Mạc Thúy (chữ Hán: 莫邃; 1346-1412) là tướng nhà Hồ trong lịch sử Việt Nam. Ông đã đem con em hợp tác với quân Minh chống lại nhà Hồ và các cuộc khởi nghĩa của người Việt. Nhờ lập được công, Mạc Thúy được nhà Minh phong làm Tham chính ở ty Bố chính Giao Chỉ, các em trai ông đều được nhà Minh phong chức. Mạc Thúy bị trúng tên độc chết khi tiến sâu vào đất Lạng Sơn để đánh cuộc khởi nghĩa do Nông Văn Lịch chỉ huy.
Nguồn gốc
Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Việt thông sử, Mạc Thúy người ở Chí Linh, thuộc Nam Sách. Mạc Thúy là dòng dõi trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi; thời Trần ở làng Đông Cao, huyện Bình Hà, tức làng Long Động, huyện Chí Linh bây giờ, đậu trạng nguyên khoa Giáp Thìn (1304) thời vua Anh Tông nhà Trần, làm quan đến chức Nhập nội hành khiển Thượng thư môn hạ Tả bộc xạ, kiêm Trung thư lệnh, tri quân dân trọng sự. Rất thanh liêm thận trọng, tiếng tăm lừng lẫy cả hai nước (Đại Việt và nước Trung Quốc). Đĩnh Chi sinh Mạc Dao, quan Ty hình viên đại phu. Mạc Dao sinh bốn con trai là: Địch, Thuấn, Thúy và Viễn, người nào cũng có tài năng sức lực.
Sự nghiệp
Hợp tác với nhà Minh đánh nhà Hồ
Năm 1406, nhà Minh mang quân sang đánh nước Đại Ngu. Tháng 10 năm đó, quân Minh hội ở sông Bạch Hạc, bày doanh trại bờ bắc sông Cái, đến tận Chú Giang. Mạc Thúy bất mãn với nhà Hồ, từ phủ Nam Sách mang người nhà ra hàng tướng Minh là Trương Phụ. Trương Phụ lập tức thu dụng. Anh em Mạc Thúy, Mạc Viễn và các ngụy quan người Việt đã báo cáo cho người Minh kế hoạch phòng thủ của quân Hồ.
Sách Minh thực lục của nhà Minh chép rằng:
Các ngụy quan như Thiêm phán Đặng Nguyên; người châu Nam Sách, phủ Lạng Giang là Mạc Thúy, Mạc Viễn đến yết kiến. Bọn họ nói rằng: "Giặc dựa vào Đông Đô, Tây Đô; cùng sự hiểm trở của các sông Tuyên, sông Thao, sông Đà, sông Phú lương. Đường huyết mạch từ phủ Tam Giang, qua bờ phía nam sông Đà, núi Tản Viên, đến phía nam sông Phú Lương, qua sông Ninh đi sang phía đông. Lại từ bờ bắc sông Phú Lương theo sông Hải Triều sông Luộc, sông Hy, sông Ma Lao đến Bàn Than, núi Khốn Mai, dọc sông xây đồn. Ải Đa Bang cho xây thêm thành đất, đồn trại nối tiếp liên hoàn dài hơn 900 dặm; bắt hết dân các châu tại Giang Bắc trên 200 vạn, gồm nam phụ lão ấu vào, để trợ thanh thế. Phía nam sông Phú Lương đều đóng cọc gỗ; tập trung các thuyền bè trong vũng nước đằng sau cọc, các cửa sông cũng đóng cọc gỗ để đề phòng công kích. Giặc phòng bị nghiêm nhặt tại Đông Đô, thường bày voi trận, lính tráng dọc thành; rêu rao đông đến 700 vạn.
Sau vài thắng lợi, quân Minh tiến đến sông Phú Lương. Quân nhà Hồ chặn giữ. Trương Phụ và Mộc Thạnh chưa biết thực hư quân nhà Hồ ra sao nên chưa dám tiến quân qua sông. Lúc đó Mạc Thúy và cùng tri châu Tam Đái là Đặng Nguyên vẽ bản đồ địa hình xin làm hướng đạo cho quân Minh. Ngày 13 tháng 12, được sự chỉ đường của Mạc Thúy, quân Minh dọc sông Phú Lương tiến xuống, đốt phá rào gỗ. Ngày 14 tháng 12, quân Minh đánh vào Đông Đô (Hà Nội), chiếm được thành.
