✨Định Nam đao

Định Nam đao

Định Nam đao là một thanh đại long đao được thờ trong đền thờ tổ họ Mạc, được cho là của Mạc Đăng Dung (tức Mạc Thái Tổ), một danh tướng dưới triều Lê sơ và sau đó trở thành vua sáng lập nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên các phân tích của Viện khảo cổ năm 2019 cho thấy niên đại của thanh đao rất có thể rơi vào khoảng thế kỷ 17-18, nếu như vậy thì nó không thể là vũ khí của Mạc Đăng Dung. Có lẽ vì thanh đao này được thờ trong đền thờ tổ họ Mạc đã nhiều đời nên dẫn tới việc nhận định nó là binh khí của Mạc Đăng Dung, dù thực tế thanh đao không hề có khắc ký hiệu hoặc văn tự chứng minh cho nhận định này, chính sử cũng không ghi lại Mạc Đăng Dung dùng vũ khí gì trong quá trình chinh chiến.

Các thông tin về chiều dài, trọng lượng hiện tại, trọng lượng ước tính lúc ban đầu… của Định Nam đao được mô tả lần đầu năm 1986 bởi nhà nghiên cứu lịch sử Lê Xuân Quang. Ông Lê Xuân Quang tuyên bố thanh đao nặng tới 31 kg, dẫn tới nhiều nghi vấn về công dụng thực sự của thanh đao, bởi thanh đao nặng như vậy thường chỉ dùng trong nghi lễ chứ không hiệu quả để chiến đấu. Đến năm 2019, nhóm chuyên gia của Viện Khảo cổ học Việt Nam sau khi đo đạc lại thanh đao này để phục vụ việc lập hồ sơ công nhận bảo vật quốc gia đã công bố thông tin mô tả chính xác. Theo đó thanh đao chỉ nặng 12,8 kg (ước tính khoảng 15 kg khi còn mới). Đến năm 2020, thanh đao này đã được công nhận là một bảo vật quốc gia của Việt Nam. Hồ sơ đề nghị công nhận bảo vật quốc gia cho thanh đao này ghi nhận thông tin về chiều dài và trọng lượng của thanh đao này như mô tả của Viện Khảo cổ học Việt Nam. Vì vậy, các thông tin mô tả của ông Lê Xuân Quang được xem là không chính xác.

Thanh đao này vốn không có ghi tên, cái tên "Định Nam đao" chỉ là do con cháu họ Mạc đặt cho thanh đao này vào giữa thế kỷ 20. Sở dĩ xếp thanh "Định Nam đao" vào loại đại long đao theo phân loại binh khí cổ là bởi nó khá dài và nặng (khoảng 15 kg khi còn mới), nặng hơn so với hầu hết các loại đao cận chiến trên bộ thường thấy, cũng như phần khâu đao của nó được tạo tác theo hình dạng đầu rồng thu nhỏ (cũng đôi khi được gọi là nhai xế hay nhai xải), thay cho chỗ chắn hộ thủ quen thuộc thường thấy ở các loại đao khác nhau, trông như thể đầu rồng con đang há miệng nuốt lấy phần cuối lưỡi đao.

Thanh long đao này đã được cẩn trọng cất giữ như vật gia bảo của dòng họ Phạm gốc Mạc tại Nam Định trong suốt mấy thế kỷ. Từ năm 2010 tới nay nó đã được đưa vào lưu thờ ở Khu tưởng niệm Vương triều Mạc (trước là Từ đường họ Mạc) tại xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Đây là nơi vào thời Mạc là trung tâm của Dương Kinh, được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử xem là kinh đô thứ hai của triều Mạc giai đoạn còn nắm quyền ở Thăng Long.

Tên gọi

Trên thanh đao không có khắc tên. Tên gọi chính thức của thanh đao này trong Quyết định công nhận bảo vật quốc gia (đợt 8) là Long đao. Sau đó, thanh đao này được đưa vào từ đường chi họ Phạm gốc Mạc ở đây, và bảo quản trong lớp mỡ bò để tránh sự ăn mòn. Năm 2010, thanh đao này đã được con cháu họ Phạm gốc Mạc ở Nam Định đưa về lưu thờ và trưng bày ở Từ đường họ Mạc tại Hải Phòng cho đến nay.

