✨Ngữ hệ Nam Đảo

Ngữ hệ Nam Đảo

Ngữ hệ Nam Đảo () là một ngữ hệ lớn phân bổ rộng rãi tại các hải đảo Đông Nam Á và Thái Bình Dương, Madagascar và một phần nhỏ tại đại lục châu Á. Ngữ hệ Nam Đảo được khoảng 386 triệu người nói.

Otto Dempwolff, một học giả người Đức, là nhà nghiên cứu đầu tiên đã khảo sát một cách rộng rãi Ngữ hệ Nam Đảo bằng cách sử dụng phương pháp so sánh. Một học giả người Đức khác là Wilhelm Schmidt, đã đặt ra từ tiếng Đức austronesisch bắt nguồn từ tiếng Latinh auster "gió nam" cộng với tiếng Hy Lạp nêsos "đảo". Đúng như tên gọi, phần lớn Ngữ hệ Nam Đảo được nói trên các hòn đảo, chỉ có một vài ngôn ngữ, như tiếng Mã Lai và nhóm ngôn ngữ Chăm là các ngôn ngữ bản địa tại lục địa châu Á. Nhiều ngôn ngữ Nam Đảo chỉ có rất ít người nói, song các ngôn ngữ Nam Đảo chính có hàng chục triệu người nói và đặc biệt, tiếng Mã Lai có đến 180 triệu người nói và là ngôn ngữ được nói nhiều thứ tám trên thế giới. Khoảng hơn hai mươi ngôn ngữ Nam Đảo là ngôn ngữ chính thức của các quốc gia.

Các nguồn khác nhau đưa ra số lượng các ngôn ngữ khác nhau, song Nam Đảo và Niger–Congo là hai ngữ hệ lớn nhất trên thế giới về số lượng ngôn ngữ, mỗi ngữ hệ chiếm khoảng một phần năm tổng số ngôn ngữ được ước tính trên thế giới. Phạm vi địa lý của Ngữ hệ Nam Đảo lớn hơn bất kỳ ngữ hệ nào khác trước khi Ngữ hệ Ấn-Âu mở rộng phạm vi trong thời kỳ thuộc địa. Ngữ hệ Nam Đảo kéo dài từ Madagascar ở ngoài khơi đông nam châu Phi đến đảo Phục Sinh ở phía đông của Thái Bình Dương. Tiếng Hawaii, tiếng Rapa Nui, và tiếng Malagasy (nói tại Madagascar) là các ngôn ngữ phân bổ ở những vùng địa lý xa nhất của Ngữ hệ Nam Đảo.

Theo Robert Blust (1999), Ngữ hệ Nam Đảo được chia thành một số nhánh chính, ngoại trừ một nhánh duy nhất thì tất cả các nhánh còn lại đều ở Đài Loan. Nhóm ngôn ngữ Formosa tại Đài Loan được phân thành 9 phân nhóm bậc đầu tiên của Ngữ hệ Nam Đảo. Toàn bộ các ngôn ngữ Nam Đảo được nói bên ngoài Đài Loan (bao gồm tiếng Yami ở ngoài khơi của đảo) thuộc nhánh Malayo-Polynesia, thỉnh thoảng được gọi là Ngoài-Formosa.

Bản đồ mở rộng phạm vi của Ngữ hệ Nam Đảo. Các thời kỳ dựa trên những nghiên cứu khảo cổ học.

Cấu trúc

Không dễ để khái quát về các ngôn ngữ của một ngữ hệ đa dạng như Nam Đảo. Ngữ hệ này được nói trên một phạm vi rộng rãi, các ngôn ngữ Nam Đảo có thể được chia thành ba nhóm ngôn ngữ: các ngôn ngữ kiểu Philippines, các ngôn ngữ kiểu Indonesia và kiểu hậu Indonesia .

Các ngôn ngữ Nam Đảo có xu hướng sử dụng điệp từ (lặp lại tất cả hoặc một phần của một từ, như wiki-wiki hay agar-agar), và, giống như các ngôn ngữ Đông và Đông Nam Á khác, hầu hết chúng có phương pháp tổ hợp ngữ âm rất hạn chế, với các âm vị thường có số lượng hạn chế và phần lớn là các âm tiết phụ âm-nguyên âm.

