✨Âm vị học tiếng Hán thượng cổ

Âm vị học tiếng Hán thượng cổ

Giới hàn lâm đã có nhiều nỗ lực trong việc phục nguyên hệ thống âm vị học của tiếng Hán thượng cổ thông qua bằng chứng văn liệu. Mặc dù hệ chữ tượng hình Hán văn không trực tiếp ký âm từ ngữ, các thành tố ngữ âm được chia sẻ giữa các Hán tự cổ nhất được cho là mối liên hệ giữa các từ có phát âm gần giống nhau. Thi phẩm Hán ngữ cổ nhất được ghi nhận còn tồn tại trong Kinh Thi cho thấy những từ nào khớp vần với nhau vào thời xa xưa. Các học giả đã so sánh những phát hiện này với cách phát âm đời sau thời tiếng Hán trung cổ trong vận thư Thiết vận (601 CN), song chưa đáp ứng tiêu chuẩn của một phân tích ngữ âm hàn lâm nghiêm ngặt. Các bằng chứng phục nguyên bổ túc bao gồm các hình vị đồng nguyên được tìm thấy trong các ngôn ngữ Hán-Tạng và tiếng Mân, một ngôn ngữ Hán tộc tách rẽ rất sớm khỏi tiếng Hán trung cổ, cũng như phiên âm tiếng Hán về địa danh ngoại lai thuở sớm, và vốn từ mượn ban sơ từ các ngôn ngữ lân cận như Hmong–Miền, Kra-Dai và Tochari.

Tuy nhiều chi tiết vẫn đang bị tranh cãi, các phục nguyên mới đây đã thống nhất về các vấn đề nòng cốt. Theo đó, người ta đồng ý cho rằng tiếng Hán thượng cổ khác trung cổ ở chỗ, nó không có thanh điệu, không có âm quặt lưỡi và âm ồn ngạc cứng, nhưng lại có các cụm phụ âm đầu và âm vang vô thanh. Hầu hết các phục nguyên gần đây cũng đề xuất thêm các cụm phụ âm ở cuối âm tiết, mà ở các giai đoạn tiếp sau sẽ phái sinh thanh điệu.

Cấu trúc âm tiết

Ngữ âm tiếng Hán thượng cổ đã được tái dựng dựa trên nhiều bằng chứng khác nhau, bao gồm các Hán tự ký âm, cách thức gieo vần trong Kinh Thi và cách đọc tiếng Hán trung cổ trong các tự điển như Thiết vận (601 CN). Mặc dù nhiều chi tiết vẫn đang bị tranh cãi, các phục nguyên gần đây hầu như đã thống nhất về nội dung cốt lõi. Ví dụ dưới đây là những phụ âm đầu được Lý Phương Quế và William Baxter công nhận, cùng một số bổ sung (chủ yếu của Baxter) được đóng ngoặc đơn:

Nhiều tổ hợp âm đầu đã được đề xuất, nhất là cụm + phụ âm, nhưng vấn đề này vẫn chưa nhận được sự tán thành đồng thuận.

Trong các phục nguyên gần đây, ví dụ như hệ thống của , phần vần điển hình của một âm tiết tiếng Hán thượng cổ được cấu thành từ các yếu tố sau:

  • một âm giữa không bắt buộc,

  • một âm giữa không bắt buộc hoặc (trong một số bản phục nguyên) phương án phụ âm thay thế thể hiện sự khu biệt giữa "nhóm A" và "nhóm B",

  • một trong sáu nguyên âm sau đây:

  • một âm cuối không bắt buộc, theo đó nó có thể là phụ âm lướt hoặc ; phụ âm mũi , hoặc ; hoặc phụ âm tắc , , hoặc ,

  • một phụ âm hậu vĩ (post-coda) không bắt buộc, hoặc . Cần chú ý rằng, ở các mô hình kể trên, tiếng Hán thượng cổ được cho là không có thanh điệu; theo đó thì thanh thượng và thanh khứ của tiếng Hán trung cổ được coi như các yếu tố ngữ âm phái sinh của các phụ âm hậu vĩ ở tiếng Hán thượng cổ.

Phụ âm đầu

Bằng chứng sơ cấp cho công tác phục nguyên phụ âm đầu tiếng Hán thượng cổ có thể được tìm thấy trong các tự điển Hán văn thời trung cổ và các dấu vết ngữ âm ẩn chứa trong nhiều Hán tự tượng hình.

