Từ đường họ Mạc là một quần thể các di tích lịch sử - khảo cổ bên cạnh các công trình kiến trúc được xây mới, nằm trên địa bàn xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng, vốn là đất phát tích của nhà Mạc và đồng thời là khu vực trung tâm của Dương Kinh (kinh đô thứ hai sau Thăng Long ở thời thịnh Mạc và được nhiều nhà nghiên cứu xem là kinh đô ven biển đầu tiên của người Việt) triều Mạc ở thế kỷ 16.
Vai trò lịch sử của Dương Kinh thời Mạc
Sau khi lên ngôi, Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) chỉ làm vua 3 năm rồi nhường ngôi cho con trưởng là Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh), còn mình về quê hương Cổ Trai làm Thái thượng hoàng và cho xây dựng kinh đô thứ hai là Dương Kinh. Trong nhiều đợt khảo cổ gần đây, tại khu vực thôn Cổ Trai xuất lộ những di vật thời Mạc như thành luỹ, hệ thống hào nước, gốm sứ hoa màu lam, đồ sành, đồ đá, đất nung với những nét hoa văn mang phong cách nghệ thuật điển hình của thế kỷ 16. Ở đây, tại chùa Phúc Linh vẫn còn lại những thành bậc đá kích thước lớn, trang trí cầu kỳ, bố cục tương tự các thành bậc ở điện Lam Kinh và Kính Thiên thời Lê Sơ. Điêu khắc đá thời Mạc tại Dương Kinh có nhiều đề tài chưa từng được thấy tại các nơi khác như tượng Nghê đồng, Quan Âm tọa sơn, Quan Âm Nam Hải, Quan Âm nghìn tay nghìn mắt và bộ tượng Tam Thế.
Theo sử sách, nhằm thực hiện chính sách cải cách kinh tế nông nghiệp, mở mang công thương nghiệp, sản xuất hàng hoá, xây dựng nền kinh tế hướng ra biển, ngoài kinh thành Thăng Long, Mạc Thái Tổ còn tạo dựng sự sầm uất ở Cổ Trai quê hương ông và Dương Kinh, kinh đô thứ hai có vị thế gần biển, sông với nhiều ngả nối liền phố Hiến, Thăng Long. Để Dương Kinh trở thành đô thị ven biển xứ Đông, nhà Mạc cho xây dựng một số thương cảng trs bến dưới thuyền làm nơi giao lưu hàng hoá trong và ngoài nước, từng bước đưa Dương Kinh xưa trở thành đô thị đầu tiên của Hải Phòng, đô thị ven biển đầu tiên của người Việt.
Quá trình ghi nhận
Từ những kết quả nghiên cứu mới trong ngành sử học và văn hoá Việt Nam khởi đầu từ những năm cuối thập niên 1980 nhằm đánh giá lại một cách thực sự khách quan và công bằng những đóng góp trên nhiều lĩnh vực của triều Mạc đối với lịch sử dân tộc, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Phạm Quang Nghị đã ký Quyết định số 24/2002/QĐ-BVHTT ngày ngày 17 tháng 9 năm 2002, công nhận Từ đường họ Mạc ở Cổ Trai, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, Thành phố Hải Phòng là Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định quy hoạch 10,5ha đất tại xã Ngũ Đoan (đất phát tích nhà Mạc và khu vực Dương Kinh xưa của vương triều Mạc) để xây dựng Khu tưởng niệm Vương triều Mạc và các Vua nhà Mạc. Năm 2009, Thủ tướng Chính phủ cũng có quyết định đưa công trình này vào danh mục các công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, bởi lịch sử vương triều Mạc là một phần không thể thiếu của lịch sử Thăng Long-Hà Nội.