Từ vựng

Ngữ hệ Nam Đảo được hình thành theo phương pháp so sánh ngôn ngữ dựa trên cơ sở từ cùng nguồn gốc, các tập hợp từ tương tự trong cách phát âm và ý nghĩa có thể thể hiện chúng có nguồn gốc từ những từ tổ tiên giống nhau trong tiếng Nam Đảo nguyên thủy theo quy tắc thông thường. Một số tập hợp từ cùng gốc rất ổn định. Từ mắt trong nhiều ngôn ngữ Nam Đảo là mata (các ngôn ngữ Nam Đảo xa nhất về phía bắc miền Bắc, nhóm ngôn ngữ Formosa như tiếng Bunun và tiếng Amis đến phía nam như tiếng Maori). Các từ khác có khó khăn hơn để xây dựng mối liên hệ. Từ hai cũng là một từ ổn định, nó xuất hiện trên toàn bộ phạm vi của các ngôn ngữ Nam Đảo, song một số dạng (tiếng Bunun rusya, lusha; tiếng Amis tusa; tiếng Māori tua, rua) yêu cầu cần phải được một số chuyên gia ngôn ngữ học công nhận. Cơ sở dữ liệu từ vựng cơ bản Nam Đảo đưa ra một danh sách từ cho xấp xỉ 500 ngôn ngữ Nam Đảo.

Phân loại

Các ngôn ngữ Nam Đảo có kết cấu nột bộ phức tạp. Ngữ hệ gồm có nhiều ngôn ngữ tương tự và có liên hệ chặt chẽ với một số lượng lớn các phương ngữ liên tục, khiến việc xác định ranh giới ngôn ngữ giữa các nhánh gặp khó khăn. Tuy nhiên, có điều rõ ràng là tính đa dạng lớn nhất trong phả hệ ngôn ngữ là nhóm ngôn ngữ Formosa tại Đài Loan, và đây cũng là đảo có ngôn ngữ đa dạng nhất tại Thái Bình Dương, điều này ủng hộ luận điểm ngữ hệ Nam Đảo bắt nguồn từ Đài Loan hay Trung Quốc đại lục. Phân loại toàn diện đầu tiên để phản ánh điều này là .

Các bài viết chuyên đề về việc phân loại các ngôn ngữ Formosa và, bằng cách mở rộng, cấu trúc cấp cao nhất của Ngữ hệ Nam Đảo—là . Các học giả chuyên nghiên cứu về ngôn ngữ Formosa còn tranh luận về một số đặc điểm, và vẫn còn là vấn đề để các nhà ngôn ngữ học hiện đại nghiên cứu. Nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesia thường được xếp vào trong nhánh Đông Formosa của Blust do chúng chia sẻ việc đồng nhất âm Nam Đảo nguyên thủy t, C thành /t/ và n, N thành /n/, chúng thay đổi S thành /h/, và các tư vựng như lima "năm" mà không được chứng thực trong các ngôn ngữ Formosa khác.

Có vẻ như đã có hai cuộc di cư vĩ đại của ngôn ngữ Nam Đảo và nó đã nhanh chóng bao phủ một khu vực rộng lớn. Đầu tiên là nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesia phân bố đến Philippines, Indonesia, và Melanesia. Các ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Trung Malayo-Polynesia cũng tương tự như nhau sau không phải vì mối quan hệ phả hệ chặt chẽ, mà bởi chúng phản ánh sự tác động nền tảng mạnh mẽ của các ngôn ngữ phi Nam Đảo. Cuộc di cư thứ hai là các ngôn ngữ châu Đại Dương mở rộng đến Polynesia và Micronesia.