Tiếng Hán trung cổ

Việc phục nguyên tiếng Hán thượng cổ thường lấy xuất phát điểm ở "tiếng Hán trung cổ sơ kỳ", tức hệ thống âm vị được bày ra trong Thiết vận, một vận thư (tự điển vần) xuất bản lần đầu vào năm 601 CN với nhiều phiên bản tu bổ trong nhiều thế kỷ tiếp theo. Theo lời phi lộ của tác giả, Thiết vận không đơn thuần là một bản ghi âm các phương ngữ đương đại, mục đích chính của nó là chuẩn hóa phát âm Hán tự và cho phép người học có thể đọc các Hán thư kinh điển một cách nhất quán, và hiển nhiên để đạt được điều này thì tự điển sẽ phải tổng hòa và cào bằng sự khác biệt phương ngữ trên khắp lãnh thổ rộng lớn của Trung Hoa đương thời (mô hình này còn được gọi là hệ thống thông biện). Những tự điển kiểu Thiết vận áp dụng phiên thiết để ghi chú cách đọc Hán tự, chủ trương phân tích âm tiết thành hai phần là thanh mẫu (initial; tức phụ âm đầu hoặc khởi âm) và vận mẫu (final; tức vần hoặc chung âm). Các vận đồ đời nhà Tống có đưa ra những phân tích khu biệt về thanh mẫu và vận mẫu trong Thiết vận, song chúng chưa hẳn là một phân tích ngữ âm hàn lâm thực thụ. Mặt khác, vận đồ cũng bị ảnh hưởng bởi sự phát âm lệch thời của đời sau. Giới ngôn ngữ học đã cố gắng xác định các đặc điểm ngữ âm khu biệt bằng cách nghiên cứu cách thức phát âm ở các biến thể tiếng Trung hiện đại và vốn từ mượn Hán trong tiếng Nhật, tiếng Hàn và tiếng Việt (còn gọi là ngữ liệu ngoại Hán), song nhiều chi tiết về vận mẫu vẫn đang bị tranh cãi.

Cuốn Thiết vận phân biệt các thanh mẫu sau đây, mỗi thanh mẫu được đặt tên truyền thống và được phân loại dựa trên vận đồ như sau:

Thông qua nghiên cứu ngữ nghĩa từ vựng được dùng bởi các tác giả thời Đông Hán, nhà bác ngữ học đời nhà Thanh Tiễn Đại Hân đã phát hiện ra rằng các dãy âm tắc quặt lưỡi và răng dường như không phân biệt vào thời Hán trung cổ. Do vậy, danh sách 32 thanh mẫu (lược âm hiếm gặp) vẫn được dùng bởi một số học giả Trung Quốc cho tới ngày nay, với đại diện tiểu biểu là Hà Cửu Doanh. Đầu thế kỷ thứ 20, Hoàng Khản đã xác định 19 thanh mẫu của tiếng Hán trung cổ có thể đi kèm với đa dạng các vận mẫu; ông gọi chúng là "thanh mẫu nguyên thủy", tức các phụ âm đầu nguyên bản, phát sinh ra các phụ âm khác:

Bằng chứng từ các dãy đồng âm

thumb|upright=0.9|Một trang từ ấn bản [[Thuyết văn giải tự thời nhà Tống, cho thấy Hán tự chứa bộ viết bằng chữ tiểu triện]] Mặc dù Hán văn không phải là hệ chữ viết ngữ âm, các nhà ngôn ngữ học vẫn có thể suy đoán cách đọc của từ dựa trên các yếu tố ký âm nhất định. Thường thì Hán tự thuộc cùng một dãy đồng âm sẽ có phát âm khá giống nhau, chẳng hạn như (, 'trung/giữa') được dùng làm tự mẫu ký âm cho (, 'giội') và (, 'trung thành'). Bên cạnh đó, hiện cũng tồn tại nhiều dãy mà được coi là đồng âm nhưng mỗi Hán tự trong đó lại có phát âm khác nhau hoàn toàn; điều này là vì chúng đã từng đồng âm ở thời cổ nhưng do diễn tiến theo dòng lịch sử nên cách phát âm đâm ra bị thay đổi.

Một quy luật mấu chốt, lần đầu tiên được đề xướng bởi nhà Hán học Thụy Điển Bernhard Karlgren, phát biểu rằng các thanh mẫu của các Hán tự có chứa cùng một tự mẫu ký âm sẽ có cùng một vị trí cấu âm ở giai đoạn tiếng Hán thượng cổ. Ví dụ, bởi vì tiếng Hán trung cổ có các âm răng và âm tắc quặt lưỡi xuất hiện trong cùng một dãy đồng âm, chúng có thể được tầm nguyên về cùng một dãy âm răng ở giai đoạn thượng cổ, theo đó thì các âm tắc quặt lưỡi được quy định bởi phụ âm giữa ở giai đoạn thượng cổ. Tương tự, các âm xuýt răng và xuýt quặt lưỡi của tiếng Hán trung cổ xuất hiện một cách gần như khả thế chỗ trong các dãy đồng âm và đều có thể được tầm nguyên về một dãy âm xuýt thượng cổ, theo đó thì các âm xuýt quặt lưỡi được quy định bởi phụ âm giữa ở giai đoạn thượng cổ.

