✨Ngữ hệ Kra-Dai

Ngữ hệ Kra-Dai

Ngữ hệ Kra-Dai ( , các tên gọi khác bao gồm Tai–Kadai and Daic ) là một ngữ hệ tập trung tại Đông Nam Á, miền nam Trung Quốc và Đông Bắc Ấn Độ. Hiện nay ngữ hệ này được coi là bao gồm năm nhánh chính: ngữ chi Lê (Hlai), ngữ chi Đồng-Thủy (Kam-Sui), Ngữ chi Kra, ngữ chi Thái (Tai) và tiếng Ông Bối (OngBe hay Bê) với vị trí chưa rõ ràng.

Các ngôn ngữ chính trong ngữ hệ Kra-Dai bao gồm tiếng Thái và tiếng Lào, ngôn ngữ quốc gia của Thái Lan và Lào.

Khoảng 93 triệu người nói tiếng Tai-Kdai, 60% trong số họ nói tiếng Thái. Ethnologue liệt kê 95 ngôn ngữ trong ngữ hệ này, với 62 ngôn ngữ này thuộc nhánh Tai.

Sự đa dạng cao của các ngôn ngữ Kra-Dai ở miền nam Trung Quốc chỉ ra nguồn gốc ngữ hệ Kra-Dai ở miền nam Trung Quốc. Chi nhánh Tai di chuyển về phía nam vào Đông Nam Á chỉ khoảng 1000 năm sau Công nguyên.

Tên gọi

Tên gọi "Kra–Dai" được đề xuất Weera Ostapirat (2000), trong đó Kra và Dai là tự danh được phục dựng của hai nhánh Kra và Tai. Baxter & Sagart (2014), và Enfield & Comrie (2015).

Tên gọi "Tai–Kadai" được sử dụng trong nhiều tài liệu tham khảo cũng như trong Ethnologue và Glottolog, nhưng Ostapirat (2000) và một số học giả khác cho rằng tên gọi này gây nhiều vấn đề và nhầm lẫn, vì vậy tên gọi "Kra–Dai" được ưa chuộng hơn. "Tai–Kadai" bắt nguồn từ một cách phân chia lỗi thời của ngữ hệ này thành hai nhánh Tai và Kadai, được đề xuất lần đầu bởi Paul K. Benedict (1942). Nhóm "Kadai" của Benedict (1942) được xây dựng dựa trên quan sát của ông rằng các ngôn ngữ Kra và Hlai có hệ thống chữ số giống với ngữ hệ Nam Đảo. Tuy nhiên, cách phân loại này hiện nay đã bị bác bỏ hoàn toàn vì đã lỗi thời, sau khi Ostapirat (2000) chứng minh được sự thống nhất nội bộ của nhánh Kra và không cùng nhóm với nhánh Hlai như Benedict từng đề xuất. Tên gọi "Kadai" đôi khi vẫn được sử dụng để chỉ toàn bộ ngữ hệ Kra–Dai, bao gồm cả bởi Solnit (1988).

Các mối liên quan ngoài

thumb|Đề xuất nguồn gốc của ngữ hệ Kra-Dai và mối quan hệ với [[ngữ hệ Nam Đảo (Blench, 2018)]] Ngữ hệ Kradai trước đây được coi là một phần của ngữ hệ Hán-Tạng (tại Trung Quốc khi đó gọi là ngữ tộc Tráng-Đồng, ngữ tộc Đồng-Thái, ngữ tộc Tráng-Thái, ngữ tộc Thái hay ngữ tộc Kiềm Thái v.v.), nhưng hiện nay nó được phân loại như là một ngữ hệ độc lập. Ngữ hệ này chứa một lượng lớn các từ cùng gốc với ngữ hệ Hán-Tạng. Tuy nhiên, chúng chỉ được tìm thấy một cách ngẫu nhiên trong mọi nhánh của ngữ hệ này, và không bao gồm từ vựng cơ bản, chỉ ra rằng chúng chỉ là các từ vay mượn từ thời cổ.