Truyền thuyết về nguồn gốc

Thời vua Lê Uy Mục tổ chức thi tuyển dũng sĩ, Mạc Đăng Dung đã trúng Đô lực sĩ xuất thân (còn được gọi là Võ trạng nguyên), được sung quân Túc vệ cầm dù theo vua. Theo truyền thuyết thì Mạc Đăng Dung đã dùng thanh đao này để thắng cuộc thi tuyển võ sĩ nêu trên, và sau đó dùng thanh đao này để xông pha trận mạc dẹp các thế lực muốn phân tranh cát cứ với triều đình Lê sơ. Thời kỳ còn làm tướng của nhà Lê sơ thì thanh đao này có thể là một trong những vật bất ly thân của ông.

Không có thế lực chống lưng hỗ trợ, từ một người đậu Võ trạng nguyên ở độ tuổi ngoài 20 tuổi rồi được sung quân Túc vệ vác lọng theo vua thời gian đầu, Mạc Đăng Dung đã được giao chức Đô Chỉ huy sứ vệ Thần Vũ vào năm 1508 khi mới 25 tuổi. Điều này cho thấy nhiều về năng lực đương thời của ông, chứ không phải chỉ tiến thân nhờ có nhiều sức mạnh cơ bắp cá nhân hơn người thường mà đạt được. Chỉ trong khoảng 20 năm, Mạc Đăng Dung từ một võ quan cấp thấp thời Lê Uy Mục, nhờ tài thao lược và mưu trí, đã vươn tới tột bậc quyền lực vào năm 1527 khi được thăng tới chức Thái sư tước An Hưng vương thời Lê Cung Hoàng. Cũng trong năm 1527, ông chính thức soán ngôi nhà Lê sơ để lập ra nhà Mạc. Tuy nhiên ông chỉ giữ ngôi vua có 3 năm, rồi theo kế sách thời Trần mà chủ động nhường ngôi cho con trưởng Mạc Đăng Doanh (Mạc Thái Tông), sau đó lui về Dương Kinh (Cổ Trai) quê nhà nhưng vẫn quán xuyến hầu hết những việc hệ trọng quốc gia cho tới tận khi mất với vai trò của một Thái thượng hoàng. Và có lẽ từ thời điểm này cho đến những năm cuối thế kỷ 16 khi nhà Mạc bị thất thủ (1592) thì thanh đao đã được cất giữ tại Dương Kinh (Cổ Trai). Sau khi Mạc Thái Tổ băng hà năm 1541 thì thanh đao này được thờ như vật thái bảo của họ Mạc tại lăng miếu Dương Kinh (Cổ Trai).

Đến năm 1592, khi nhà Mạc thất thủ ở Thăng Long, cháu 4 đời của Mạc Đăng Dung là Mạc Đăng Thuận coi giữ lăng miếu, đã mang theo thanh đao này từ lăng miếu đến vùng Đồ Sơn, rồi sau đó xuống thuyền rời Đồ Sơn tiến về phía Nam, sau đó theo sông Hồng đến định cư ở vùng đất Kiên Lao (Nam Định) và đổi sang họ Phạm để tránh bị chúa Trịnh truy sát. Trải qua bốn đời ở vùng Kiên Lao, dòng họ Phạm gốc Mạc có sự phân chi, ông Phạm Công Úc được giao mang thanh đao này về định cư ở thôn Ngọc Tỉnh, thị trấn Xuân Trường, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, và thờ ở từ đường chi họ Phạm gốc Mạc.

Năm 1821, Phan Bá Vành nổi dậy chống lại triều đình vua Minh Mạng, và muốn mượn thanh đao này làm linh khí trên chiến trường. Dòng họ Phạm gốc Mạc ở Ngọc Tỉnh đã chôn giấu thanh đao này để không bị mất.