Tuy nhiên, có rất nhiều trường hợp mà các thanh mẫu trung cổ không thuộc cùng một dãy đồng âm. Karlgren và các tác giả về sau đề xuất thêm các phụ âm hoặc các cụm phụ âm đầu ở tiếng Hán thượng cổ để cố gắng giải thích các ngoại lệ. Chẳng hạn, các âm xuýt ngạc cứng tiếng Hán trung cổ xuất hiện ở hai dãy đồng âm khác nhau, cùng với các âm răng và âm ngạc mềm:

  • (< ) 'chu (kỳ); (nhà) Chu', (< ) 'điêu (khắc)' và (< ) 'điều (chỉnh)'
  • (< ) 'cắt ra' và (< ) 'con chó dại' Các học giả cho rằng âm ngạc cứng là hậu duệ của các âm răng và ngạc mềm theo sau bởi phụ âm giữa ở tiếng Hán thượng cổ, trừ trường hợp có phụ âm giữa .

Bằng chứng từ tiếng Mân

Các phương ngữ Mân hiện đại, nhất là ở khu vực tây bắc tỉnh Phúc Kiến, biểu hiện các khu biệt phái sinh không được phản ánh ở tiếng Hán trung cổ. Ví dụ, các phụ âm đầu sử dụng phương thức cấu âm răng dưới đây đã được xác định ở giai đoạn tiền-Mân:

Các vị trí cấu âm khác cũng thể hiện các khu biệt tương tự khi được thực hiện cùng với phương thức tắc và mũi. Sự phối thanh ở giai đoạn tiền-Mân được ngoại suy từ lịch sử phát triển của các thanh điệu Mân, nhưng phẩm chất ngữ âm của các phụ âm đầu vẫn chưa thực sự được xác định một cách chắc chắn. Các âm tố -t, -d, v.v. còn được gọi là các "âm tắc bị mềm hóa", bởi lẽ các dạng phái sinh của chúng ở phương ngữ Giản Dương và các biến thể Mân ngữ ở tây bắc Phúc Kiến được phát âm bằng phương thức xát hoặc tiếp cận (chẳng hạn, < -p -t *-k ở Giản Dương) hoặc rụng đi hẳn, trong khi các biến thể không bị mềm hóa thì trở thành âm tắc. Bằng chứng trong vốn từ mượn thuở sớm của tiếng Dao (hệ Hmông-Miền) gợi ý rằng các âm tắc bị mềm hóa đã từng trải qua quá trình tiền mũi hóa.

Các khu biệt này được suy đoán là bắt nguồn từ giai đoạn Hán thượng cổ, nhưng hoàn toàn không hiện diện ở các bản phục nguyên phụ âm đầu được chấp nhận rộng rãi như đã đề cập ở bên trên. Ví dụ, tuy rằng tiếng Hán thượng cổ được cho là sở hữu âm mũi vô thanh lẫn hữu thanh, song chỉ các âm mũi hữu thanh mới sinh ra các âm mũi của tiếng Hán trung cổ, tương phùng với cả hai dạng âm mũi của tiền-Mân. Hiện giới ngôn ngữ học vẫn chưa thể đi đến kết luận gì về tiền thân của những sự khu biệt thượng cổ này.

Phụ âm giữa

Khía cạnh bị tranh cãi nhiều nhất của các vận đồ thời nhà Tống là sự phân chia các vận mẫu trong Thiết vận thành bốn đẳng ( ). Hầu hết học giả tin rằng đẳng I và IV tương ứng với các nguyên âm hàng sau và hàng trước. Đẳng II được cho là liên quan đến phương thức quặt lưỡi và có thể được tầm nguyên về phụ âm giữa của tiếng Hán thượng cổ, trong khi đẳng III thường được coi là dấu vết phản ánh sự tồn tại của phụ âm giữa . Kể từ Karlgren, nhiều học giả đã phóng chiếu những âm giữa này (ngoại trừ ) về giai đoạn thượng cổ. Bảng sau đây minh họa giả thuyết của Baxter về các phụ âm đầu và giữa của tiếng Hán thượng cổ đã góp phần tạo ra sự giáp âm như đã thấy của phụ âm đầu và đẳng vần của tiếng Hán trung cổ.