Tại Trung Quốc, ngữ hệ này trước đây được gọi là ngữ tộc Tráng-Đồng và nói chung được coi là một phần của Ngữ hệ Hán-Tạng cùng với ngữ hệ H'Mông-Miền (Miêu-Dao). Hiện tại, các học giả về ngôn ngữ học tại Trung Quốc vẫn còn tranh luận về việc liệu các ngôn ngữ trong Ngữ chi Cờ Ương như tiếng Ngật Lão, tiếng Pu Péo và tiếng La Chí có thể được gộp trong ngữ hệ Tráng-Đồng hay không, do chúng thiếu các từ cùng gốc Hán-Tạng, một điều kiện để gộp các ngôn ngữ Tráng-Đồng khác trong ngữ hệ Hán-Tạng.

Một vài học giả phương Tây tin rằng ngữ hệ Kradai có liên quan tới hay là một nhánh của ngữ hệ Nam Đảo (Austronesia), trong một ngữ hệ được gọi là ngữ hệ Nam-Thái (Austro-Tai). Ở đây có một lượng đáng kể nhưng hạn chế các từ cùng gốc trong từ vựng cốt lõi. Vẫn chưa có sự đồng thuận về việc chúng là nhánh Ngữ hệ Nam Đảo trên đại lục, được di cư ngược từ Đài Loan vào đại lục hay chúng là sự di cư muộn hơn từ Philippines tới Hải Nam trong thời kỳ mở rộng của Ngữ hệ Nam Đảo.

Phân loại nội bộ

Ngữ hệ Kradai bao gồm năm nhánh được thiết lập khá vững chắc, bao gồm 4 ngữ chi là Lê (Hlai), Cờ Ương (Kra), Đồng-Thủy (Kam-Sui), Thái (Tai) và tiếng Ông Bối (Ong Be/Bê):

;Tiếng Ông Bối:Hải Nam; có thể bao gồm cả tiếng tiếng Cát Triệu ở Quảng Đông ; Ngữ chi Kra:Miền Nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam; còn có tên khác là Tạp Đại, Cờ Ương trong tiếng Trung, Kadai trong Ethnologue ; Ngữ chi Đồng-Thủy: Quý Châu và Quảng Tây, Trung Hoa đại lục. ; Ngữ chi Lê: Hải Nam. ; Ngữ chi Thái: Hoa Nam và Đông Nam Á.

Dựa trên một lượng lớn từ vựng mà các ngôn ngữ trong ngữ hệ chia sẻ, các nhánh Kam-Sui, Be, Tai thường được gộp cùng nhau thành ngữ tộc Đồng-Thái (Kam-Tai) bởi các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc. Tuy nhiên, nó cũng chỉ là chứng cứ phủ định, có lẽ là do sự thay thế từ vựng học ở các nhánh khác, và các nét tương đồng hình thái học gợi ý rằng Kra và Kam-Sui nên gộp cùng nhau thành nhánh Kradai Bắc, còn Hlai và Tai thành nhánh Kradai Nam

Các ngôn ngữ Kra–Dai có nguồn gốc pha trộn bao gồm:

  • Tiếng Bố Y Hách Chương: Tai Bắc và Kra
  • Tiếng Ai: Tai Bắc and Bình thoại
  • Tiếng Cao Lan: Tai Bắc và Tai Trung
  • Tiếng Gia Mậu: Hlai và các yếu tố chưa rõ nguồn gốc (Nam Á?)