Ngoài Malayo-Polynesia, mười ba nhóm ngôn ngữ Formosa được chấp thuận rộng rãi. Cuộc tranh luận giữa các nhà ngôn ngữ học chủ yếu xoay quanh mối quan hệ giữ các ngữ hệ này. Trong một số phương pháp phân loại được trình bày trong bài, liên kết hai ngữ hệ vào nhóm Đồng bằng miền Tây, hai hệ nữa vào nhóm Tây Bắc Formosa, và ba hệ nữa vào nhóm Đông Formosa, trong khi liên kết năm hệ vào một nhóm Bắc Formosa. Cơ sở dữ liệu từ vựng cơ bản Nam Đảo (2008) chấp thuận nhóm phía Bắc, từ chối nhóm phía Đông, liên kết Tsou và Rukai (hai ngôn ngữ khác nhau khá lớn), và liên kết nhóm Malayo-Polynesia với nhóm Paiwan thành nhóm Paiwan. chia tách nhóm Tsou, và lưu ý rằng Tsou, Rukai, và Puyama nằm ngoài việc phục dựng lại tiếng Nam Đảo nguyên thủy.

Các nghiên cứu khác trình bày về bằng chứng âm vị học để bác bỏ việc nhóm Paiwan gồm Paiwan, Puyuma, Bunun, Amis, và Malayo-Polynesia, song điều này không được phản ánh trong từ vựng. Những người nói tiếng Đông Formosa như Basay, Kavalan, và Amis cùng chia sẻ một câu chuyện rằng họ có nguồn gốc từ một hòn đảo gọi là Sinasay hay Sanasay . Người Ami, đặc biệt, vẫn duy trì quan niệm rằng họ đến từ phía đông, và bị người Puyuma đối xử như là một nhóm phục tùng .

Blust (1999)

Các ngôn ngữ bản địa tại Đài Loan trước khi bị người Hán chinh phục, theo Blust (1999).

:Nam Đảo (theo chiều kim đồng hồ từ tây nam)

Tsou Saaroa *Kanakanabu

  • Thao (AKA Sao. Các phương ngữ Brawbaw, Shtafari)
  • Đồng bằng Trung tâm miền Tây Babuza (Taokas, các phương ngữ Poavosa; tiếng Favorlang cũ) Papora-Hoanya (các phương ngữ Papora, Hoanya)

Saisiyat (Taai, các phương ngữ Tungho) Pazeh (hay Kulun)

Atayal Seediq (AKA Truku, Taroko)

*miền Bắc (Kavalan) Basay (Trobiawan, các phương ngữ Linaw–Qauqaut) Kavalan *Ketagalan hay Ketangalan Trung (Amis) Amis Nataoran (Bắc Amis) **Sakizaya

  • Siraya

*(Mantauran, Tona, và các phương ngữ Maga bị phân tách)

Lý Nhâm Quý (2008)

Cách phân loại của Lý giữ lại nhóm Đông Formosa của Blust, và kết hợp hai ngữ hệ miền Bắc khác. Lý Nhâm Quý đề xuất một tổ tiên ngôn ngữ Formosa nguyên thủy (F0) tương đương với Nam Đảo nguyên thủy (PAN), theo mô hình của Starosta (1995). Rukai và Tsou được xem là rất khác biệt,

F0: Formosa = Nam Đảo Mantauran *Maga–Tona, Budai–Labuan–Taromak F1


Tsou Nam Tsou Saaroa Kanakanabu ***F2


*Tây Bắc (Đồng bằng) **Saisiyat–Kulon–Pazeh **Tây ***Thao **Bờ biển phía Tây (Papora–Hoanya–Babuza–Taokas) Atayal **Squliq Atayal **Ts'ole' Atayal (= C'uli') **Seediq


Kavalan–Basay Siraya–Amis **? Nam** [không chắc chắn]


**Isbukun **Bắc và Trung (Takitudu và Takbanuao)


Cơ sở dữ liệu từ vựng cơ bản Nam Đảo (2008)

Các ngôn ngữ bản địa tại Đài Loan trước khi bị người Hán chinh phục, theo Austronesian Basic Vocabulary Database . Nghiên cứu này giữ nhóm Bắc Formosa của Lý Nhâm Quý, song tách nhóm Đông Formosa của Blust, và đề xuất Paiwan có thể là nhóm gần nhất với Malayo-Polynesia. Nó cũng kết hợp Tsou và Rukai, hai ngôn ngữ khác biệt nhất theo Lý Nhâm Quý. :Nam Đảo

