✨Nhóm ngôn ngữ Malay

Nhóm ngôn ngữ Malay

Nhóm ngôn ngữ Mã Lai (Malay) là một nhánh của ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Thành viên nổi bật nhất là tiếng Mã Lay chuẩn, ngôn ngữ quốc gia của Brunei, Singapore và Malaysia, và cũng là cơ sở cho tiếng Indonesia, ngôn ngữ quốc gia của Indonesia. Nhóm ngôn ngữ Mã Lai cũng bao gồm các ngôn ngữ địa phương được sử dụng bởi dân tộc Mã Lai (ví dụ: tiếng Mã Lai Kutai, tiếng Mã Lai Kedah). Hơn nữa, một số ngôn ngữ Mã Lai là tiếng nói của nhiều nhóm dân tộc khác nhau ở Sumatra (ví dụ: tiếng Minangkabau) và Borneo (ví dụ như tiếng Iban). Quê hương của nhóm ngôn ngữ Mã Lai khả năng cao nhất là miền tây Borneo.

Lịch sử

Thuật ngữ "Malayic" lần đầu tiên được đặt ra bởi trong phân loại từ vựng của ông về các ngôn ngữ Nam Đảo. "Malayic hesion" của Dyen có phạm vi rộng hơn so với nhóm ngôn ngữ Mã Lai hiện được chấp nhận, bao gồm cả tiếng Aceh, tiếng Lampung và tiếng Madura. thu hẹp phạm vi của nhóm Mã Lai, nhưng đưa các ngôn ngữ phi Mã Lai là tiếng Rejang và tiếng Embaloh vào:

  • Rejang
  • Embaloh
  • Salako
  • Iban-Mã Lai Iban Mã Lai

Phạm vi hiện tại của phân nhóm Mã Lai hiện được các chuyên gia trong lĩnh vực này chấp nhận rộng rãi, do K.A. Adelaar đề xuất (1992, 1993), dựa trên bằng chứng âm vị học, hình thái học và từ vựng.

Ngôn ngữ

Các ngôn ngữ Mã Lai được sử dụng trên Borneo, Sumatra, bán đảo Mã Lai và trên một số hòn đảo nằm ở Biển Đông và Eo biển Malacca.

Borneo

  • Bamayo, Banjar, Berau, Mã Lai Brunei, Bukit, Kendayan, Keninjal, Kota Bangun Kutai, Tenggarong Kutai, nhóm Iban (Iban, Remun, Mualang, Seberuang, Sebuyau)

Bán đảo Mã Lai

  • Jakun, Mã Lai Kedah, Mã Lai Negeri Sembilan, Mã Lai Perak, Mã Lai Pahang, Orang Kanaq, Mã Lai Kelantan-Pattani, Temuan, Mã Lai Terengganu

Sumatra

  • Mã Lai Trung, Col, Haji, Mã Lai Jambi, Kaur, Kerinci, Kubu, Lubu, Minangkabau, Musi, Pekal

Biển Đông/Eo biển Malacca

  • Bangka, Duano, Loncong, Orang Seletar, Urak Lawoi'

Phân loại nội tại

Mặc dù có sự đồng thuận chung về các ngôn ngữ được phân loại thuộc nhóm Mã Lai, việc phân nhóm nội bộ của các ngôn ngữ Mã Lai vẫn còn bị tranh cãi.

Brasar (1993)

Brasar (1993) phân loại các ngôn ngữ Mã Lai như sau.

  • Iban
  • (Nhánh chính) Tiếng Mã Lai chuẩn Tiếng Minangkabau Mã Lai Trung Tiếng Banjar Jakarta Ngôn ngữ khác

Ross (2004)

Dựa trên bằng chứng ngữ pháp, Ross (2004) chia nhóm ngôn ngữ Mã Lai thành hai nhánh chính:

  • Malay Dayak Tây (Kendaya, Salako)
  • Malay hạt nhân (tất cả các ngôn ngữ khác)

Phân loại này được đồng tình bởi Glottolog (phiên bản 3.4).