Edmondson và Solnit (1988)

Edmondson và Solnit (1988) đã đề xuất một phân loại sơ khai nhưng có ảnh hưởng lớn về ngữ hệ Kra–Dai, trong đó giữ lại nhóm Đồng–Thái. Phân loại bao gồm các nhánh sau:

  • Kra–Dai Kra (Cờ Ương) Hlai (Lê) ** Đồng-Thái (Kam-Tai)

    Lak Kia–Phiêu Đồng-Thuỷ (Kam–Sui)


    Ông Bối (Bê) Thái (Tai)

Phân loại này cũng được Liang và Zhang (1996), Chamberlain (2016: 38), và Ethnologue sử dụng. Tuy nhiên đến khoảng năm 2009, có một số điều chỉnh như tiếng Lak Kia được xem là nhánh thứ ba trong nhóm Đồng-Thái và tiếng Phiêu được chuyển sang nhóm Đồng-Thuỷ.

Ostapirat (2005); Norquest (2007)

Weera Ostapirat (2005:128) gợi ý khả năng rằng các ngôn ngữ Kra và Đồng-Thủy có thể được nhóm lại thành một nhánh gọi là Bắc Kra–Dai, trong khi các nhóm Hlai và Tai tạo thành nhánh Nam Kra–Dai. Tiếp nối Ostapirat, Norquest cũng sử dụng tên gọi Kra–Dai để chỉ toàn bộ ngữ hệ này. Dưới đây là sơ đồ phân loại ngữ hệ Kra–Dai theo Norquest (2007:16):

  • Kra–Dai Bắc ** Kra Đông Bắc  Lak Kia Đồng-Thủy Nam ** Hlai Bê-Tai Tai

Ngoài ra, Norquest (2007) cũng đề xuất phục dựng cho tiếng Kra-Dai Nam nguyên thủy.

Norquest (2015, 2020)

Một phân loại ngữ hệ Kra–Dai theo Norquest (2015, 2020) được trình bày như sau:

  • Kra–Dai Kra Kra–Dai Đông Phiêu Lakkja–Kam–Tai Lakkja Kam–Tai  Kam–Sui Kam–Tai Tây  ** Hlai ** Be–Tai Ong Bê Tai

Norquest (2021)

Dựa trên các đổi mới từ vựng chung, Norquest (2021) đã đưa ra một số điều chỉnh đáng kể trong phân loại ngữ hệ Kra–Dai. Trong đó tiếng Phiêu và Lak Kia được xếp thành một nhóm riêng biệt nhất trong toàn bộ ngữ hệ Kra–Dai. Điều này cho thấy chúng tách khỏi các nhánh khác từ rất sớm. Các nhánh Bê–Tai và Hlai được xếp chung vào một nhóm "Hlai–Tai".