Giữa năm 1407, nhà Hồ thua trận chạy vào nam. Quân Minh đuổi theo, Mạc Thúy mang quân đi cùng. Sau khi thượng hoàng Hồ Quý Ly bị quân Minh bắt, Mạc Thúy sai bộ tướng là Nguyễn Như Khanh tiếp tục truy kích vua tôi nhà Hồ. Nguyễn Như Khanh bắt được vua Hồ Hán Thương và thái tử Hồ Nhuế ở núi Cao Vọng (Kỳ Anh, Hà Tĩnh).
Ngày 17 tháng 4 năm 1407, Mạc Thúy, Doãn Bái và nhóm bô lão 1.120 người từ Bắc Giang và các phủ khác, từ An Việt và các huyện khác đến gặp chỉ huy quân Minh. Phát biểu của Mạc Thúy ghi nhận bởi Minh Thực Lục như sau:
"Được ơn cấp bảng dụ khắp trong nước, tuyên bố đức ý của thánh Thiên tử cho quan trở lại nguyên chức, lính trở lại nguyên đơn vị, dân trở về nghiệp cũ; hỏi tìm con cháu nhà Trần chọn một người hiền, tấu xin tước vương để làm chủ nước; lại chia người đi các nơi phủ dụ quan lại quân dân yên nghiệp như cũ. Duy con cháu nhà Trần trước đây bị giặc họ Lê tru diệt hết, không còn sót ai, không thể kế thừa. An Nam vốn là đất cũ của Trung Quốc, sau đó bị chôn vùi vào tục Man Di, không được nghe dạy dỗ lễ nghĩa. Nay may mắn được Thánh triều tảo trừ hung nghiệt, quân dân già trẻ được chiêm ngưỡng áo khăn thịnh trị, hân hạnh không kể xiết; xin được duy trì trở lại quận huyện cũ, ngõ hầu sửa đổi tục man di, vĩnh viễn thấm nhuần thánh hóa."
Thúy kính cẩn cùng các bậc kỳ lão soạn sẵn biểu văn, xin dâng lên triều đình để lòng kẻ dưới được đề đạt. Quan Tổng binh Tân Thành hầu Trương Phụ cho rằng cha con giặc họ Lê chỉ trong sớm tối bị tiêu diệt, các phủ huyện đều được bình định, cần có sự thống trị để phủ ngự dân này, nên ngay ngày hôm nay cho người ruổi về kinh đô tâu trình.
Nhờ lập công, Mạc Thúy được nhà Minh phong làm Tham chính ở ty Bố Chính thuộc Giao Chỉ; anh ông là Mạc Địch được phong làm
Chỉ huy sứ, em ông là Mạc Viễn được phong làm
Diêm thiết sứ. Năm 1408, Mạc Thúy cùng với Trương Phụ dẫn quân vào Diễn Châu, Giản Định đế và Đặng Tất không chống nổi phải rút về Hóa châu.
Thời kì hậu chiến
Ngày 17 tháng 5 năm Vĩnh Lạc VI (11/6/1408), Minh thực lục chép rằng: Bọn Thổ quan Tri phủ Lạng Giang đất Giao Chỉ tên là Mạc Thúy đến triều cống sản vật địa phương. Ban thưởng có sai biệt. Ngày 28 tháng 8 năm Vĩnh Lạc VI (17/9/1408): Ngày Quý Mão, ban yến cho quốc vương Bột Nê (Brunei) Ma Na Nhược Gia Na và cùng với bọn sứ thần các xứ Vu Điền, Đông Dương, bọn Mạc Thúy tri phủ Lạng Giang, Giao Chỉ.
Vua Trung Quốc là Minh Thành Tổ Chu Đệ quà thưởng bằng bạc, tiền giấy và lụa cho Mạc Thúy, còn đặc biệt tặng nhóm bầy tôi mới một bài thơ do vua sáng tác. Vinh dự cho họ Mạc như thế là tột đỉnh theo quan niệm Trung Hoa.
Cái chết
Năm 1412, Nông Văn Lịch khởi nghĩa ở Lạng Sơn, chặn lấp đường đi lại của người Minh, giết bắt vô số. Mạc Thúy đem quân tiến sâu vào đất Lạng Sơn, bị trúng tên thuốc độc mà chết. Sau cái chết của ông, nhà Minh đã ban ơn cho ông bằng cách cho con trai của ông là Mạc Tung được ăn lộc của cha, nhưng không phải đảm trách công việc.