Basay (Trobiawan, các phương ngữ Linaw–Qauqaut) Kavalan *Ketagalan

  • Thao (hay Sao. Brawbaw, các phương ngữ Shtafari)
  • Đồng bằng phía Tây Babuza (AKA Favorlang.Taokas, Poavosa) Papora-Hoanya (Các phương ngữ Papora, Hoanya) Saisiyat (vác phương ngữ Taai, Tungho) Pazeh (AKA Kulun)
  • Atayal Atayal (Squliq, C'uli') Seediq (AKA Truku, Taroko)

Sakizaya Nataoran (Bắc Amis) *Amis

*Bunun

*Tsou Tsou Saaroa *Kanakanabu Rukai

  • Siraya (các phương ngữ Taivoan, Makatao)

*Puyuma

Paiwan Malayo-Polynesia

Ross (2009)

Các nhóm ngôn ngữ Formosa tại Đài Loan trước khi người Hán chinh phục, theo Ross (2009). Năm 2009, Malcolm Ross đã đề xuất một cách phân loại mới cho Ngữ hệ Nam Đảo dựa trên bằng chứng hình thái học từ các ngôn ngữ Formosa khác nhau. Ông đề xuất rằng hiện nay thì việc tái dựng ngôn ngữ Nam Đảo nguyên thủy thực sự tương ứng với một giai đoạn trung gian, mà ông gọi với thuật ngữ "Nam Đảo hạt nhân nguyên thủy". Đáng chú ý, cách phân loại của Ross không ủng hộ tính thống nhất của nhóm ngôn ngữ Tsou, thay vào đó, ông coi nhóm ngôn ngữ Nam Tsou gồm Kanakanavu và Saaroa là một nhánh riêng biệt. Điều này ủng hộ tuyên bố của Chang (2006) rằng Tsou không phải là một nhóm hợp lý.

:Nam Đảo

*(các phương ngữ Mantauran và Tona–Maga phân biệt)