Anderbeck (2012)

Theo , Anderbeck (2012) phân biệt giữa tiếng Mã Lai và nhóm ngôn ngữ Mã Lai khi thảo luận về các phương ngữ của các bộ lạc biển ở quần đảo Riau. Ông tạm phân loại tất cả ngôn ngữ nhóm Mã Lai vào nhánh "Mã Lai", ngoại trừ tiếng Iban, Kendaya/Selak, Keninjal, Mã Lai Dayak (hay "Dayak Malay") và "các dạng ngôn ngữ khác biệt" như tiếng Urak Lawoi' và tiếng Duano.

  • Iban
  • Kendaya/Selako
  • Keninjal
  • Dayak Malay
  • Urak Lawoi '
  • Duano
  • Mã Lai (bao gồm tất cả các phương ngữ Mã Lai khác)

Phân loại của Anderbeck đã được chấp nhận trong Ethnologue ấn bản thứ 17, ngoại trừ tiếng Duano được Ethnologue coi là một trong những ngôn ngữ "Mã Lai".

Smith (2017)

Trong bài viết về các ngôn ngữ của Borneo, Smith (2017) cung cấp bằng chứng về một phân nhóm bao gồm các khẩu ngữ Mã Lai ở miền tây Borneo và miền nam Sumatra, mà ông gán cho cái tên "Mã Lai Borneo Tây" Tuy nhiên, ông giữ khẩu ngữ Mã Lai khác ở tình trạng không phân loại.

  • Mã Lai Borneo Tây Kendaya-Salako (= "Mã Lai Dayak Tây" của Ross) Besemah Iban ** Iban Serburuang Mualang Keninjal
  • Nhóm Mã Lai khác (không phải là nhóm đơn ngành) Tiếng Mã Lai chuẩn Mã Lai Jakarta Mã Lai Ketapang Mã Lai Banjar Mã Lai Kutai Mã Lai Brunei

Đề xuất khác

Omar & Yahaya (2018) lập luận về việc đưa các dạng ngôn ngữ Mã Lai mà Orang Asli (thường bị gán cho tên gọi sai lầm là "người Mã Lai nguyên thủy") nói (ngoại trừ tiếng Duano) vào chung nhóm với tiếng Mã Lai chuẩn,

Mối quan hệ ngoại tại

Việc đưa các ngôn ngữ Mã Lai vào ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo là không phải bàn cãi, và có sự đồng thuận chung rằng nhóm ngôn ngữ Chăm có liên quan chặt chẽ với nhóm ngôn ngữ Mã Lai. Các mối liên hệ rộng hơn của nhóm ngôn ngữ Mã Lai còn đang gây tranh cãi. Có hai đề xuất chính: Jamaar (2005) đặt nhóm Mã Lai trong phân nhóm Mã Lai-Sumbawa, bao gồm các ngôn ngữ sau:

  • Malayo-Sumbawan Malayo-Chamic-BSS ** Nhóm ngôn ngữ Mã Lai Nhóm ngôn ngữ Chăm *Nhóm ngôn ngữ Bali-Sasak-Sumbawa Tiếng Sunda ** Tiếng Madura

Blust (2010)Smith (2017) đưa nhóm Mã Lai vào nhóm ngôn ngữ Đại Bắc Borneo:

  • Đại Bắc Borneo Nhóm ngôn ngữ Bắc Borneo Nhóm ngôn ngữ Sarawak trung tâm Nhóm ngôn ngữ Kaya-Murik Nhóm ngôn ngữ Land Dayak Mã Lai, Chăm **Nhóm ngôn ngữ Chăm Nhóm ngôn ngữ Mã Lai Tiếng Rejang Tiếng Sunda