Sau này, Mạc Đăng Dung lập ra nhà Mạc truy tôn cho ông miếu hiệu là Dụ Tổ (裕祖), thụy là Triệu Phúc Hoằng Đạo Tích Đức Hoàng đế (肇福弘道積德皇帝)
Gia đình
Con Mạc Thúy là Mạc Tung. Khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi đã nghiêm trị những người hợp tác với quân Minh nên Mạc Tung phải ẩn náu chui lủi ở thôn xóm. Mạc Tung sinh ra Mạc Bình. Mạc Bình dời đến làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (Hải Dương). Mạc Bình sinh ra Mạc Hịch. Mạc Hịch lấy Đặng Thị Hiếu, sinh ra Mạc Đăng Dung – người sau trở thành võ quan nhà Hậu Lê và tới năm 1527 thì lật đổ nhà Hậu Lê, lập ra nhà Mạc.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mạc Thúy** (chữ Hán: 莫邃; 1346-1412) là tướng nhà Hồ trong lịch sử Việt Nam. Ông đã đem con em hợp tác với quân Minh chống lại nhà Hồ và các cuộc khởi nghĩa của
1./ Thành phần ChínhCho 1 viên nén bao phimVitamin A (Beta Carotene) 5000 IUChiết xuất quả Việt Quất 4:1 (Vaccinium uliginosum) 150 mgQuả Kỷ tử (Lycium barbarum) 75 mgEyebright (Euphrasia officinalis) 75 mgHoa Cúc (Chrysanthemum
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
**Mạc** là một họ của người, có ở các quốc gia Á Đông như Trung Quốc, Việt Nam,... Riêng ở Việt Nam, có cả một triều đại phong kiến do những ông vua mang họ
**Quốc vương Thụy Điển** () là người đứng đầu Vương quốc Thụy Điển. Vua truyền ngôi theo chế độ cha truyền con nối; có hệ thống nghị viện phụ việc cho ông. Thời xa xưa,
**Mạc Thiên Tứ** (chữ Hán: 鄚天賜, , sinh ngày 12 tháng 12, 1699 hoặc 16 tháng 12, 1705 hoặc 1 tháng 1, 1718, mất ngày 18 tháng 6, 1780), tự là **Sĩ Lân** (士麟, ),
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Mạc Mậu Hợp** (chữ Hán: 莫茂洽, 1560 – tháng 1 năm 1593) là vị hoàng đế Đại Việt thứ năm của nhà Mạc thời Nam – Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Ông lên
**Mạc Phúc Tư** (chữ Hán: 莫福滋; 1524 - 1593), thụy hiệu là **Phúc Triệu**, tước Ninh vương (寧王), là tướng nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Cùng với những thân
Hàm lượng cao Lutein (24mg/ viên), kết hợp với Zeaxanthin, Beta-carotene và các vitamin, khoáng chất Giúp tăng cường thị lực cho mắt Giúp bảo vệ mắt sáng khỏe Hỗ trợ làm chậm quá trình
nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Sahara|Sahara tại Algérie]] nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Gobi|Gobi, chụp từ vệ tinh]] [[Ốc đảo tại Texas, Hoa Kỳ]] Một cảnh [[sa mạc Sahara]] **Hoang mạc** là vùng có lượng mưa rất
**Mạc Kính Chỉ** (chữ Hán: 莫敬止 ? - 1593) là vị vua đầu tiên nhà Mạc thời hậu kỳ, sau khi quân Nam triều chiếm được thành Thăng Long với cái chết của cha con
**Hiếu Văn hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文皇后; 1578 - 1630), hay **Huy Cung Từ Thận Thuận phi** (徽恭慈慎順妃), nguyên là Chính thất của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, thân mẫu của chúa Nguyễn Phúc Lan. Theo
**Mạc Kính Vũ** (chữ Hán: 莫敬宇) là vua nhà Mạc thứ 10 và là vua Mạc thời hậu kỳ, khi đã rút lên Cao Bằng. Nguyên quán Mạc Kính Vũ là người xã Cao Đôi,
**Mạc Ngọc Liễn** (chữ Hán: 莫玉璉, 1528-1594) là một quan chức triều Mạc, người xã Dị Nậu, huyện Thạch Thất, Hà Nội, Việt Nam. ## Tiểu sử Mạc Ngọc Liễn nguyên có tên là Nguyễn
WIT - TĂNG CƯỜNG THỊ LỰC, GIẢM MỜ, MỎI MẮT - BẢO VỆ VÕNG MẠC & THỦY TINH THỂ- Hàng nhập khẩu chính hãng, có hóa đơn mua hàng từ Công ty.- Sản phẩm có