Ở đây, , , , và là các lớp phụ âm của tiếng Hán thượng cổ. Cột III-3 và III-4 là các đặc điểm khu biệt trùng nữu () xuất hiện ở một số âm tiết có vận mẫu thuộc đẳng III, tức tương đương với dòng 3 hoặc 4 của các vận đồ thời nhà Tống. Hai dạng này không phân biệt ở tiếng Trung hiện đại; các dạng ngoại Hán thường lưu tồn yếu tố ngạc cứng của III-4 nhưng bỏ đi III-3.

Giả thuyết của Baxter khác biệt với của Lý Phương Quế ở vấn đề phục nguyên và đứng sau các thanh mẫu môi và gốc lưỡi. Lý đề xuất là nguồn gốc của thanh mẫu ngạc cứng xuất hiện ở các dãy đồng âm ngạc mềm hay thanh hầu, bên cạnh đó ông không tìm thấy bằng chứng nào ủng hộ sự tồn tại của và cho rằng sự khu biệt trùng nữu là do nguyên âm gây ra. Dựa trên giả thuyết trước đó của Pulleyblank, Baxter lý giải hiện tượng trùng nữu bằng , theo đó cho rằng các âm ngạc mềm và thanh hầu thường đã bị ngạc cứng hóa khi đứng trước tổ hợp (không phải ) + một nguyên âm hàng trước. Tuy nhiên, giả thuyết này chưa đưa ra được một lời giải thích xác đáng cho lượng lớn các âm tố khác bị ngạc cứng hóa.

Âm tiết nhóm A và B

Một sự khu biệt cơ bản khác ở tiếng Hán trung cổ là giữa các âm tiết có vận mẫu thuộc đẳng III và các đẳng còn lại; Pulleyblank lần lượt gọi hai nhóm âm tiết này là B và A. Hầu hết học giả cho rằng âm tiết nhóm B được đặc trưng bởi âm giữa ở tiếng Hán trung cổ. Mặc dù nhiều học giả cho rằng âm này là hậu duệ của giai đoạn thượng cổ, cũng có luồng ý kiến trái chiều cho rằng âm giữa của tiếng Hán trung cổ là sự phát triển thứ cấp về sau chứ chưa bao giờ hiện diện ở giai đoạn thượng cổ. Một số lập luận lý giải sự khu biệt giữa hai nhóm được trình bày bên dưới:

  • sự hiện diện hoặc thiếu vắng một tiền tố. Jakhontov cho rằng nhóm B phản ánh sự tồn tại của tiền tố , trong khi Ferlus cho rằng nhóm A phát sinh từ một tiền tố không nhấn trọng âm (tức một tiểu âm tiết), yếu tố mà quy đinh độ căng âm tiết đối lập với độ lơi ở các âm tiết nhóm B.
  • một sự khu biệt trường độ ở nguyên âm hạt nhân. Pulleyblank ban đầu đề xuất rằng các âm tiết thuộc nhóm B có nguyên âm kéo dài hơn. Sau khi xem xét các đồng nguyên trong ngữ hệ Hán-Tạng, Starostin và Trịnh Trương độc lập với nhau nêu ra giả thuyết rằng, các nguyên âm dài tương đương với nhóm A trong khi nguyên âm ngắn tương đương với B. Điều này sẽ giải thích cho việc tại sao một số nhà bình luận thời Đông Hán lại miêu tả các âm tiết nhóm A và B lần lượt là 'hoãn khí/khí chậm' và 'cấp khí/khí nhanh'.
  • một sự khu biệt dựa trên trọng âm kiểu điệu tính, như được Pulleyblank về sau ủng hộ, theo đó nhóm B được nhấn trọng âm ở mora đầu tiên, còn nhóm A được nhấn ở mora thứ hai.

Nguyên âm

thumb|upright|[[Cố Viêm Vũ, người tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu vận âm Kinh Thi]] Một bản phục nguyên vận mẫu Hán ngữ thượng cổ phải có khả năng giải thích cách thức gieo vần trong Kinh Thi, một hợp tuyển các bài thơ giữa thế kỷ 11-7 TCN. Một số bài thơ trong đây vẫn vần nếu đọc theo một số phương ngữ hiện đại nhất định, nhưng không phải tất cả. Điều này là vì người hậu thế không có luật gieo vần chặt chẽ, và phải cho tới cuối thời nhà Minh, học giả Trần Đệ mới chú ý rằng, những bài thơ này từng vần một cách mạch lạc trong quá khứ nhưng hàng thế kỷ biến đổi ngữ âm đã che lấp điều đó. Công cuộc nghiên cứu vận âm Hán ngữ thượng cổ bắt đầu nở rộ vào thế kỷ thứ 17, khi Cố Viêm Vũ chia các vận âm trong Kinh Thi thành 10 nhóm vần hay vận bộ ( ). Những bộ này sau đó được bổ khuyết bởi các học giả đời sau, thành quả là 31 bộ chuẩn vào những năm 1930. Đoàn Túc Tài khẳng định quy luật cốt yếu mà các nhà nghiên cứu vận âm buộc phải tuân thủ đó là các tự mẫu thuộc cùng một dãy đồng âm phải thuộc cùng một vận bộ, điều mà sẽ đảm bảo tất cả tự mẫu đều có bộ.