  • Kra–Dai Phiêu–Lakkja Kam–Tai Kam–Sui Kra–Tai Kra Hlai–Tai Hlai Bê–Tai **** Tai
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngữ hệ Kra-Dai** ( , các tên gọi khác bao gồm **Tai–Kadai** and **Daic** ) là một ngữ hệ tập trung tại Đông Nam Á, miền nam Trung Quốc và Đông Bắc Ấn Độ. Hiện
Trung Quốc có tới hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Hán tiêu chuẩn, dựa trên tiếng Quan Thoại là trung tâm, nhưng tiếng Trung Quốc có hàng trăm ngôn
**Ngữ hệ Hán-Tạng**, trong một số tư liệu còn gọi là **ngữ hệ Liên Himalaya**, là một ngữ hệ gồm trên 400 ngôn ngữ. Ngữ hệ này đứng thứ hai sau ngữ hệ Ấn-Âu về
**Nhóm ngôn ngữ Kra** hay **Nhóm ngôn ngữ Cờ-Ương** là một nhánh ngôn ngữ Tai–Kadai ở Nam Trung Quốc (Vân Nam, Quảng Tây) và Bắc Việt Nam. Trong toàn hệ Tai–Kadai, Kra là nhóm ít
**Nhóm ngôn ngữ Nam Đảo-Tai** hay **nhóm ngôn ngữ Nam Đảo-Thái**, là một liên hệ được đề xuất bao gồm các ngôn ngữ Nam Đảo (nói ở Đài Loan, Đông Nam Á hải đảo, Quần
**Nhóm ngôn ngữ Mảng**, bao gồm **nhóm ngôn ngữ Pakan**, là một nhánh ngôn ngữ Nam Á gồm một số ngôn ngữ đang nguy cấp. Phần lớn các ngôn ngữ này được sử dụng tại
**Nhóm ngôn ngữ Pear** là một nhóm ngôn ngữ bị đe dọa thuộc ngữ hệ Nam Á, được các dân tộc Pear (Por, Samré, Samray, Suoy, và Chong) nói. Họ sinh sống tại miền tây
**Tiếng Thái Đỏ** hay **Thái Mộc Châu**, **Thay Đèng** là ngôn ngữ của người Thái Đỏ cư trú ở vùng tây bắc Việt Nam và qua biên giới sang phía đông bắc Lào . _Tiếng
**Người Tráng** hay **người Choang** (Chữ Tráng Chuẩn: Bouxcuengh, //; Chữ Nôm Tráng: 佈壯; Chữ Hán giản thể: 壮族, phồn thể: 壯族, bính âm: Zhuàngzú; Chữ Thái: ผู้จ้วง, _Phu Chuang_) là một nhóm dân tộc
Dòng sông Mê kông Sông **Mê Kông** là một trong những con sông lớn nhất trên thế giới, bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng nơi sông bắt nguồn thuộc tỉnh Thanh Hải, chảy qua
**Đông Nam Á** (tiếng Anh: **Southeast Asia**, viết tắt: **SEA**) là tiểu vùng địa lý phía đông nam của châu Á, bao gồm các khu vực phía nam của Trung Quốc, phía đông nam của
**Tiếng Hán thượng cổ** (tiếng Hán: 上古漢語; Hán Việt: _thượng cổ Hán ngữ_) là giai đoạn cổ nhất được ghi nhận của tiếng Hán và là tiền thân của tất cả các dạng tiếng Hán
thumb|Phụ nữ dân tộc Akha ([[Myanmar) với hàm răng được nhuộm đen]] **Nhuộm răng** là một trong những phong tục xưa của nền văn hóa Đông Nam Á và châu Đại Dương, đặc biệt là
**Việt** (), hoặc **Bách Việt** (, _bǎik wyuèt_), là các nhóm dân cư thuộc Ngữ hệ Nam Á và Ngữ hệ Kra-Dai định cư và sinh sống ở tại vùng đất phía Nam Trường Giang
**Tiếng Mảng** (tiếng Trung:莽语) là một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á của Việt Nam, Trung Quốc và Lào. Nó được nói chủ yếu ở tỉnh Lai Châu, Việt Nam và huyện Kim Bình,
**Thái Đỏ** là một bộ phận thuộc dân tộc Thái cư trú ở vùng phía tây tỉnh Thanh Hóa, Hòa Bình, Nghệ An của Việt Nam, và đông nam tỉnh Hủa Phăn, Lào. _Người Thái
**Người Pa Dí** là một nhóm nhỏ của dân tộc Tày. Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Kra-Dai). ## Dân số và địa bàn cư trú Tại Trung Quốc, họ
**Người Nùng**, là một trong số 54 nhóm sắc tộc được chính phủ Việt Nam chính thức phân loại. Người Nùng nói tiếng Nùng, là ngôn ngữ thuộc ngữ chi Tai của ngữ hệ Tai-Kadai.
**Giao Chỉ** (chữ Hán: 交趾) là địa danh một phần lãnh thổ Việt Nam trong lịch sử, từ thời Hùng Vương đến các kỳ thời Bắc thuộc. Nó cũng là tên Bắc Tống và Nam
**Người Thái** với tên tự gọi là _Tay/Tày/Thay/Thày_ () tùy thuộc vào cách phát âm của từng khu vực. Các nhóm, ngành lớn của người Thái tại Việt Nam bao gồm: **Tay Đón** (Thái Trắng),
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