Mô tả

Thông tin ban đầu của ông Lê Xuân Quang

Năm 1986, nhà nghiên cứu lịch sử Lê Xuân Quang đã tiến hành đo đạc Định Nam đao (lúc này đang lưu giữ tại từ đường chi họ Phạm gốc Mạc tại tỉnh Hà Nam Ninh) và mô tả: thanh đao có tổng chiều dài 2,55 m, nặng 25,6 kg, trong đó lưỡi đao dài 0,95 m, cán đao bằng sắt rỗng dài 1,60 m; một hình đầu rồng bằng đồng thau che kín phần cuối lưỡi đao tiếp vào cán đao thay thế cho khâu đao, chỗ hình đầu rồng có "cá" chốt chặt lưỡi đao vào cán đao. Một số người ước lượng khi còn mới, thanh đao có thể nặng trên 30 kg. Ngoài ra, dọc sống đao có nhiều nét hoa văn lạ đến nay vẫn chưa lý giải được.

Mô tả tổng thể

Thanh đao có thể được chia làm 3 phần, gồm: lưỡi đao, khâu đao (họng, chuôi cán) và cán đao. Lưỡi đao có mũi nhọn, hình tựa bán nguyệt. Khâu đao là chốt nối giữa lưỡi đao và cán đao, ôm chùm lưỡi đao và họng cán. Khi tháo lưỡi đao ra thì cán đao thành một cây đoản côn.

Cán đao rỗng ở phía gần khâu đao, và đặc ở phần chuôi đao. Dọc theo cán đao không có dấu vết gỉ theo dạng gò uốn, do đó cán đao được chế tạo bằng cách đúc chứ không phải gò uốn từ tấm kim loại.

Trọng lượng

Thanh đao nặng 12,8 kg, ước tính trọng lượng khi mới sử dụng là khoảng 15 kg. Nếu quy đổi theo đơn vị cân truyền thống của Việt Nam (1 cân ta = 604,5 gam) thì lúc ban đầu thanh đao ước tính nặng khoảng 24,8 cân ta.

Kích thước

Tổng chiều dài của thanh đao là 239 cm. Lưỡi đao từ mũi đến hết khâu đao dài 92,5 cm, trong đó khâu đao dài 16,5 cm. Phần cán đao dài 146,5 cm, trong đó chuôi đao dài 12 cm. Điểm thăng bằng trọng lượng của cả thanh đao nằm ở vị trí 107 cm tính từ chuôi đao.

Bản lưỡi đao chỗ rộng nhất 11,5 cm, sống lưỡi dày nhất 1,3 cm, mỏng dần về đầu lưỡi. Cán đao có tiết diện là hình bầu dục, đường kính 4,5 cm x 3,5 cm.

Trang trí

Khâu đao tạo tác hình linh vật Nhai Tí (còn gọi Nhái Xế), đầu giống rồng, thân có vẩy, miệng há rộng làm bệ đỡ lưỡi đao, răng nanh nhô ra ngoài, có mũi sư tử, trán lạc đà, mắt tròn to, tai hình quạt, từ hốc mắt toả ra hai bên râu đơn, cong, cuộn đầu; phía dưới (cổ) đúc nổi 4 râu tựa đao mác, hai râu giữa đan vắt chéo nhau, các râu bên roãng lượn sóng nhẹ. Thân khâu đao khắc hoa văn tựa vân mây và vẩy rồng.

Lưỡi đao và cán đao để trơn, không trang trí hoa văn.

Chất liệu

Chất liệu chế tạo chủ yếu là sắt (bao gồm phần lưỡi đao và phần cán), riêng khâu đao làm bằng hợp kim đồng. Khi tiến hành phân tích thành phần hợp kim của khâu đao bằng phương pháp khối phổ plasma cảm ứng (ICP-MS), tỷ lệ phần trăm thành phần hợp kim cơ bản tính cho những nguyên tố có hàm lượng từ 1% trở lên là:

Hiện trạng, lưỡi đao và cán đao đã bị gỉ nặng, các lỗ ăn mòn trên cán đao sâu khoảng 0,5 cm - 0,7 cm; lưỡi đao còn bị sứt mẻ một phần.