Các ngôn ngữ chính

;Ngôn ngữ với trên 4 triệu người nói bản địa

  • Java (76 triệu)
  • Filipino / Tagalog (47 triệu bản địa, ~90 triệu tổng cộng)
  • Mã Lai / Indonesia, (45 triệu bản địa, ~250 triệu tổng cộng)
  • Sunda (27 triệu)
  • Cebuano (19 triệu bản địa, ~30 triệu tổng cộng)
  • Malagasy (17 triệu)
  • Madura (14 triệu)
  • Ilokano (8 triệu bản địa, ~10 triệu tổng cộng)
  • Hiligaynon (7 triệu bản địa, ~11 triệu tổng cộng)
  • Minangkabau (7 triệu)
  • Batak (7 triệu, tất cả các phương ngữ)
  • Bikol (4,6 triệu, tất cả các phương ngữ)
  • Banjar (4,5 triệu)
  • Bali (4 triệu) ;Các ngôn ngữ chính thức
  • Caroline (5.700, )
  • Chamorro (60.000, và )
  • Fiji (350.000 bản địa, 550.000 tổng cộng, )
  • Filipino (47 triệu bản địa, ~90 triệu tổng cộng, )
  • Gilbert (100.000, )
  • Hawaii (1.000 bản địa, 8.000 thạo, )
  • Mã Lai / Indonesia, (45 triệu bản địa, ~250 triệu tổng cộng, , , , , và )
  • Malagasy (17 triệu, )
  • Māori (100.000, )
  • Marshall (> 44.000, )
  • Nauru (6.000, )
  • Niue (8.000, )
  • Palau (15.000, )
  • Rapa Nui (5.000, )
  • Samoa (370.000, , )
  • Sonsorol (600, Sonsorol, )
  • Tahiti (120.000, )
  • Tetum (800.000, )
  • Tobi (100, Hatohobei, )
  • Tonga (108.000, )
  • Tuvalu (13.000, )
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngữ hệ Nam Đảo** () là một ngữ hệ lớn phân bổ rộng rãi tại các hải đảo Đông Nam Á và Thái Bình Dương, Madagascar và một phần nhỏ tại đại lục châu Á.
**Ngữ hệ Nam Á** () là một ngữ hệ lớn ở Đông Nam Á lục địa, phân bố rải rác ở Ấn Độ, Bangladesh, Nepal và miền nam Trung Quốc, được nói bởi khoảng 117
**Nhóm ngôn ngữ Nam Đảo-Tai** hay **nhóm ngôn ngữ Nam Đảo-Thái**, là một liên hệ được đề xuất bao gồm các ngôn ngữ Nam Đảo (nói ở Đài Loan, Đông Nam Á hải đảo, Quần
**Ngữ hệ Kra-Dai** ( , các tên gọi khác bao gồm **Tai–Kadai** and **Daic** ) là một ngữ hệ tập trung tại Đông Nam Á, miền nam Trung Quốc và Đông Bắc Ấn Độ. Hiện
thumb|Phân bố năm 2005 của các ngữ hệ chính trên thế giới (vài trường hợp là nhóm ngôn ngữ địa lý, không dựa trên "di truyền"). Các nhánh con của các ngữ hệ được lược
**Ngữ hệ Önge**, còn gọi là **ngữ hệ Nam Andaman** hay **ngữ hệ Jarawa–Önge**, là một ngữ hệ nhỏ, chỉ gồm hai ngôn ngữ là tiếng Önge và Jarawa, được nói ở miền nam quần
**Nhóm ngôn ngữ Đài Loan** hay **nhóm ngôn ngữ Formosa** là một nhóm gồm những ngôn ngữ của thổ dân Đài Loan. Thổ dân Đài Loan chiếm khoảng 2,3% dân số toàn đảo Đài Loan.
**Người Nam Đảo** hay **người Austronesia** (tiếng Anh: _Austronesia_) là tên chỉ nhiều nhóm sắc tộc ở Đông Nam Á, Châu Đại Dương và Đông Phi nói các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Đảo.
thumb|Phân bố các ngôn ngữ Papua, màu đỏ. Còn lại là vùng [[ngữ hệ Nam Đảo và vùng lịch sử của ngữ hệ thổ dân Úc.]] **Các ngôn ngữ Papua** là tập hợp địa lý
**Ngữ hệ Hmông-Miền** (còn gọi là **ngữ hệ Miêu–Dao**) là một ngữ hệ gồm những ngôn ngữ có thanh điệu ở miền Nam Trung Quốc và Bắc Đông Nam Á lục địa. Người nói ngôn
**Ngữ hệ Hán-Tạng**, trong một số tư liệu còn gọi là **ngữ hệ Liên Himalaya**, là một ngữ hệ gồm trên 400 ngôn ngữ. Ngữ hệ này đứng thứ hai sau ngữ hệ Ấn-Âu về
**Ngữ hệ Ấn-Âu** là một ngữ hệ lớn có nguồn gốc từ Tây và Nam đại lục Á-Âu. Nó bao gồm hầu hết ngôn ngữ của châu Âu cùng với các ngôn ngữ ở sơn
**Ngữ hệ Eskimo-Aleut** hoặc **Eskaleut** là ngữ hệ bản xứ tại Alaska, Bắc Canada, Nunavik, Nunatsiavut, Greenland và bán đảo Chukotka ở cực đông Siberia, Nga. Ngữ hệ này được chia làm hai nhánh, gồm
**Ngữ hệ Triều Tiên** là một ngữ hệ bao gồm tiếng Hàn Quốc hiện đại cùng với họ hàng cổ đại đã biến mất. Ngôn ngữ tại đảo Jeju được một số người coi là
**Ngữ hệ Nhật Bản-Lưu Cầu** hay là một nhóm ngôn ngữ tập trung tại Nhật Bản và Quần đảo Lưu Cầu đã phát triển độc lập với các ngôn ngữ khác sau nhiều thế kỷ.
**Ngữ hệ Maya** là một ngữ hệ được nói tại Trung Bộ châu Mỹ và miền bắc Trung Mỹ. Các ngôn ngữ Maya được nói bởi ít nhất 6 triệu người, thuộc các dân tộc
**Nhóm ngôn ngữ Japonic Bán đảo** là tập hợp các ngôn ngữ Japonic thất truyền từng được nói ở khu vực miền trung và miền nam của bán đảo Triều Tiên theo phỏng đoán của
**Ngữ hệ Andaman Lớn** là một ngữ hệ gần tuyệt chủng, được nói bởi người Andaman Lớn sống ở quần đảo Andaman (Ấn Độ). ## Lịch sử Vào cuối thế kỷ XVIII, khi người Anh
Trung Quốc có tới hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Hán tiêu chuẩn, dựa trên tiếng Quan Thoại là trung tâm, nhưng tiếng Trung Quốc có hàng trăm ngôn