Giả thuyết Mã Lai-Sumbawa chủ yếu dựa trên bằng chứng âm vị học với chỉ một vài từ vựng đổi mới, trong khi giả thuyết Đại Bắc Borneo dựa trên một lượng lớn bằng chứng từ vựng.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhóm ngôn ngữ Malay-Sumbawa** là một phân nhóm được đề xuất trong ngữ hệ Nam Đảo, là sự kết hợp nhóm ngôn ngữ Malay và nhóm ngôn ngữ Chăm với các ngôn ngữ ở Java
**Nhóm ngôn ngữ Malay-Polynesia hạt nhân** (tiếng Anh: Nuclear Malayo-Polynesian languages) là một nhánh giả định thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesia), được Wouk & Ross đề xuất năm 2002, được cho là lan rộng
**Nhóm ngôn ngữ Mã Lai (Malay)** là một nhánh của ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Thành viên nổi bật nhất là tiếng Mã Lay chuẩn, ngôn ngữ quốc gia của
Nhóm ngôn ngữ **Sunda-Sulawesi** là một phần của ngôn ngữ **Mã Lai - Đa Đảo Tây (WMP)** trong đó bao gồm những ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo được nói ở Đông Nam Á
**Nhóm ngôn ngữ Chăm**, còn gọi là **nhóm ngôn ngữ Aceh–Chăm**, là một nhóm gồm mười ngôn ngữ nói ở Aceh (Sumatra, Indonesia) và một số nơi ở Campuchia, Việt Nam và Trung Quốc (đảo
Nhóm ngôn ngữ **Mã Lay-Đa Đảo Trung Tâm-Đông** (CEMP) tạo thành một nhánh được đề xuất của ngữ tộc Mã Lay-Đa Đảo bao gồm hơn 700 ngôn ngữ (R. 1993). ## Phân bố Nhóm ngôn
**Nhóm ngôn ngữ Đông Barito** là một nhóm gồm các ngôn ngữ Dayak thuộc ngữ hệ Nam Đảo, tại Borneo. Thành viên nổi tiếng nhất nhóm là tiếng Malagasy, ngôn ngữ quốc gia của Madagascar.
**Các ngôn ngữ Melanesia** là một _thuật ngữ lỗi thời_ trong ngôn ngữ học, đề cập đến các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Đảo ở vùng Melanesia: đó là châu Đại dương (Oceanic), đông
**Nhóm ngôn ngữ Đài Loan** hay **nhóm ngôn ngữ Formosa** là một nhóm gồm những ngôn ngữ của thổ dân Đài Loan. Thổ dân Đài Loan chiếm khoảng 2,3% dân số toàn đảo Đài Loan.
**Ngữ chi Châu Đại Dương** hay _Ngữ chi Oceanic_ bao gồm khoảng 450 ngôn ngữ ở châu Đại dương. _Ngữ chi Châu Đại Dương_ là thành phần của Ngữ tộc Malay-Polynesia trong ngữ hệ Nam
**Các ngôn ngữ Nam Sulawesi** là một phân nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Malay-Polynesia của ngữ hệ Nam Đảo (Austronesia). Các ngôn ngữ này chủ yếu được 7 triệu người nói ở các tỉnh
Đây là danh sách các nước và vùng lãnh thổ theo **ngôn ngữ sử dụng**, hay ngôn ngữ nói. Do tính phổ biến của các ngôn ngữ khác nhau, nên việc xếp mục lục không
[[Tập_tin:Language families of modern Asia.png|nhỏ|450x450px|ngữ hệ ở Châu Á ]] Có rất nhiều ngôn ngữ được sử dụng trên toàn Châu Á, bao gồm các ngữ hệ khác nhau. Các nhóm ngữ hệ chính được
**Ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo** hay **ngữ tộc Malay-Polynesia** là một phân nhóm của ngữ hệ Nam Đảo, với tổng cộng chừng 385,5 triệu người nói. Các ngôn ngữ Mã Lai-Đa Đảo là ngôn ngữ
**Ngữ hệ Nam Đảo** () là một ngữ hệ lớn phân bổ rộng rãi tại các hải đảo Đông Nam Á và Thái Bình Dương, Madagascar và một phần nhỏ tại đại lục châu Á.
**Tiếng Moken** là ngôn ngữ của người Moken, một dân tộc ít người sống ở vùng quần đảo Mergui ngoài khơi bờ biển Andaman thuộc Myanmar và Thái Lan . Người Moken có dân số
**Tiếng Urak Lawoi**' là ngôn ngữ của người Urak Lawoi cư trú ở phía tây Bán đảo Malay miền nam Thái Lan. Họ là dân tộc bản địa Malay sống trên các hòn đảo ở
nhỏ|Hai người đang nói tiếng Aceh, được ghi lại cho [[Wikitongues.]] **Tiếng Aceh**, hay **tiếng Achin**, là ngôn ngữ của người Aceh bản địa tại Aceh, Sumatra, Indonesia. _Tiếng Aceh_ cũng được sử dụng tại