Nhận định

Về niên đại

Trả lời phỏng vấn của Báo điện tử Dân trí năm 2013, ông Nguyễn Bá Thanh Long, Phó Chủ tịch Hội cổ vật Hải Phòng, cho rằng trên các hiện vật cổ thường có các chất liệu, hoa văn, kiểu dáng và họa tiết đặc trưng, gọi là "minh văn"; dựa vào "minh văn" có thể xác định được triều đại của hiện vật đó. Tuy nhiên, thanh đao này không có minh văn và cũng không có dấu tích vật thể nào để khẳng định niên đại hay chủ sở hữu.

Theo nhận định của nhóm chuyên gia Viện Khảo cổ học Việt Nam năm 2019, phần đầu rồng trên khâu đao không có mào, và cũng không có sừng. Trong khi đó, rồng có mào là đặc trưng của rồng thời Lý và rồng thời Trần, còn rồng có sừng dài là đặc trưng của rồng thời Lê Trung Hưng và rồng thời Nguyễn. Phần đầu rồng này gần giống với rồng thời Lê sơ (với đặc trưng là không có mào, không có sừng, có mũi to như mũi sư tử), và nếu thêm sừng nhú thì sẽ giống với rồng thời Mạc. Vì vậy, nhóm chuyên gia này cho rằng đầu rồng này thuộc nửa đầu thế kỷ XVI. Mặt khác, hợp kim đồng chứa kẽm (Zn) ở Việt Nam thường gặp sớm nhất vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVII (từ năm 1601 đến 1650), nên phần khâu đồng của thanh đao khó có thể do người thợ rèn Việt Nam làm ra vào thời đại Mạc Đăng Dung lên ngôi (năm 1527). Trong khi đó, từ năm 1503 người Trung Quốc dù chưa biết tách riêng nguyên tố kẽm ra thành một kim loại riêng biệt nhưng họ đã biết lấy quặng kẽm thêm vào hợp kim đồng nóng chảy. Từ đó, nhóm chuyên gia này đưa ra giả thuyết rằng có khả năng khâu đồng này được mua từ Trung Quốc hoặc được đúc từ phôi đồng của Trung Quốc, còn người thợ rèn Việt Nam chỉ đúc phần cán và rèn lưỡi.

Một số thành viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia cho rằng thanh đao này có thể có niên đại muộn hơn so với đánh giá nêu trên của nhóm chuyên gia Viện Khảo cổ học Việt Nam, vào thế kỷ XVII - XVIII, và vì thế chưa có cơ sở để gắn thanh đao này với vua Nhà Mạc. Trong Quyết định công nhận bảo vật bảo vật quốc gia (đợt 8), thanh đao này được ghi là có niên đại thuộc thế kỷ XVII - XVIII.

Căn cứ mô tả của Viện Khảo cổ Việt Nam, TS. Phạm Quốc Quân, nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia nhận định: ::Trang trí ở khâu đao tỉ mỉ, tinh tế, chưa thấy xuất hiện trong các di tích và bảo tàng Việt Nam. Niên đại của hiện vật có thể đặt trong bối cảnh triều Lê Trung Hưng.

PGS. TS Đinh Khắc Thuận (Viện Hán Nôm) đánh giá: ::Nghiên cứu trang trí trên khâu đao có thể xác định nghệ thuật trang trí mang phong cách Mạc.

Về khả năng thực chiến

Trả lời phỏng vấn của Báo điện tử Dân trí năm 2013, ông Đoàn Trường Sơn, Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Hải Phòng, cho rằng một người Việt Nam ở thế kỷ XVI dù có lực lưỡng cỡ nào cũng không thể mang được một thanh đao nặng 30 kg mà rong ruổi khắp sa trường. Vì vậy, thanh đao này mang ý nghĩa biểu tượng cho sức mạnh, cho vương quyền của một triều đại hơn là thanh đao chiến trận.