Định Nam đao
Định Nam đao được phát hiện lần đầu năm 1938 tại Nam Định bởi con cháu họ Phạm gốc Mạc. Tên gọi "Định Nam đao" (đao Nam Định) là do con cháu họ Mạc đặt cho thanh đao này, xuất phát từ việc thanh đao này được phát hiện lần đầu tại tỉnh Nam Định. Năm 2010, thanh đao này đã được con cháu họ Phạm gốc Mạc ở Nam Định đưa về lưu thờ và trưng bày ở Khu tưởng niệm Vương triều Mạc. Theo con cháu họ Mạc thì thanh đao này được cho là binh khí của Mạc Thái Tổ.
Các thông tin về chiều dài, trọng lượng hiện tại, trọng lượng ước tính lúc ban đầu... của Định Nam đao được mô tả lần đầu năm 1986 bởi nhà nghiên cứu lịch sử Lê Xuân Quang. Theo ông Lê Xuân Quang, thanh đao dài 2,55 mét, nặng 25,6 kg (theo phán đoán, nếu chưa han gỉ, thanh long đao có thể nặng đến 30 kg). Dựa trên thông tin mô tả của ông Lê Xuân Quang, rất nhiều người đã đưa ra các nhận định về thanh đao này, trong đó có các quan điểm trái chiều về niên đại và tính thực chiến của nó.
Đến năm 2019, nhóm chuyên gia của Viện Khảo cổ học Việt Nam sau khi đo đạc lại thanh đao này để phục vụ việc lập hồ sơ công nhận bảo vật quốc gia cho thanh Định Nam đao đã công bố thông tin mô tả chi tiết có sự khác biệt lớn so với thông tin của ông Lê Xuân Quang. Theo thông tin đo đạc của Viện Khảo cổ học Việt Nam, thanh đao nặng 12,8 kg (ước tính trọng lượng khi mới sử dụng khoảng 15 kg), và có tổng chiều dài là 239 cm. Đồng thời, với việc phân tích thành phần hợp kim làm ra khâu đao, và đánh giá về hình dạng đầu rồng của khâu đao, Viện Khảo cổ học Việt Nam đã đưa ra nhận định niên đại của thanh đao là thời nhà Mạc.
Đến năm 2020, thanh đao này đã được công nhận là một bảo vật quốc gia của Việt Nam. Hồ sơ đề nghị công nhận bảo vật quốc gia cho thanh đao này ghi nhận thông tin về chiều dài và trọng lượng của thanh đao này như mô tả của Viện Khảo cổ học Việt Nam. Vì vậy, các thông tin mô tả của ông Lê Xuân Quang được xem là không chính xác, và theo đó các ý kiến đánh giá về niên đại cũng như tính thực chiến của thanh đao này dựa trên thông tin mô tả của ông Lê Xuân Quang (đưa ra trước năm 2019) cũng là không chính xác.
Theo nhận định của nhóm chuyên gia Viện Khảo cổ học Việt Nam năm 2019, thanh đao này có các yếu tố để nhận định rằng nó hoàn toàn có thể được dùng trên chiến trận, và khi ra trận thì chủ yếu được dùng trên lưng ngựa. Chẳng hạn, chiều dài của thanh đao này (239 cm) kết hợp với vị trí trọng tâm của thanh đao (cách chuôi đao 107 cm) cho phép sử dụng thanh đao linh hoạt trên lưng ngựa, với tầm sát thương của đao là khoảng 200 cm và tối đa là khoảng 300 cm khi nghiêng hoặc nhoài người. Trọng lượng ban đầu ước tính của thanh đao (khoảng 15 kg) đủ nặng để ra đòn chém bổ uy lực, nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát của một vị tướng trên chiến trường. Tiết diện cán hình bầu dục giúp việc cầm nắm đao vững chắc, và không bị lật xoay lưỡi đao nếu như cán tiết diện hình tròn. Chuôi đao được đúc đặc để cân bằng với phần lưỡi đao, nên người sử dụng có thể dùng chuôi đao để đánh tứ phía.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Từ đường họ Mạc** là một quần thể các di tích lịch sử - khảo cổ bên cạnh các công trình kiến trúc được xây mới, nằm trên địa bàn xã Ngũ Đoan, huyện Kiến
