tế Đài Bắc năm 2010 **Nguyễn Kinh Thiên** (Ethan Ruan; sinh ngày 8 tháng 11 năm 1982) là nam diễn viên, người mẫu Đài Loan đã giành
**Nguyễn Kinh Chi** (1899 – 1986) là một học giả, nhà y học, chính khách Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế. ## Xuất thân và sự nghiệp Bác sĩ Nguyễn Kinh Chi sinh
**_Nguyên Kính Vương hậu_** (__) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc sắp ra mắt với sự tham gia của các diễn viên Cha Joo-young, Lee Hyun-wook và Lee Sung-min. Bộ phim dự kiến
**Nguyễn Kính phi** (chữ Hán: 阮敬妃; 1444 - 1485), không rõ tên thật, là một phi tần được sủng ái của hoàng đế Lê Thánh Tông, vị minh quân nổi tiếng của triều đại nhà
**Nguyên Kính Vương hậu** (chữ Hán: 元敬王后; Hangul: 원경왕후; 11 tháng 7, 1365 - 10 tháng 7, 1420), hay **Hậu Đức Đại phi** (厚德大妃), là Vương hậu duy nhất của Triều Tiên Thái Tông Lý
**Nguyễn Kính phi** (chữ Hán: 阮敬妃; ? - ?) là một phi tần của hoàng đế Lê Hiến Tông, mẹ nuôi của Lê Uy Mục thuộc triều đại nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt
**_Kinh Dịch_** (chữ Nôm: 經易), tên gốc là **_Dịch Kinh_** (chữ Hán: 易經), là một sách bói toán cổ xưa của Trung Quốc, nằm trong hàng ngũ những kinh điển cổ xưa nhất của nền
**Nguyễn Quyện** (chữ Hán: 阮倦; 1511-1593) là danh tướng trụ cột của nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam, tước Văn Phái hầu sau được phong làm Thường quận công, Chưởng
**Dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên** là một loạt các dự án khai thác mỏ bô xít ở khu vực Tây Nguyên, Việt Nam, giai đoạn 2008-hiện nay. Giai đoạn 2009-2015, dự án
**Nguyễn Hoằng Dụ** (阮弘裕, ? - 1518) là tướng nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn (nay là Hà Trung), Thanh Hóa, Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
Bản Kinh Thánh viết tay [[tiếng La Tinh, được trưng bày ở Tu viện Malmesbury, Wiltshire, Anh. Quyển Kinh Thánh này được viết tại Bỉ vào năm 1407 CN, dùng để xướng đọc trong tu
phải|nhỏ|200x200px| Các lớp học về kinh tế sử dụng rộng rãi các biểu đồ cung và cầu như biểu đồ này để dạy về thị trường. Trong đồ thị này, S và D là cung
**Nguyễn Thị Lan** (chữ Hán: 阮氏蘭; ? – 1714), phong hiệu **Kính phi Phu nhân** (敬妃夫人), là một cung tần của Minh vương Nguyễn Phúc Chu trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Kính
**Khu vực thứ nhất của nền kinh tế** hay **khu vực/lĩnh vực sản xuất sơ khai** là một bộ phận của nền kinh tế, bao gồm các hoạt động biến đổi tài nguyên thiên nhiên
nhỏ|Cao nguyên Anatolia vào mùa đông. **Cao nguyên Anatolia**, hoặc gọi **cao nguyên Thổ Nhĩ Kì**, ở vào bán đảo Tiểu Á - phía tây của châu Á, thuộc lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kì.