**Tiếng Iban** _(jaku Iban)_ được nói bởi người Iban, một nhánh của người Dayak, trước đây gọi là "Dayak Biển" sống ở Malaysia (bang Sarawak), Indonesia (tỉnh Tây Kalimantan) và Brunei. Nó thuộc nhóm ngôn
**Tiếng Malay** hay **tiếng Mã Lai** (_"Ma-lây"_; chữ Latinh: **'; chữ cái Jawi: **بهاس ملايو_') là một ngôn ngữ chính của ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian). Tiếng Mã Lai là ngôn ngữ quốc gia của
**Tiếng Sasak** là ngôn ngữ của người Sasak, dân tộc chiếm đa số trên đảo Lombok của Indonesia. Nó gần gũi với tiếng Bali và tiếng Sumbawa trên các đảo lân cận. Tiếng Sasak không
**Tiếng Madura** là ngôn ngữ của người Madura, một dân tộc có vùng cư trú truyền thống ở Indonesia là đảo Madura và lân cận, như Quần đảo Kangean và Quần đảo Sapudi, hay vùng
thumb|Một phụ nữ nói tiếng Malagasy **Tiếng Malagasy** () là một ngôn ngữ Nam Đảo và ngôn ngữ quốc gia của Madagascar. Hầu hết người dân tại Madagascar, cũng như người gốc Malagasy ở nhiều
**Tiếng Lampung** (_cawa Lampung_) là một cụm phương ngữ/ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á được nói bởi khoảng 1,5 triệu người bản ngữ, chủ yếu thuộc nhóm dân tộc Lampung ở miền nam Sumatra,
**Chamorro** ( hay đơn giản là _Chamoru_) là một ngôn ngữ Mã Lai-Đa Đảo được nói trên quần đảo Mariana (Guam, Rota, Tinian, và Saipan) với khoảng 47.000 người (khoảng 35.000 người tại Guam và
**Tongan** (__) là một ngôn ngữ Nam Đảo được sử dụng tại Tonga. Đây là ngôn ngữ quốc gia tại Tonga. Tiếng Tonga là thành viên của Họ ngôn ngữ Polynesia thuộc ngữ tộc Malay-Polynesia
thumb|Vũ công Enggano **Tiếng Enggano** là một ngôn ngữ Nam Đảo nói trên đảo Enggano, nằm ở ngoài khơi duyên hải tây nam Sumatra, Indonesia. Tiếng Enggano nổi bật trong số các ngôn ngữ Nam
**Tiếng Yami** (, Hán-Việt: _Nha Mĩ_), cũng được gọi là **Tao** (,Hán-Việt: _Đạt Ngộ thoại_), là một ngôn ngữ Malay-Polynesia. Đây là thành viên của dãy phương ngữ Ivatan, được nói bởi người Yami tại
**Người Makassar** (còn gọi là _Macassar_, _Mangasara_, _Mengkasara_, _Taena_, _Tena_, hoặc _Gowa_) là một nhóm dân tộc sinh sống ở phía Nam bán đảo Nam Sulawesi (trước đây gọi là Celebes) ở Indonesia. Họ sống
**Orang Laut** là nhóm những người Proto-Malay (cổ Mã Lai) sống quanh Singapore, bán đảo Mã Lai và quần đảo Riau, cũng như những người có nguồn gốc Malay sống trên các đảo ven biển
**Tiếng Jrai (Gia Rai)** là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Malay-Polynesia, được người Jrai tại Việt Nam và Campuchia sử dụng. Số lượng người nói tiếng Jrai là khoảng 332.557. Họ chủ yếu là
**Người Banjar** (tiếng Banjar: _Urang Banjar_, chữ Jawi: اورڠ بنجر) là một nhóm dân tộc bản địa cư trú ở Nam Kalimantan, Indonesia. Người Banjar nói _tiếng Banjar_ là ngôn ngữ thuộc phân nhóm ngôn
**Tiếng Chăm** hay **tiếng Champa** (chữ Chăm: ꨌꩌ; chữ Jawi: چم) là ngôn ngữ của người Chăm ở Đông Nam Á, và trước đây là ngôn ngữ của Vương quốc Chăm Pa ở miền Trung
**Người