**Mạc Kính Khoan** (chữ Hán: 莫敬寬 ? - 1638) là vua nhà Mạc thứ 3 thời hậu kỳ, khi đã rút lên Cao Bằng. Nguyên quán Mạc Kính Khoan là người xã Cao Đôi, huyện
**Mạc Thái Tông** (chữ Hán: 莫太宗 ? – 25 tháng 1 năm 1540 / 3 tháng 3 năm 1540) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông ở
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Mạc Kính Cung** (chữ Hán: 莫敬恭 ? - 1625) là vua nhà Mạc thời hậu kỳ, khi Bắc triều chấm dứt với cái chết của cha con Mạc Mậu Hợp và Mạc Toàn. ## Khôi
**Mạc Cảnh Huống** (莫景貺, 1542-1677) là người xuất thân trong hoàng tộc nhà Mạc, em của Khiêm vương Mạc Kính Điển và đồng thời là chú của Quận chúa Mạc Thị Giai (người sau này
**Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí** là một bệnh viện ở Uông Bí, Quảng Ninh được xây dựng và đưa vào hoạt động vào năm 1981; với sự giúp đỡ, viện trợ
**Văn hóa Lê–Mạc** (hoặc được khái quát hóa lên là **Thời đại Lê–Mạc** hay cụ thể hơn nữa là **Thời kỳ chuyển giao Lê–Mạc**) là một khái niệm mang tính tổng hợp dùng để chỉ
Viên uống giúp bảo vệ mắt và tăng cường chức năng thị giác.THÀNH PHẦN:Bột quả anh đào dại đen ( Aronia ), chiết xuất quả việt quất ( vaccinium myrtillis ), hợp chất Lutein tự
Chân đèn trang trí họa tiết rồng thời Mạc **Nghệ thuật Đại Việt thời Mạc** phản ánh các thành tựu về nghệ thuật của nước Đại Việt dưới thời nhà Mạc từ năm 1527 đến
nhỏ|Một ảnh vệ tinh của [[NASA về sa mạc Thar]] nhỏ|Cảnh quan sa mạc Thar **Sa mạc Thar** hay **hoang mạc Thar** (, Hindi: थार मरुस्थल, ) hay còn gọi là **Sa mạc Đại Ấn
**Mạc Đăng Lượng** (1496-1604) là một võ quan được phong tước Quốc công dưới triều Hậu Lê. Triều Mạc từng được phong chức Phó quốc vương dưới thời nhà Mạc và được Mạc Thái Tổ
**Mạc Kính Hẻ** (莫敬喜), cũng có tên là **Mạc Kính Thụy** (莫敬瑞) hay **Mạc Nguyên Thanh** (莫元清), là vị vua (không chính thức) của nhà Mạc thời hậu kỳ trong lịch sử Việt Nam. Nguyên
**Từ đường họ Mạc** là một quần thể các di tích lịch sử - khảo cổ bên cạnh các công trình kiến trúc được xây mới, nằm trên địa bàn xã Ngũ Đoan, huyện Kiến
**Mạc Toàn** (chữ Hán: 莫全 1580 – 1593) là vị vua thứ sáu và là vua cuối cùng của nhà Mạc thời kỳ Nam - Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế
**Mạc Văn Đế** (_chữ Hán_:莫文帝) có thể là: ## Danh sách *Mạc Văn Đế Mạc Đĩnh Chi (gọi tắt theo thụy hiệu dài được truy tôn là "Kiến Thủy Khâm Minh Văn Hoàng Đế") *Mạc
**Mạc Đĩnh Chi** (chữ Hán: 莫挺之 1272 – 1346), tên tự là **Tiết Phu** (節夫), hiệu là **Tích Am** (僻庵) là một quan đại thần và nhà ngoại giao nổi tiếng triều Trần trong lịch
**Mạc Tử Thảng** (hay **Mạc Tử Thăng**, chữ Hán: 鄚子淌; ? – 1780), là thuộc tướng của chúa Nguyễn. Mạc Tử Thảng là con trai thứ hai của Mạc Thiên Tứ – nhà cai trị
**Thương mại Đại Việt thời Mạc** phản ánh những hoạt động nội thương và ngoại thương của nước Đại Việt từ năm 1527 đến năm 1592 trong vùng lãnh thổ do nhà Mạc quản lý.