**Mạc** là một họ của người, có ở các quốc gia Á Đông như Trung Quốc, Việt Nam,... Riêng ở Việt Nam, có cả một triều đại phong kiến do những ông vua mang họ
nhỏ|phải|Họ Dương (楊) viết bằng [[chữ Hán]] **Dương** (楊, 陽 hay 羊) là họ người Á Đông. Họ Dương 楊 phổ biến thứ 6 tại Trung Quốc. Họ này cũng tương đối phổ biến tại
**Mạc Thiên Tứ** (chữ Hán: 鄚天賜, , sinh ngày 12 tháng 12, 1699 hoặc 16 tháng 12, 1705 hoặc 1 tháng 1, 1718, mất ngày 18 tháng 6, 1780), tự là **Sĩ Lân** (士麟, ),
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
Cổng chính của đền thờ họ Mạc với ba chữ 鄚公廟 _Mạc Công miếu_ **Đền thờ họ Mạc** có các tên chữ là **Trung Nghĩa từ**, **Mạc Công từ** hay **Mạc Công miếu**; còn dân
**Mạc Cửu** (鄚玖), hay **Mạc Kính Cửu** (鄚敬玖): 1655 – 1735); là một thương gia người Hoa có công khai phá, hình thành vùng đất Hà Tiên (Kiên Giang) vào khoảng đầu thế kỷ XVII
**Mạc Ngọc Liễn** (chữ Hán: 莫玉璉, 1528-1594) là một quan chức triều Mạc, người xã Dị Nậu, huyện Thạch Thất, Hà Nội, Việt Nam. ## Tiểu sử Mạc Ngọc Liễn nguyên có tên là Nguyễn
**Mạc Cảnh Huống** (莫景貺, 1542-1677) là người xuất thân trong hoàng tộc nhà Mạc, em của Khiêm vương Mạc Kính Điển và đồng thời là chú của Quận chúa Mạc Thị Giai (người sau này
** Khiêm Vương** **Mạc Kính Điển** (chữ Hán: 謙王 莫敬典; 1525? - 1580), tự **Kinh Phủ**, là đại công thần có công lớn trong việc gìn giữ cơ nghiệp nhà Mạc, được nhà Mạc phong
**Mạc Tử Dung** (鄚子溶, ?-1780), là võ tướng trải hai triều chúa Nguyễn: Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Mạc Tử Dung là
**Mạc Thái Tông** (chữ Hán: 莫太宗 ? – 25 tháng 1 năm 1540 / 3 tháng 3 năm 1540) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông ở
**Mạc Thúy** (chữ Hán: 莫邃; 1346-1412) là tướng nhà Hồ trong lịch sử Việt Nam. Ông đã đem con em hợp tác với quân Minh chống lại nhà Hồ và các cuộc khởi nghĩa của
**Mạc Công Du** (鄚公榆, ?–1833), là một viên quan triều Nguyễn, từng làm Hiệp trấn rồi Trấn thủ Hà Tiên. ## Tiểu sử Mạc Công Du là con người thiếp thứ ba của Mạc Tử
**Mạc Tử Hoàng** (鄚子潢, ? – 1780) là Hiệp trấn của Hà Tiên - Mueang Phutthai Mat; một vùng lãnh thổ nay thuộc cực Nam Việt Nam và một phần Campuchia. Ông là con trai
Đền thờ họ Mạc đầu tiên được xây dựng từ năm 1818 do Trấn thủ Mạc Công Du, cháu 4 đời của Mạc Cửu xây cất đơn sơ bằng gỗ lợp lá, ban đầu được