Theo nhận định của nhóm chuyên gia Viện Khảo cổ học Việt Nam năm 2019, thanh đao này dài hơn những thanh đao mà các võ sư hiện nay sử dụng để biểu diễn võ thuật đánh bộ (khoảng 170 cm - 180 cm), nên thanh đao này chỉ có thể dùng để đánh trên lưng ngựa. Khi giao chiến, tầm với của đao là khoảng 200 cm và tối đa là khoảng 300 cm khi nghiêng hoặc nhoài người. Chuôi đao được đúc đặc để cân bằng với phần lưỡi đao, nên người sử dụng có thể dùng chuôi đao để đánh tứ phía. Tiết diện cán hình bầu dục giúp việc cầm nắm đao vững chắc, và không bị lật xoay lưỡi đao nếu như cán tiết diện hình tròn. Với tổng trọng lượng ước tính 15 kg và điểm cân bằng trọng lượng cách chuôi đao 107 cm phù hợp với cách đánh đao trên ngựa. Trọng lượng trung bình chia đôi còn 7,5 kg, đủ nặng để ra đòn chém bổ uy lực và thu đao đánh bằng cán.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Định Nam đao** là một thanh đại long đao được thờ trong đền thờ tổ họ Mạc, được cho là của Mạc Đăng Dung (tức Mạc Thái Tổ), một danh tướng dưới triều Lê sơ
**Ngữ hệ Nam Đảo** () là một ngữ hệ lớn phân bổ rộng rãi tại các hải đảo Đông Nam Á và Thái Bình Dương, Madagascar và một phần nhỏ tại đại lục châu Á.
**Người Nam Đảo** hay **người Austronesia** (tiếng Anh: _Austronesia_) là tên chỉ nhiều nhóm sắc tộc ở Đông Nam Á, Châu Đại Dương và Đông Phi nói các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Đảo.
thumb|Định lý Đào về sáu tâm đường tròn **Định lý Đào về sáu tâm đường tròn** còn có tên đầy đủ là **định lý Đào về sáu tâm đường tròn kết hợp với một lục
thumb|Trường hợp điểm D nằm trên đường thẳng đối cực của P **Định lý Đào (conic)** là một định lý trong lĩnh vực hình học phẳng, nói về sự tồn tại của một đường thẳng
Kỹ thuật ô tô thuộc lĩnh vực Cơ khí động lực/Kỹ thuật giao thông là ngành học tích hợp kiến thức của nhiều lĩnh vực: cơ khí, tự động hóa, điện – điện tử và
Tàu thủy là một công trình kỹ thuật nổi, có thể chuyển dịch trên mặt nước, hay ngầm dưới nước, theo hướng đã định, với tốc độ cần thiết, và chuyên chở hàng hóa hay
**Trần Đình Nam** (1896 - 1974) là bác sĩ y khoa, chính khách Việt Nam. Ông từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Nội các Trần Trọng Kim (1945). ## Cuộc đời và
phải|nhỏ|500x500px| Thiết lập thử nghiệm Foucault để đo gương **Kiểm định lưỡi dao Foucault** được mô tả vào năm 1858 bởi nhà vật lý người Pháp Léon Foucault để đo dạng hình nón của gương
**Sân bay quốc tế Lưu Đình Thanh Đảo** (青岛流亭国际机场, pinyin: Qīngdǎo Liútíng Guójì Jīchǎng) từng là một sân bay quốc tế tại Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Sân bay có cự ly 31 km
**Kỹ thuật chế tạo**, hay còn gọi là _Cơ khí chế tạo máy_ hoặc _Công nghệ Chế tạo máy_ là một chuyên ngành Kỹ thuật cơ khí, được coi là trái tim của quá trình
Kỹ thuật môi trường là ngành học về các kỹ thuật và công nghệ giúp giải quyết các vấn đề môi trường cụ thể như: ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm; thu hồi, tái chế,
Cơ điện tử là một lĩnh vực Khoa học kỹ thuật và công nghệ đa ngành, tích hợp hệ thống của các ngành cơ khí, tự động hóa, điện tử, và tin học để tạo