Sumbawa** hoặc **người Samawa** là một nhóm dân tộc sống ở khu vực phía tây và trung tâm của đảo Sumbawa, bao gồm Nhiếp chính Sumbawa và Nhiếp chính Tây Sumbawa. Người Sumbawa tự
**Tiếng Sunda** (_Basa Sunda_) là ngôn ngữ của khoảng 42 triệu dân từ 1/3 phía tây của đảo Java và khoảng 15% dân số Indonesia. Ngôn ngữ này được phân loại nằm trong nhánh phía
**Người Madura**, đôi khi gọi là **Madurace** hoặc **Madhure**; theo tiếng Indonesia được gọi là **Orang Madura** hay **Suku Madura**, là một nhóm dân tộc có gốc từ đảo Madura và hiện được tìm thấy
Có khoảng trên 300 dân tộc ở Indonesia. 95% trong số họ là người bản địa. Nhóm dân tộc đông nhất ở Indonesia là người Java (hay người Chà Và), chiếm 41% tổng số dân.
**Người Malay Indonesia** hay **người Malay ở Indonesia** (tiếng Malay và Indonesia: _Melayu Indonesia_; chữ Jawi: ملايو ايندونيسيا) là người Mã Lai sinh sống trên khắp Indonesia là một trong những người bản địa của
**Tiếng Ilokano** hay **Tiếng Ilocano** (Tiếng Ilokano: _Ti Pagsasao nga Iloco_; hay _Ilocano_, _Iluko_, _Iloco_, _Iloco_, _Ylocano_, và _Yloco_) là một ngôn ngữ đứng thứ ba về số người nói như tiếng mẹ đẻ và
**Tiếng Ê Đê** là ngôn ngữ của người Ê Đê, là các nhóm sắc tộc sinh sống tại khu vực Tây Nguyên ở Việt Nam và Campuchia. Số lượng người nói tiếng Ê đê là
**Tiếng Fiji** (Na Vosa Vakaviti) là ngôn ngữ được nói ở Fiji, một đảo quốc tại châu Đại Dương, ở phía nam Thái Bình Dương. thumb|Tiếng Fiji _Tiếng Fiji_ là được phân loại là thành
**Tiếng Romblomanon** là một ngôn ngữ thuộc nhóm Visaya trong nhóm ngôn ngữ Philippine thuộc ngữ tộc Malay-Polynesia của ngữ hệ Nam Đảo. Ngôn ngữ này được sử dụng tại tỉnh Romblon của Philippines. Ngôn
**Tiếng Hiligaynon**, cũng được gọi là **Tiếng Ilonggo** là ngôn ngữ của cư dân vùng Tây Visayas của Philippines. _Tiếng Hiligaynon_ là thành viên của nhóm ngôn ngữ Philippine trong ngữ tộc Malay-Polynesia thuộc Ngữ
**Tiếng Tausug** (Tiếng Tausug: Bahasa Sūg, tiếng Mã Lai: Bahasa Suluk) là ngôn ngữ của người Tausug, một ngôn ngữ được nói tại tỉnh Sulu của Philippines và những người Tausug tại Malaysia và Indonesia.
**Tiếng Surigaonon** là ngôn ngữ của người Surigaonon ở Surigao del Norte, quần đảo Dinagat, Surigao del Sur, một số nơi tại Agusan del Norte (những thị trấn gần hồ Mainit), Agusan del Sur và
**Tiếng Mandar**, còn gọi là **Andia**, **Manjar** hay **Mandharsche**, là ngôn ngữ của người Mandar cư trú ở tỉnh Tây Sulawesi Indonesia. Họ sống chủ yếu ở các vùng ven biển Majene và Polewali Mandar,
**Tiếng Tsat**, cũng được gọi là **Utsat**, **Utset**, **Chăm Hải Nam**, hay **Hồi Huy** (), là một ngôn ngữ được nói bởi khoảng 4.500 người Utsul tại làng Dương Lan () và Hồi Tân ()
**Tiếng Maguindanao** hay _Tiếng Maguindanaon_ là ngôn ngữ của người Maguindanao ở tỉnh Maguindanao, Philippines. Cũng có một số người sử dụng ngôn ngữ này ở những nơi khác trên đảo Mindanao như Thành phố
**Tiếng Ra Glai** (hay Roglai, Rô Glai, Radlai) là ngôn ngữ của người Ra Glai, dân tộc sinh sống tại khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam. Theo điều tra dân số Việt
**Người Chu Ru** là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam . Người Chu Ru cư trú chủ yếu ở Lâm Đồng. Người Chu Ru đa số nói tiếng Chu Ru,