Giả thiết các âm tiết vần với nhau sở hữu cùng một nguyên âm hạt nhân, Lý Phương Quế đề xuất hệ thống 4 nguyên âm , , và . Bên cạnh đó, ông đề xuất thêm 3 nguyên âm đôi , và đề phù ứng với các âm tiết thuộc cùng một vận bộ với các vận mẫu có nguyên âm phục dựng hay nhưng lại khu biệt ở giai đoạn tiếng Hán trung cổ. Cuối những năm 1980, Trịnh Trương Thượng Phương, Sergei Starostin và William Baxter (kế tục bởi Nicholas Bodman) độc lập với nhau cho rằng những vận bộ truyền thống nên được tách ra hơn nữa, theo đó phân 31 bộ cũ thành hơn 50 bộ để tương hợp với hệ thống 6 nguyên âm được đề xuất bên trên. Baxter ủng hộ lý thuyết này bằng một phân tích thống kê vần Kinh Thi, song qua đó phát hiện ra rằng rất ít vần chứa phụ âm cuối , và để cho ra một kết quả đáng kể.

Bảng sau đây minh họa cho các giả thuyết bên trên, bao gồm danh sách 31 vận bộ truyền thống với các phái sinh ở giai đoạn trung cổ và những nguyên âm thượng cổ được giả định là đi kèm trong hệ thống của Lý và Baxter. Theo phân tích truyền thống, các vận bộ được xếp vào ba tập song song, dựa trên đẳng vận mẫu tương ứng ở tiếng Hán trung cổ. Để đơn giản hóa, chỉ các vận mẫu thuộc đẳng I và IV mới được liệt kê, bởi lẽ cách phát âm phức tạp của đẳng II và III được cho là hệ quả của các âm giữa và của tiếng Hán thượng cổ (xem mục trước).

Thanh điệu và phụ âm cuối

Từng có rất nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề mối quan hệ giữa phụ âm cuối và thanh điệu, và bên cạnh đó cũng là vấn đề về việc liệu tiếng Hán thượng cổ có thanh điệu hay không, theo như bình phẩm của học giả thời nhà Minh Trần Đệ.

Thẩm Ước là người đầu tiên mô tả tứ thanh tiếng Hán trung cổ vào khoảng năm 500 CN; theo đó thanh điệu được phân thành bốn dạng là 'bình' ( ), 'thượng' ( ), 'khứ' ( ), và 'nhập' ( ), theo đó thanh nhập thường xuất hiện ở các âm tiết có phụ âm cuối là âm tắc (, hoặc ). Mặc dù vần trong Kinh Thi thường tuân thủ quy tắc thanh điệu, nhiều trường hợp có phát âm tuy khác thanh điệu so với quá khứ nhưng vẫn giáp vần với nhau, nhất là giữa những từ có thanh khứ và thanh nhập. Điều này khiến Đoàn Túc Tài suy luận rằng tiếng Hán thượng cổ không có thanh khứ. Vương Niệm Tôn (1744–1832) và Dương Hữu Cáo (mất 1851) cho rằng tiếng Hán thượng cổ cũng có thanh điệu giống như tiếng Hán trung cổ, nhưng một số từ về sau bị tráo đổi thanh điệu, quan điểm mà tới nay vẫn nhận được sự ủng hộ của một bộ phận các nhà ngôn ngữ học.

Karlgren cũng để ý rằng các Hán tự được đọc với thanh khứ và thanh nhập cũng sẽ chia sẻ cùng một tự mẫu ký âm, chẳng hạn:

  • 'cậy nhờ' và 'quái gở'
  • 'ho khan' và 'cắt, khắc' Ông cho rằng những từ có thanh khứ trong các cặp này kết thúc với âm tắc hữu thanh ( hoặc ) ở tiếng Hán thượng cổ.

Một quan điểm khác được đưa ra bởi A.G. Haudricourt trong bài báo của ông về sự hình thành thanh điệu tiếng Việt từ các phụ âm cuối. Những thanh điệu tiếng Việt tương đương với thanh thượng và khứ ở tiếng Hán trung cổ lần lượt được phái sinh từ một âm tắc thanh hầu cuối âm tiết và âm , cái sau dần dà phát triển thành âm xát thanh hầu . Những phụ âm hậu vĩ âm thanh hầu này lần lượt quy định đồ thị cao độ của thanh thượng và thanh khứ hậu sinh, về sau trở nên khu biệt do các phụ âm hậu vĩ âm bị rụng đi. Haudricourt cũng gợi ý rằng thanh khứ của tiếng Hán trung cổ phản ánh một hậu tố phái sinh ở giai đoạn thượng cổ.

Pulleyblank nối tiếp gợi ý của Haudricourt để đưa ra kết luận rằng thanh thượng của tiếng Hán bắt nguồn từ âm tắc thanh hầu ở cuối âm tiết. Mai Tổ Lâm ủng hộ giả thuyết này dựa trên cơ sở các bản phiên âm tiếng Phạn sang tiếng Hán cổ, chỉ ra rằng những từ mà từng có âm thượng sẽ kết thúc với âm tắc thanh hầu ở một số phương ngữ tiếng Trung hiện đại, tiểu biểu là tiếng Ôn Châu và một số biến thể Mân. Thêm vào đó, hầu hết những từ có thanh nhập giáp vần với những từ có thanh thượng trong Kinh Thi kết thúc với âm .

Tổng hợp lại, các giả thuyết trên dẫn tới những tập vĩ âm (phụ âm cuối) tiếng Hán thượng cổ sau đây:

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Giới hàn lâm đã có nhiều nỗ lực trong việc phục nguyên hệ thống âm vị học của tiếng Hán thượng cổ thông qua bằng chứng văn liệu. Mặc dù hệ chữ tượng hình Hán
**Tiếng Hán thượng cổ** (tiếng Hán: 上古漢語; Hán Việt: _thượng cổ Hán ngữ_) là giai đoạn cổ nhất được ghi nhận của tiếng Hán và là tiền thân của tất cả các dạng tiếng Hán
**Âm vị học tiếng Việt** là môn học nghiên cứu về cách phát âm tiếng Việt. Bài viết này tập trung vào các chi tiết kỹ thuật trong việc phát âm tiếng Việt viết bằng
**Ngữ hệ Hán-Tạng**, trong một số tư liệu còn gọi là **ngữ hệ Liên Himalaya**, là một ngữ hệ gồm trên 400 ngôn ngữ. Ngữ hệ này đứng thứ hai sau ngữ hệ Ấn-Âu về
**Hung Nô** () là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ III TCN họ đã kiểm soát
**Ngôn ngữ đơn âm tiết** (chữ Anh: _Monosyllabic language_) là loại ngôn ngữ mà từ đơn chủ yếu do một âm tiết duy nhất cấu thành. Một ví dụ về ngôn ngữ đơn âm tiết
**Trịnh Trương Thượng Phương** (; 9 tháng 8 năm 1933 – 19 tháng 5 năm 2018) là nhà ngôn ngữ học người Trung Quốc, nổi tiếng với công trình phục nguyên Hán ngữ thượng cổ.
**Tiếng Hebrew hiện đại** hay **tiếng Hebrew Israel** ( _ʿivrít_ _ḥadašá [h],_ - "tiếng Hebrew hiện đại" hoặc "tiếng Hebrew mới"), thường được người nói gọi đơn giản là **tiếng Hebrew** ( _Ivrit_), dạng chuẩn
**Phiên thiết Hán-Việt** là dùng cách **phiên thiết** (反切), tức là dùng âm của hai chữ khác (được coi là đã biết cách đọc) ghép lại để chú âm cho cách đọc âm Hán của
**Âm Hán Việt** (音漢越) là thuật ngữ chỉ các âm đọc của chữ Hán được người nói tiếng Việt xem là âm đọc chuẩn dùng để đọc chữ Hán trong văn bản tiếng Hán vào
**Chữ Hán**, còn gọi là **Hán tự**, **Hán văn****,** **chữ nho**, là loại văn tự ngữ tố - âm tiết ra đời ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên. Ngôn
**Tiếng Trung Quốc** (), còn gọi là **tiếng Trung**, **tiếng Hoa**, **tiếng Hán**, **tiếng Tàu**, **Trung văn** (中文 _Zhōng wén_), **Hoa ngữ** (華語/华语 _Huá yǔ_), **Hoa văn** (華文/华文), **Hán ngữ** (漢語/汉语 _Hàn yǔ_), là một
nhỏ|phải|Những [[chiến binh người Hung]] **Nguồn gốc người Hung** (_Origin of the Huns_) và mối quan hệ của tộc người Hung này với những giống dân khác được nhắc đến trong các nguồn sử liệu
**Tiếng Hàn Quốc**, **Tiếng Hàn** hay **Hàn ngữ** ( - cách gọi của Hàn Quốc) hoặc **Tiếng Triều Tiên** hay **Triều Tiên ngữ** ( - cách gọi của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều
**Tiếng Thụy Điển cổ** (tiếng Thụy Điển hiện đại: _fornsvenska_) là tên chung của 2 phiên bản tiếng Thụy Điển được nói vào khoảng thời Trung Cổ: tiến Thụy Điển sớm (_klassisk fornsvenska_), được nói
**Tiếng Quảng Đông** (), còn gọi là **Việt ngữ** (), là một nhánh chính của tiếng Trung được nói tại miền Nam Trung Quốc, đặc biệt là ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hồng Kông và
**Tiếng Mân** (; Bình thoại tự: Mìng ngṳ̄) là một nhóm ngôn ngữ Hán với hơn 30 triệu người nói ở các tỉnh miền nam Trung Quốc gồm Phúc Kiến, Quảng Đông (Triều Châu-Sán Đầu,
Hiện nay, nhu cầu học tiếng Hán rất lớn. Trong quá trình dạy học, chúng tôi nhận thấy rằng người học không gặp nhiều khó khắn ở mãng ngữ pháp, phát âm, từ vựng, mà
**Ér hoá** ( ), còn gọi là sự **r hoá chung âm của âm tiết**, là một hiện tượng âm vị học mà trong đó, từ góc độ của người bản ngữ, âm "ér" (注音,
là một ngôn ngữ Đông Á được hơn 125 triệu người sử dụng ở Nhật Bản và những cộng đồng dân di cư Nhật Bản khắp thế giới. Tại Việt Nam nó cũng là một
**Từ vựng tiếng Việt** là một trong ba thành phần cơ sở của tiếng Việt, bên cạnh ngữ âm và ngữ pháp. Từ vựng tiếng Việt là đối tượng nghiên cứu cơ bản của ngành
là một bộ phim điện ảnh hoạt hình Nhật Bản đề tài chính kịch học đường ra mắt năm 2016, do xưởng phim Kyōto Animation sản xuất, Yamada Naoko đạo diễn và Yoshida Reiko chắp
**Chính tả tiếng Việt** là sự chuẩn hóa hình thức chữ viết của ngôn ngữ tiếng Việt. Đây là một hệ thống quy tắc về cách viết các âm vị, âm tiết, từ, cách dùng
**Tiếng Phạn** hay **Sanskrit** (chữ Hán: 梵; _saṃskṛtā vāk_ संस्कृता वाक्, hoặc ngắn hơn là _saṃskṛtam_ संस्कृतम्) là một cổ ngữ Ấn Độ và là một ngôn ngữ tế lễ của các tôn giáo như
**Từ Hán Việt** là những từ và ngữ tố tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Hán và những từ tiếng Việt được người nói tiếng Việt tạo ra bằng cách ghép các từ và/hoặc ngữ
**_Chiến tranh giữa các vì sao_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Star Wars_**) là loạt tác phẩm hư cấu sử thi không gian của Mỹ sáng tạo bởi George Lucas, tập trung chủ yếu vào một
**Làn sóng Hàn Quốc**, còn gọi là **Hàn lưu** hay **Hallyu** (, , có nghĩa là "làn sóng/dòng chảy" trong tiếng Hàn), hay còn có tên gọi đầy đủ là **làn sóng văn hóa Hàn
phải|Bộ [[tượng La hán bằng đá trên đỉnh núi Cấm (An Giang)]] **A-la-hán** (tiếng Phạn: _arhat, arhant_; tiếng Pali: _arahat, arahant_; tiếng Tạng: _dgra com pa_; tiếng Trung: 阿羅漢|阿羅漢) trong dân gian thường gọi là
**Tiếng lóng** hay **từ lóng** trong tiếng Việt là các từ vựng hạn chế về mặt thành phần và tầng lớp sử dụng. Trong từng trường hợp khác nhau thì tiếng lóng được sử dụng
nhỏ|413x413px|"Quốc ngữ" (國語, _Guóyǔ_) được viết bằng chữ Hán phồn thể và giản thể, tiếp theo là bính âm Hán ngữ, Gwoyeu Romatzyh, Wade–Giles và Yale|thế= **Latinh hóa tiếng Trung Quốc** là việc sử dụng
**Từ đồng âm trong tiếng Việt** là những từ phát âm giống nhau hay cấu tạo âm thanh giống nhau, nhưng nghĩa, từ loại hoàn toàn khác nhau (gọi ngắn gọn là _đồng âm khác
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
Trong thơ ca, Nhịp là cấu trúc tiết tấu cơ bản của một bài thơ hay các dòng trong một bài thơ. Nhiều hình thức truyền thống thơ ca yêu cầu một Nhịp thơ đặc
**Đại học Sejong** (Hangul: 세종대학교, Hanja: 世宗大學校, Hán-Việt: Thế Tông Đại học hiệu) là một trường tư thục, nằm ở Seoul, Hàn Quốc. Đại học Sejong được thành lập kể từ năm 1940 lấy tên
Căn cứ vào nguồn gốc của các từ, các nhà nghiên cứu chia từ vựng tiếng Việt thành hai lớp: từ thuần Việt và từ mượn hay còn gọi là từ ngoại lai. Nội dung
**Tiếng Quảng Châu Hồng Kông** (香港粵語, Hương Cảng Việt ngữ) là một phương ngữ tiếng Quảng Châu thuộc ngữ hệ Hán-Tạng thường được nói ở Hồng Kông, cũng như Ma Cao và một số khu
**Tâm lý học** () là ngành khoa học nghiên cứu về tâm trí và hành vi, tìm hiểu về các hiện tượng ý thức và vô thức, cũng như cảm xúc và tư duy. Đây
**Tiếng Bắc Kinh** () là phương ngữ uy tín của tiếng Quan Thoại được nói ở vùng đô thị Bắc Kinh, ngoại trừ phương ngữ Bắc Kinh của các quận ngoại ô. Âm vị của
**On'yomi** (Tiếng Nhật là cách đọc chữ Hán (Kanji) dựa trên phát âm của tiếng Trung Quốc (nên còn gọi là âm Hán-Nhật) để phân biệt với cách phát âm thuần Nhật ( âm Hán
**Ngôn ngữ học** hay **ngữ lý học** là bộ môn nghiên cứu về ngôn ngữ. Người nghiên cứu bộ môn này được gọi là nhà ngôn ngữ học. Nói theo nghĩa rộng, nó bao gồm
**Cờ vây** là một trò chơi dạng chiến lược trừu tượng cho hai người chơi, trong đó mục tiêu là bao vây nhiều lãnh thổ hơn đối thủ. Trò chơi được phát minh ở Trung
**Âm nhạc Nhật Bản** bao gồm nhiều thể loại với nhiều cách thể hiện khác nhau trong cả âm nhạc hiện đại lẫn truyền thống. Âm nhạc trong tiếng Nhật gọi là 音楽 (_ongaku_), là
**Tiếng Bạch** (chữ Latinh: , chữ Hán-Bạch: 白語子, âm Hán-Việt: Bạch ngữ tử; ) là ngôn ngữ của người Bạch, với phần đông người nói tụ ở Vân Nam, Trung Quốc. Ngôn ngữ này có
**Tiếng Pháp** (, IPA: hoặc , IPA: ) là một ngôn ngữ Rôman (thuộc hệ Ấn-Âu). Giống như tiếng Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, România, Catalonia hay một số khác, nó xuất phát
**Tiếng Hà Lan** hay **tiếng Hòa Lan** () là một ngôn ngữ thuộc nhánh phía Tây của Nhóm ngôn ngữ German, được nói hàng ngày như tiếng mẹ đẻ bởi khoảng 23 triệu người tại
**Choi Dong Wook** (tiếng Hàn: 최동욱, sinh ngày 9 tháng 11 năm 1984), thường được biết đến với nghệ danh **Se7en** (phát âm như "seven", tiếng Hàn: 세븐), là một nam ca sĩ Hàn Quốc
nhỏ|phải|Một [[bữa ăn sáng truyền thống tại một Ryokan ở Kyoto. Các món ăn bao gồm thịt cá thu nướng, _dashimaki_ (trứng tráng Nhật Bản, ở đây theo phong cách Kansai), cơm, đậu phụ trong
**Han Ye-seul** (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1981) là một nữ diễn viên người Mỹ gốc Hàn Quốc. Cô xuất hiện lần đầu trong bộ phim sitcom _Nonstop 4_ (2003) và từ đó đóng
**Ligdan Khutugtu Khan** (tiếng Mông Cổ: Ligden Khutugt Khan; ký tự Cyrill: Лигдэн Хутугт хаан, chữ Hán: 林丹汗; Hán-Việt: _Lâm Đan hãn_; 1588 – 1634) là Khả hãn chính thức cuối cùng của triều đại
**Đại học Georgia** (, viết tắt là **UGA** hoặc **Georgia**) là một đại học nghiên cứu công lập được cấp đất tại Hoa Kỳ, được thành lập từ năm 1785, có khuôn viên chính ở