**Ngữ hệ Liên New Guinea** (Trans–New Guinea, TNG) là một ngữ hệ ngôn ngữ Papua nói ở New Guinea cùng các đảo lân cận. Đây có lẽ là ngữ hệ có số ngôn ngữ lớn
thumb|Đông Nam Á lục địa **Vùng ngôn ngữ Đông Nam Á lục địa** là một vùng ngôn ngữ kéo dài từ nam Thái Lan đến nam Trung Quốc và từ Myanmar đến Việt Nam với
**Tục ngữ** **Việt Nam** là những câu nói hoàn chỉnh, đúc kết kinh nghiệm qua thời gian của người Việt Nam về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con người và xã hội.
**Cổ Mã Lai** (tên khác: _Indonésien_, Proto-Malay) là tên của chủng tộc sống vào _thời kỳ đồ đá giữa_ (khoảng 10.000 năm về trước). Chủng cổ Mã Lai có nước da ngăm đen, tóc quăn,
**Ngữ hệ Nadahup**, còn gọi là **Makú** (Macú) hay _Vaupés–Japurá_, là một ngữ hệ nhỏ, có mặt ở Brasil, Colombia, và Venezuela. _Makú_ là một ngoại danh, bắt nguồn từ tiếng Arawak; nó được coi
**Tiếng Puyuma** (tên tự gọi **Pinuyumayan**, ) là ngôn ngữ của người Puyuma, một dân tộc bản xứ Đài Loan (xem thổ dân Đài Loan). Đây là một ngôn ngữ Formosa (một nhóm địa lý)
**Ngữ hệ Altai** (**Altaic** /ælˈteɪ.ɪk/, được đặt theo tên của dãy núi Altai ở trung tâm châu Á; có khi còn được gọi là **Transeurasian**, tức là **hệ Liên Á-Âu**) là một _Sprachbund_ (tức một
**Ngữ hệ Kavkaz** phân bố chủ yếu ở khu vực nằm giữa biển Đen và biển Caspian, tập trung nhất ở vùng núi Kavkaz nên được gọi là ngữ hệ Kavkaz Ngữ hệ Kavkaz có
**Nhóm ngôn ngữ Kra** hay **Nhóm ngôn ngữ Cờ-Ương** là một nhánh ngôn ngữ Tai–Kadai ở Nam Trung Quốc (Vân Nam, Quảng Tây) và Bắc Việt Nam. Trong toàn hệ Tai–Kadai, Kra là nhóm ít
**Nhóm ngôn ngữ Palaung** hay **Nhóm ngôn ngữ Palaung-Wa** là một phân nhánh của ngữ hệ Nam Á, gồm khoảng 30 ngôn ngữ. ## Phát triển âm vị học Hầu hết ngôn ngữ Palaung mất
**Nhóm ngôn ngữ Pear** là một nhóm ngôn ngữ bị đe dọa thuộc ngữ hệ Nam Á, được các dân tộc Pear (Por, Samré, Samray, Suoy, và Chong) nói. Họ sinh sống tại miền tây
**Hải Nam** (chữ Hán: 海南, bính âm: Hǎinán) là tỉnh cực nam của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Hải Nam là tỉnh đông thứ hai mươi tám về số dân, đứng thứ
**Đông Nam Á** (tiếng Anh: **Southeast Asia**, viết tắt: **SEA**) là tiểu vùng địa lý phía đông nam của châu Á, bao gồm các khu vực phía nam của Trung Quốc, phía đông nam của
Hiện nay Việt Nam có 54 dân tộc và 1 nhóm "người nước ngoài". Bản Danh mục các dân tộc Việt Nam này được Tổng cục Thống kê Việt Nam của chính phủ Việt Nam
**Đảo Đài Loan** (Chữ Hán chính thể: 臺灣 hoặc 台灣; Chữ Hán giản thể: 台湾; Bính âm: _Táiwān_; Wade-Giles: _T'ai-wan_; tiếng Đài Loan: _Tâi-oân_) là một hòn đảo ở khu vực Đông Á, ngoài khơi
**Các ngôn ngữ Đông Á** thuộc về một số ngữ hệ khác biệt với các đặc tính chung hình thành từ quá trình tiếp xúc giữa các ngôn ngữ. Trong vùng ngôn ngữ học Đông
[[Tập_tin:Language families of modern Asia.png|nhỏ|450x450px|ngữ hệ ở Châu Á ]] Có rất nhiều ngôn ngữ được sử dụng trên toàn Châu Á, bao gồm các ngữ hệ khác nhau. Các nhóm ngữ hệ chính được
[[Tập tin:Africa ethnic groups 1996.jpg|thumb|upright=1.5|Bản đồ cho thấy phân bố của các ngữ hệ truyền thống tại châu Phi: Niger-Congo: Nin-Sahara: ]] Có 1.250 tới 2.100 và theo một nguồn là có tới 3.000 ngôn
**Phù Nam** (chữ Hán: 夫南, , ) là tên gọi được đặt cho một quốc gia cổ theo mô hình Mandala trong lịch sử Đông Nam Á, xuất hiện khoảng thế kỉ 1 trước Công
**Ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo** hay **ngữ tộc Malay-Polynesia** là một phân nhóm của ngữ hệ Nam Đảo, với tổng cộng chừng 385,5 triệu người nói. Các ngôn ngữ Mã Lai-Đa Đảo là ngôn ngữ
**Nhóm ngôn ngữ Mã Lai (Malay)** là một nhánh của ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Thành viên nổi bật nhất là tiếng Mã Lay chuẩn, ngôn ngữ quốc gia của