**Sa mạc Kyzylkum** (chữ Anh: Kyzylkum Desert, chữ Uzbek: Qizilqum, Қизилқум) là chỉ sa mạc lớn thứ mười lăm của thế giới. Chữ Kyzyl và chữ kum trong ngữ hệ Đột Quyết (bao gồm tiếng
**Dương Văn An** (chữ Hán: 楊文安) (1514 – 1591), biểu tự là **Tĩnh Phủ** (靜甫); là quan nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, và là tác giả của quyển sách địa lý-lịch sử nổi
**Tiếng Mạc** (; tên tự gọi: _ʔai3 maːk8_) là một ngôn ngữ Đồng–Thủy được nói ở huyện Lệ Ba, châu Kiềm Nam, tỉnh Quý Châu, Trung Quốc. Nó được nói chủ yếu ở bốn trấn
:_Tránh nhầm lẫn với Thủy triều hồng_ **Thủy triều đỏ** là tên gọi chung cho những hiện tượng được biết đến như là những đợt bùng phát tảo biển nở hoa, nó gây ra bởi
** Khiêm Vương** **Mạc Kính Điển** (chữ Hán: 謙王 莫敬典; 1525? - 1580), tự **Kinh Phủ**, là đại công thần có công lớn trong việc gìn giữ cơ nghiệp nhà Mạc, được nhà Mạc phong
Đối tượng sử dụng– Người cần bổ sung dưỡng chất chăm sóc mắt như:• Người bị thoái hóa điểm vàng.• Người có nguy cơ bị đục thủy tinh thể.• Người bị suy giảm thị lực
:_Về một bộ lạc người bản thổ Mỹ, xem Mohave._ **Hoang mạc Mojave**, người địa phương thường gọi là **High Desert** (có nghĩa là Hoang mạc trên cao), chiếm một phần lớn vùng đông nam
**Mạc Cửu** (鄚玖), hay **Mạc Kính Cửu** (鄚敬玖): 1655 – 1735); là một thương gia người Hoa có công khai phá, hình thành vùng đất Hà Tiên (Kiên Giang) vào khoảng đầu thế kỷ XVII
**Thủy Tổ** (_chữ Hán_ 始祖) là miếu hiệu do các vị quân chủ đời sau truy tôn cho có công khai sáng ra triều đại đó, ngoài ra Thủy Tổ còn là cách gọi những
**Mạc Công Du** (鄚公榆, ?–1833), là một viên quan triều Nguyễn, từng làm Hiệp trấn rồi Trấn thủ Hà Tiên. ## Tiểu sử Mạc Công Du là con người thiếp thứ ba của Mạc Tử
**Mạc Tử Dung** (鄚子溶, ?-1780), là võ tướng trải hai triều chúa Nguyễn: Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Mạc Tử Dung là
[[Hồ Tchad trong một bức ảnh vệ tinh năm 2001, với vùng nước màu xanh lam. Từ thập kỷ 1960, hồ đã co lại, giảm 95% diện tích.]] **Sa mạc hóa** hay **hoang mạc hóa**
**Mạc Chính Trung** (chữ Hán: 莫正中; ?-?) là hoàng tử nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia tranh chấp ngôi báu nhà Mạc giữa thời Nam-Bắc triều và cuối cùng thất bại.
**Thủ công nghiệp Đại Việt thời Mạc** chủ yếu là những ngành nghề gốm sứ, đúc tiền, chạm khắc đá và nghề dệt. Các ngành thủ công nghiệp được triều đình chú trọng phát triển,
phải|Lượng giáng thủy trung bình hàng năm theo mm và inch trên thế giới. Vùng màu xanh nhạt là [[sa mạc.]] phải|Lượng mưa trung bình dài hạn theo tháng. **Giáng thủy** trong khí tượng học
**Thủy ngân(II) sulfat** thường được gọi là **thủy ngân sulfat**, là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học là **HgSO4**. Nó là một chất rắn không mùi ở dạng các hạt trắng