Kỹ thuật hóa học là một lĩnh vực khoa học và công nghệ nghiên cứu và ứng dụng những kiến thức hóa học và kỹ thuật vào quá trình sản xuất các sản phẩm hóa
**Hải Nam** (chữ Hán: 海南, bính âm: Hǎinán) là tỉnh cực nam của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Hải Nam là tỉnh đông thứ hai mươi tám về số dân, đứng thứ
**Đông Nam Á** (tiếng Anh: **Southeast Asia**, viết tắt: **SEA**) là tiểu vùng địa lý phía đông nam của châu Á, bao gồm các khu vực phía nam của Trung Quốc, phía đông nam của
**Ireland** (phiên âm: "Ai-len", tiếng Anh: ; ; Ulster-Scots: ) là một hòn đảo tại Bắc Đại Tây Dương. Đảo này tách biệt với Đảo Anh ở phía đông qua Eo biển Bắc, Biển Ireland
**Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _Portugal_, ), quốc hiệu là **Cộng hòa Bồ Đào Nha** (, ) là một quốc gia nằm ở phía Tây Nam của khu vực châu Âu, trên bán
**Bình Định** là một tỉnh cũ ven biển nằm ở phía bắc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung, Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết số
**Xung đột giành quyền kiểm soát tại Quần đảo Trường Sa 1988**, hay còn gọi là **Hải chiến Trường Sa** hoặc **Xung đột Trường Sa** là sự kiện xung đột tại khu vực quần đảo
**Quần đảo Pitcairn** (; tiếng Pitkern: **'), tên gọi chính thức: **Pitcairn, Henderson, Ducie và Oeno''', là một nhóm gồm bốn hòn đảo núi lửa ở phía Nam Thái Bình Dương tạo thành Lãnh thổ
**Đào** (chữ Hán: 陶) là một trong những họ của người Việt Nam, Triều Tiên, và Trung Quốc. Trong danh sách Bách gia tính, họ này đứng thứ 31, về mức độ phổ biến, họ
**Đào Khản** (chữ Hán: 陶侃, 259 – 334), tự **Sĩ Hành**, người Bà Dương hay Tầm Dương, là danh tướng nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Cha của Đào Khản
**Nhà nước Mới** (tiếng Bồ Đào Nha: **_Estado Novo_**, ) là chế độ chính trị theo chủ nghĩa xã đoàn của Bồ Đào Nha từ năm 1933 đến năm 1974. Tiền thân của Nhà nước
**Cục Biển và Hải đảo Việt Nam** là tổ chức trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo
**_Đào, phở và piano_** () là một bộ phim điện ảnh chiến tranh tuyên truyền Việt Nam năm 2023, thuộc thể loại sử thi lãng mạn do Phi Tiến Sơn viết kịch bản kiêm đạo
**João VI** hoặc **John VI** (tiếng Bồ Đào Nha: **João VI**; – ), biệt danh là "the Clement", là vua của Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarve từ năm 1816 đến năm
**Beatriz** (, ; 7 –13 tháng 2 năm 1373 – ) là người con hợp pháp duy nhất còn sống của Fernando I của Bồ Đào Nha và Leonor Teles, và là Vương hậu Castilla
**Lũ lụt miền Trung năm 2020** (hay còn được gọi là **Lũ chồng lũ**, **Lũ lịch sử**) là 1 đợt bão, lũ lụt khắp miền Trung Việt Nam, bắt đầu từ đêm ngày 6 tháng
**Lục địa Nam Cực** hay **châu Nam Cực** (, phát âm hay ; còn được gọi là **Nam Cực**) là lục địa nằm xa về phía nam và tây nhất trên Trái Đất, chứa Cực
**Đảo Đài Loan** (Chữ Hán chính thể: 臺灣 hoặc 台灣; Chữ Hán giản thể: 台湾; Bính âm: _Táiwān_; Wade-Giles: _T'ai-wan_; tiếng Đài Loan: _Tâi-oân_) là một hòn đảo ở khu vực Đông Á, ngoài khơi
**Quần đảo Bắc Mariana**, tên chính thức là **Thịnh vượng chung Quần đảo Bắc Mariana** (_Commonwealth of the Northern Mariana Islands_), là một lãnh thổ chưa hợp nhất và thịnh vượng chung của Hoa Kỳ
nhỏ|Huy Hiệu Hoa Sen**Gia đình Phật tử Việt Nam** (**GĐPTVN**) là một tổ chức giáo dục thanh thiếu niên được thành lập từ những năm 1940, mang danh xưng chính thức là Gia đình Phật