**Mạc Thị Bưởi** (1927 - 1951) là một nữ anh hùng liệt sĩ của lực lượng Việt Minh trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Bà là một trong những người được chính phủ Việt
**Kho tàng họ Mạc**, viết đầy đủ là **Kho tàng họ Mạc ở Hà Tiên**. Kho tàng này có hay không, không ai dám chắc, nhưng từ rất lâu, nó đã là đề tài được
Họ **Đồng (同)** là một họ của người Việt Nam. Biểu tượng của dòng họ Đồng tại Việt Nam ## Nguồn gốc họ Đồng Việt Nam Các triều đại phong kiến ở Việt Nam có
Đền thờ họ Mạc hay còn được gọi là Trung Nghĩa Từ. Đền thờ nằm trên triền núi Bình San với tên gọi là Bình San Điệp Thúy, là một trong mười cảnh đẹp trong
**Mạc Đĩnh Chi** (chữ Hán: 莫挺之 1272 – 1346), tên tự là **Tiết Phu** (節夫), hiệu là **Tích Am** (僻庵) là một quan đại thần và nhà ngoại giao nổi tiếng triều Trần trong lịch
**Mạc Tử Sanh** (鄚子泩, 1769- 1788), là nhà cai trị trấn Hà Tiên - Mueang Phutthai Mat; một vùng lãnh thổ nay thuộc cực Nam Việt Nam và một phần Campuchia. ## Thân thế &
**Mạc Công Tài** (鄚公材 hay **Mạc Công Thôn**, ?–1833), là một viên quan triều Nguyễn, từng làm Quản thủ Hà Tiên. Mạc Công Tài là con người thiếp thứ 3 của Mạc Tử Hoàng, em
nhỏ|phải|Chữ Doãn. **Doãn** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc (chữ Hán: 尹, Bính âm: Yin) và Triều Tiên (Hangul: 윤, Romaja quốc ngữ:
SLIPPERY ELM LÀ GÌ?Cây du trơn, hay Ulmus rubra , là một loại cây có nguồn gốc ở miền trung và miền đông Hoa Kỳ và Ontario, Canada.Cây được biết đến với vỏ màu nâu
Máy xông khí dung BioHealth NEB PRO với kích thước nhỏ gọn, thiết kế đơn giản dễ sử dụng, dùng được cho mọi đối tượngMáy dùng để khuếch tán thuốc theo dạng sương mù, tác
1./ Thành phần ChínhCho 1 viên nén bao phimVitamin A (Beta Carotene) 5000 IUChiết xuất quả Việt Quất 4:1 (Vaccinium uliginosum) 150 mgQuả Kỷ tử (Lycium barbarum) 75 mgEyebright (Euphrasia officinalis) 75 mgHoa Cúc (Chrysanthemum
Thời tiết mưa nắng thất thường thật sự không thể thiếu CAO HO KHA TỬ trong nhà mọi người ạ!NHỮNG ĐẶC ĐIỂM ƯU VIỆT CỦA #CAO_HO_KHA_TỬThành phần 100% được chiết xuất từ thảo dược thiên
#KHÔNG_TÁC_DỤNG_PHỤ#Sử dụng được cho cả #mẹ_bầu và #trẻ từ 3 tháng tuổi #CAO_HO_CAO_KHA_TỬ Trị ho,đau rát họng,ho khan,viêm họng,viêm phế quản, dành cho trẻ em và người lớnThành phần thảo dược quý hiếm từ thiên
Đây là một thuật ngữ y học (có tên tiếng Anh là lower respiratory tract infection-LRTI) thường chủ yếu do vi khuẩn và virus gây ra. ### Nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới do vi
**Dương Hổ Thành** () (1893-1949) là một tướng lĩnh Trung Hoa Dân quốc. Ông cùng với Trương Học Lương là 2 nhân vật chính thực hiện Sự biến Tây An bắt giữ Tưởng Giới Thạch,
**Nhiễm trùng đường hô hấp trên** (**Upper respiratory tract infection-URTI**) là một bệnh gây ra bởi nhiễm trùng cấp tính, liên quan đến đường hô hấp trên, bao gồm mũi, xoang, cổ họng hoặc thanh
Từ chỉ họ Đặng (Lăng họ Đặng) nằm ở phía Tây Nam của thôn Tỳ Điện, xã Phú Hòa, huyện Lương Tài. Căn cứ vào niên đại dựng một số bia trong di tích và
nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Sahara|Sahara tại Algérie]] nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Gobi|Gobi, chụp từ vệ tinh]] [[Ốc đảo tại Texas, Hoa Kỳ]] Một cảnh [[sa mạc Sahara]] **Hoang mạc** là vùng có lượng mưa rất
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Mạc Mậu Hợp** (chữ Hán: 莫茂洽, 1560 – tháng 1 năm 1593) là vị hoàng đế Đại Việt thứ năm của nhà Mạc thời Nam – Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Ông lên
**Mạc Phúc Tư** (chữ Hán: 莫福滋; 1524 - 1593), thụy hiệu là **Phúc Triệu**, tước Ninh vương (寧王), là tướng nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Cùng với những thân
**Tiếu ngạo giang hồ** được coi là một trong những tiểu thuyết đặc sắc nhất của Kim Dung, với nhiều thành công về nội dung, cốt truyện, thủ pháp văn học. _Tiếu ngạo giang hồ_
**Phạm Tử Nghi** (范子儀, 1509 -1551) là một võ tướng dưới triều đại nhà Mạc. Phạm Tử Nghi là con ông Phạm Hành (mất sớm) và bà Nguyễn Thị Bèo, (bà người huyện Nghi Dương,
**Mạc Kính Vũ** (chữ Hán: 莫敬宇) là vua nhà Mạc thứ 10 và là vua Mạc thời hậu kỳ, khi đã rút lên Cao Bằng. Nguyên quán Mạc Kính Vũ là người xã Cao Đôi,
**Mạc Kính Cung** (chữ Hán: 莫敬恭 ? - 1625) là vua nhà Mạc thời hậu kỳ, khi Bắc triều chấm dứt với cái chết của cha con Mạc Mậu Hợp và Mạc Toàn. ## Khôi
**Văn bia thời Mạc** là hệ thống những bia đá được dựng và khắc chữ văn bản dưới triều đại này. Hệ thống văn bia thời Mạc không chỉ là những tư liệu lịch sử
**Văn hóa Lê–Mạc** (hoặc được khái quát hóa lên là **Thời đại Lê–Mạc** hay cụ thể hơn nữa là **Thời kỳ chuyển giao Lê–Mạc**) là một khái niệm mang tính tổng hợp dùng để chỉ
**Định Nam đao** là một thanh đại long đao được thờ trong đền thờ tổ họ Mạc, được cho là của Mạc Đăng Dung (tức Mạc Thái Tổ), một danh tướng dưới triều Lê sơ
**Hiếu Văn hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文皇后; 1578 - 1630), hay **Huy Cung Từ Thận Thuận phi** (徽恭慈慎順妃), nguyên là Chính thất của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, thân mẫu của chúa Nguyễn Phúc Lan. Theo
Chân đèn trang trí họa tiết rồng thời Mạc **Nghệ thuật Đại Việt thời Mạc** phản ánh các thành tựu về nghệ thuật của nước Đại Việt dưới thời nhà Mạc từ năm 1527 đến
**Mạc Đăng Lượng** (1496-1604) là một võ quan được phong tước Quốc công dưới triều Hậu Lê. Triều Mạc từng được phong chức Phó quốc vương dưới thời nhà Mạc và được Mạc Thái Tổ
**Mạc Tuyên Tông** (chữ Hán: 莫宣宗 1540 - 1561) tên thật là **Mạc Phúc Nguyên** (莫福源), là hoàng đế thứ tư nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1546 đến 1561,
right|thumb|Bản đồ hoang mạc Ả Rập. Các vùng sinh thái theo mô tả của [[WWF. Đường màu vàng bao quanh vùng sinh thái gọi là "vùng đất cây bụi rất khô hạn hoang mạc Ả