**Hải Nam** (chữ Hán: 海南, bính âm: Hǎinán) là tỉnh cực nam của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Hải Nam là tỉnh đông thứ hai mươi tám về số dân, đứng thứ
**Arunachal Pradesh** () là một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ. Bang này nằm tại khu vực đông bắc của liên bang, giáp với các bang Assam và Nagaland về phía nam, và
Giới hàn lâm đã có nhiều nỗ lực trong việc phục nguyên hệ thống âm vị học của tiếng Hán thượng cổ thông qua bằng chứng văn liệu. Mặc dù hệ chữ tượng hình Hán
nhỏ|Lược đồ khu vực [[Lưỡi liềm Màu mỡ khoảng năm 7500 trước Công nguyên với các di chỉ đồ đá mới Tiền đồ gốm được tô đỏ.]] **Cách mạng Đá mới** () hay **Cách mạng
Dân tộc **Pu Péo** (tên gọi khác **Ka Beo**, **Pen ti lô lô** (Lô Lô bản địa), **La quả**, ; Hán Việt: bố phiêu tộc) là một dân tộc thiểu số trong số 54 dân
**Nam Chiếu quốc** (chữ Hán: 南詔國), cũng gọi **Đại Lễ** (大禮), người Thổ Phồn gọi **ljang yul** (tiếng Tạng: ), là một vương quốc của người Bạch, người Miêu và người Di (người Lô Lô),
nhỏ|Cậu bé Moken thumb |Vùng có "[[người du mục biển " cư trú ở Đông Nam Á
]] **Moken** (còn gọi là **Mawken** hay **Morgan**, tiếng Myanmar: ဆလုံ လူမျိုး, tiếng Thái Lan: ชาวเล _chao le_, nghĩa
**Người La Ha**, còn được gọi với một số tên khác nhau như La Ha, Klá, Phlạo, Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ Hà, Pụa là một
**Thái Lan**, gọi ngắn là **Thái**, quốc hiệu là **Vương quốc Thái Lan**, là một quốc gia ở Đông Nam Á, phía bắc giáp Lào và Myanmar, phía đông giáp Lào và Campuchia, phía nam
**Báo hoa mai** (_Panthera pardus_), thường gọi tắt là **báo hoa**, (tiếng Anh: **Leopard**) là một trong năm loài mèo lớn thuộc chi _Panthera_ sinh sống ở châu Phi và châu Á. Chúng dài từ
**Bán đảo Đông Dương** (, _Indochina_), hoặc gọi **bán đảo Ấn-Trung**, **Đông Nam Á lục địa**, là một bán đảo nằm ở Đông Nam Á, là một trong ba bán đảo lớn ở phía nam
nhỏ|Tượng thần [[Khẩn Na La huyền thoại tại chùa Phra Kaew (chùa Phật Ngọc), Băng Cốc]] **Văn hóa Thái Lan** là một khái niệm bao hàm những niềm tin và các đặc trưng văn hóa
**_Kashii_** (tiếng Nhật:香椎) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba cũng là chiếc cuối cùng được hoàn tất trong lớp lớp _Katori_. Được đặt
nhỏ|phải|Cổ vật Óc Eo tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh **Văn hóa Óc Eo** là một nền văn hóa cổ hình thành và phát triển ở Nam Bộ Việt Nam từ
Nhà mồ của người Gia Rai tại Viện bảo tàng Dân tộc học, Hà Nội Nhà mồ của người Cơ Tu tại Viện bảo tàng Dân tộc học, Hà Nội Tượng nhà mồ ở [[Bản
**Howard Phillips Lovecraft** (/ˈlʌvkræft, -ˌkrɑːft/; sinh ngày 20 tháng 8 năm 1890 - mất ngày 15 tháng 3 năm 1937) là một nhà văn người Mỹ đạt nhiều thành công trong thể loại truyện kinh