Bản đồ cổ trước [[Công ước Pháp-Thanh 1887 có mũi Bạch Long (Paklung) thuộc Việt Nam. Khi sông Bắc Luân được lấy làm đường biên giới thì vùng đất Bạch Long phải bỏ]] **Hiệp định
**Quần đảo Solomon** (tiếng Anh: **Solomon Islands**) là một quốc đảo của người Melanesia, nằm ở phía Đông Papua New Guinea, bao gồm gần một ngàn đảo nhỏ trải dài trên một diện tích khoảng
**Trận hải chiến tại đảo Savo** theo tiếng Nhật nó có tên là **Dai-ichi-ji Solomon Kaisen** (第一次ソロモン海戦, だいいちじソロモンかいせん), là một trận hải chiến trên mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai giữa
thumb|Bản đồ vệ tinh bán đảo Krym tháng 5 năm 2015 **Krym** là một bán đảo tại Đông Âu, trên bờ biển phía bắc biển Đen, bị bao quanh hầu như hoàn toàn bởi biển
_Dom_ **Manuel II của Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha phát âm: [mɐnuɛɫ]; tiếng Anh: Emmanuel II, 15 tháng 11 năm 1889 - 2 tháng 7 năm 1932), có biệt danh là **"Người Ái
**Opera Việt Nam** đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 nhưng sự hình thành và phát triển của thanh nhạc Việt Nam nói chung và opera nói riêng mới
thumb|right|Nam Đại Dương theo mô tả trong dự thảo ấn bản thứ tư tài liệu _Giới hạn của biển và đại dương_ của [[Tổ chức Thủy văn Quốc tế (2002)]] thumb|right|[[Đới hội tụ Nam Cực
**Nam Phi** (), quốc hiệu là **Cộng hòa Nam Phi** (Republic of South Africa) là một quốc gia nằm ở mũi phía nam châu Phi, giáp Namibia, Botswana, Zimbabwe, Mozambique, Eswatini, và bao quanh toàn
**Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975** là sự kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGPMNVN) tiến vào Sài Gòn, dẫn tới sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa và chấm dứt
Hiện nay Việt Nam có 54 dân tộc và 1 nhóm "người nước ngoài". Bản Danh mục các dân tộc Việt Nam này được Tổng cục Thống kê Việt Nam của chính phủ Việt Nam
Đông Nam Bộ (màu tím) và Tây Nam Bộ (màu hồng) **Nam Bộ** (hay còn gọi là **miền Nam**) là một trong 3 miền địa lý của Việt Nam (gồm Bắc Bộ, Trung Bộ và
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
__NOTOC__ **Nam Yết** (tiếng Anh: _Namyit Island_; tiếng Filipino: _Binago_; , Hán-Việt: _Hồng Hưu đảo_) là một đảo san hô thuộc cụm Nam Yết của quần đảo Trường Sa. Đảo này nằm cách đảo Ba
**Song Tử Tây** (tiếng Anh: _Southwest Cay_, tiếng Philippines: Pugad, , Hán Việt: Nam Tử đảo) là một cồn san hô thuộc cụm Song Tử, quần đảo Trường Sa. Việt Nam hiện đang quản lý
**Đảo Wake** (còn gọi là **Rạn san hô vòng Wake**) là một rạn san hô vòng nằm ở Tây Thái Bình Dương, thuộc phần đông bắc tiểu vùng Micronesia, cách Guam 2.416 km (1.501 dặm) về
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
**Cuộc đổ bộ chiếm đóng Tulagi**, diễn ra vào ngày 3 và 4 tháng 5 năm 1942, là một phần của Chiến dịch Mo, chiến lược của đế quốc Nhật Bản tại khu vực Nam