## Nguồn gốc Có nguồn gốc từ vùng đất hiện nằm ở phía nam Trung Quốc và miền bắc Việt Nam, người Việt đã tiến về phía nam trong tiến trình kéo dài
**Nhóm ngôn ngữ Polynesia** hay **nhóm ngôn ngữ Đa Đảo** là một nhóm ngôn ngữ có mặt trong vùng địa lý Polynesia cùng một tập hợp đảo nằm ngoài tam giác Polynesia (từ trung nam
Đây là danh sách các nước và vùng lãnh thổ theo **ngôn ngữ sử dụng**, hay ngôn ngữ nói. Do tính phổ biến của các ngôn ngữ khác nhau, nên việc xếp mục lục không
**Các ngôn ngữ Melanesia** là một _thuật ngữ lỗi thời_ trong ngôn ngữ học, đề cập đến các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Đảo ở vùng Melanesia: đó là châu Đại dương (Oceanic), đông
**Nhóm ngôn ngữ Malay-Sumbawa** là một phân nhóm được đề xuất trong ngữ hệ Nam Đảo, là sự kết hợp nhóm ngôn ngữ Malay và nhóm ngôn ngữ Chăm với các ngôn ngữ ở Java
**Nhóm ngôn ngữ Semit Nam** là một nhánh giả định của ngữ tộc Semit. Semit là một nhánh của ngữ hệ Phi-Á lớn hơn hiện diện ở Bắc và Đông châu Phi và Tây Á.
**Nhóm ngôn ngữ Asli** là một nhóm ngôn ngữ Nam Á, hiện diện trên bán đảo Mã Lai. Chúng là ngôn ngữ của một bộ phận _Orang Asli_, những cư dân nguyên thủy của bán
**Nhóm ngôn ngữ Philippines**, theo đề xuất của Zorc (1986) và Robert Blust (1991, 2005), là một nhóm gồm mọi ngôn ngữ của Philippines và bắc Sulawesi (trừ nhóm Sama–Bajaw, ngôn ngữ của người "Di-gan
**Nhóm ngôn ngữ Chăm**, còn gọi là **nhóm ngôn ngữ Aceh–Chăm**, là một nhóm gồm mười ngôn ngữ nói ở Aceh (Sumatra, Indonesia) và một số nơi ở Campuchia, Việt Nam và Trung Quốc (đảo
**Nhóm ngôn ngữ Borneo** là một nhóm địa lý của các ngôn ngữ bản địa thuộc _ngữ hệ Nam Đảo_ ở đảo Borneo, và tiếng Malagasy được nói ở đảo Madagascar nằm ở ngoài khơi