**Nguyễn Đổng Chi** (6 tháng 1 năm 1915 – 20 tháng 7 năm 1984) là một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam, nguyên Trưởng ban Hán Nôm, nguyên Quyền Viện trưởng Viện
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt **Ng̃**) là họ của người Á Đông. Họ Nguyễn là họ người phổ biến nhất của người Việt. Họ Nguyễn cũng xuất hiện tại Triều Tiên và Trung Quốc ()
**Nguyễn Kim** (chữ Hán: 阮淦, 1468–1545), là một nhà chính trị và quân sự giai đoạn Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là người lãnh đạo trên thực tế của
Trong lịch sử khoa bảng Việt Nam, từ năm 1246 bắt đầu lấy đỗ Trạng nguyên đến năm 1787 đời Lê Trung Hưng, đã có tất cả 125 khoa thi với 127 đình nguyên (Nhà
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa** là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của Việt Nam. Nó được mô tả
**Nguyễn Từ Chi** (tên đầy đủ là **Nguyễn Đức Từ Chi**, tên thường gọi là **Từ Chi**; 1925 – 1995), là một trong những nhà dân tộc học hàng đầu của Việt Nam thế kỷ
phải|Chu kỳ kinh nguyệt **Kinh nguyệt** là tập hợp các thay đổi sinh lý lặp đi lặp lại ở cơ thể phụ nữ dưới sự điều khiển của hệ hormone sinh dục và cần thiết
**Quốc sử quán** () là cơ quan biên soạn lịch sử chính thức của triều Nguyễn hoạt động từ năm 1821 tới năm 1945. Cơ quan này đồng thời cũng tham gia cả chủ đề
MÔ TẢ VÀ HDSDỨng dụng của bộ adapter winstar Bộ chuyển đổi điện winstar SC-3123 là bộ chuyển đổi nguồn AC sang DC với nhiều đầu ra: 1,5V; 3V; 4,5V; 6V; 9V và 12V, giúp
MÔ TẢ VÀ HDSDỨng dụng của bộ adapter winstar Bộ chuyển đổi điện winstar SC-3123 là bộ chuyển đổi nguồn AC sang DC với nhiều đầu ra: 1,5V; 3V; 4,5V; 6V; 9V và 12V, giúp
**Huy Gia Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 徽嘉皇太后; 1441 - 8 tháng 4, 1505), hay **Trường Lạc Hoàng hậu** (長樂皇后), là phi tần của hoàng đế Lê Thánh Tông, sinh mẫu của hoàng đế Lê
**Nguyễn Khang** (1919-1976) là một cựu chính trị gia Việt Nam. Ông từng là Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1945, người đầu tiên quyết định và trực tiếp
**Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh**, còn được gọi là **Đại học UEH** () là đại học đa thành viên chuyên khối kinh tế hệ công lập, thuộc nhóm đại học trọng
**Nguyễn Xuân Phúc** (sinh ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Quảng Nam) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
**Bắc Kinh** có lịch sử lâu dài và phong phú, nguyên truy từ cách nay 3.000 năm. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**Kinh tế Nhật Bản** là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo
**Kinh tế học** (Tiếng Anh: _economics_) là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ. Kinh tế học cũng nghiên cứu
**_Kinh Thi_** () là một bộ tổng tập thơ ca vô danh của Trung Quốc, một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo. Các bài thơ trong _Kinh Thi_ được sáng tác trong
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Nguyễn Tấn Dũng** (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1949 tại Cà Mau) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Thủ tướng thứ sáu của nước Cộng hòa xã hội chủ
**Kính hiển vi điện tử truyền qua** (tiếng Anh: _transmission electron microscopy_, viết tắt: TEM) là một thiết bị nghiên cứu vi cấu trúc vật rắn, sử dụng chùm điện tử có năng lượng cao
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Các nguyên lý của [[kinh tế học**]] **Các nguyên lý của kinh tế học** là những quy luật tổng quan về kinh tế học và là những dự báo có thể xảy ra trong nền
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** là lịch sử của các nhà tư tưởng và học thuyết kinh tế chính trị và kinh tế học từ thời cổ đại đến ngày nay. Lịch sử tư
Tượng [[Thích-ca Mâu-ni tu khổ hạnh theo phong cách Phật giáo Hy Lạp hóa, khoảng thế kỷ thứ 2–3, Gandhara (nay thuộc miền đông Afghanistan), Bảo tàng Lahore, Pakistan.]] **Phật giáo Nguyên thủy**, còn gọi
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
Vị trí vùng Tây Nguyên trên bản đồ Việt Nam [[Lâm Đồng]] [[Đắk Lắk]] **Tây Nguyên** hay **vùng cao nguyên Nam Trung Bộ** là khu vực địa lý với địa hình cao nguyên thuộc miền
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Kinh thành Huế**, **cố cung Huế** hay **Thuận Hóa kinh thành** (chữ Hán: 順化京城) là một tòa thành ở cố đô Huế, nơi đóng đô của triều đại nhà Nguyễn trong suốt 143 năm từ
**Kinh tế Hoa Kỳ** (Mỹ) là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hỗn hợp với kỹ nghệ, mức độ công nghiệp hóa và trình độ phát triển rất cao. Đây không chỉ là
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu