✨Âm vị học tiếng Việt

Âm vị học tiếng Việt

Âm vị học tiếng Việt là môn học nghiên cứu về cách phát âm tiếng Việt. Bài viết này tập trung vào các chi tiết kỹ thuật trong việc phát âm tiếng Việt viết bằng chữ Quốc ngữ.

Ký hiệu ngữ âm dùng để ký âm tiếng Việt

Các tài liệu ngôn ngữ học ở Việt Nam sử dụng nhiều kiểu ký hiệu ngữ âm khác nhau để ký âm tiếng Việt. Để biểu thị cùng một âm nào đó trong khi tác giả này thì ghi âm đó bằng ký hiệu này thì tác giả khác lại ghi bằng ký hiệu khác. Cùng một ký hiệu lại có thể biểu thị những âm khác nhau tuỳ từng tác giả. Người nghiên cứu ngôn ngữ có thể trộn lẫn các kiểu ký hiệu ngữ âm khác nhau, trộn lẫn cả một số chữ lấy từ văn tự La-tinh tiếng Việt, tạo thành một hệ thống ký hiệu ngữ âm hỗn hợp dùng để ký âm tiếng Việt. Khi người viết không ký âm tiếng Việt bằng ký hiệu ngữ âm quốc tế mà lại không nêu rõ ý nghĩa của ký hiệu mình sử dụng thì người đọc không thể tránh khỏi việc có những lúc không biết chắc được ký hiệu mình gặp phải được dùng để biểu thị thuộc tính ngữ âm gì. Trong bài này, hệ thống ký hiệu ngữ âm được dùng để ký âm tiếng Việt là ký hiệu ngữ âm quốc tế của Hội Ngữ âm học Quốc tế.

Do không hiểu rõ ý nghĩa và cách sử dụng ký hiệu ngữ âm quốc tế mà một số người nghiên cứu ngôn ngữ ở Việt Nam khi ký âm tiếng Việt bằng ký hiệu ngữ âm quốc tế đã dùng sai ký hiệu. Âm xát ngạc mềm vô thanh lẽ ra phải được ký âm bằng ký hiệu ngữ âm quốc tế là /x/ (tự mẫu La-tinh "ích-xì" viết thường) thì lại bị nhiều người ký âm nhầm là /χ/ (tự mẫu tiếng Hy Lạp "khi" viết thường). Trong bảng ký hiệu ngữ âm quốc tế, /χ/ được dùng làm ký hiệu biểu thị âm xát thuỳ ngạc vô thanh chứ không phải là âm xát ngạc mềm vô thanh. Nhiều người nghiên cứu ngôn ngữ ở Việt Nam không phân biệt âm tắc đôi môi hữu thanh /b/ với âm nổ trong đôi môi hữu thanh /ɓ/, âm tắc lợi hữu thanh /d/ với âm nổ trong lợi hữu thanh /ɗ/. Ở Việt Nam, hai âm nổ trong /ɓ/ và /ɗ/ trong tiếng Việt hay bị ký âm là /b/ và /d/. Hiện tượng không còn phân biệt /n/ với /l/ trong các từ có hình thức chính tả bắt đầu bằng tự mẫu n hoặc l có ba kiểu biểu hiện:

Phụ âm đầu của mọi từ có hình thức chính tả bắt đầu bằng n hoặc l đều là /n/.

Phụ âm đầu của từ đều là /l/.

Ở một số từ phụ âm đầu đối ứng với tự mẫu n đứng đầu hình thức chính tả của từ là /n/, với l là /l/, ở một số từ khác âm đối với n là /l/, với l là /n/.

Trong phương ngữ Bắc Bộ, một số từ có phụ âm đầu là âm mũi ngạc cứng hữu thanh /ɲ/, chẳng hạn như nhuộm, nhức, nhỏ (nhỏ trong nhỏ giọt, không phải nhỏ trong nhỏ bé), nhổ, nhốt, còn có biến thể ngữ âm có phụ âm đầu là /z/. Âm /z/ này được ghi lại bằng tự mẫu d hoặc gi hoặc r tuỳ từng từ (ít nhất là một trong ba tự mẫu đó, có khi là hai, thậm chí là cả ba).

Một số từ có phụ âm đầu là âm mũi ngạc mềm hữu thanh /ŋ/ còn có biến thể ngữ âm có phụ âm đầu là âm xát ngạc mềm hữu thanh /ɣ/, được sử dụng tại một số nơi ở Bắc Bộ. Thí dụ: từ ngáy (ngáy trong ngáy ngủ), ngẫm (ngẫm trong suy ngẫm) còn có biến thể ngữ âm là gáy, gẫm.

Trong phương ngữ Bắc Bộ, âm tắc đôi một vô thanh /p/ chỉ là phụ âm đầu trong một số ít từ ngữ được vay mượn từ các ngôn ngữ khác, chủ yếu là từ tiếng Pháp. Trên văn tự, âm /p/ được ghi lại bằng tự mẫu p. Không phải từ nào trong ngôn ngữ khác có phụ âm đầu /p/ thì từ tiếng Việt bắt nguồn từ từ đó cũng sẽ có phụ âm đầu là /p/. Ở một số từ âm /p/ được thay thế bằng âm /ɓ/. Thí dụ: cả hai âm tiết của từ búp bê (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp poupée /pu.pe/) đều có phụ âm đầu là /ɓ/ chứ không phải là /p/. Trong phương ngữ Nam Bộ, phụ âm đầu của các từ có hình thức chính tả bắt đầu bằng tự mẫu p là /ɓ/.

Âm tắc thanh hầu được phát âm với thanh môn luôn đóng trước khi đóng miệng. Việc thanh môn thường không được mở trước khi mở miệng tạo nên âm hút vào. Tuy nhiên, thỉnh thoảng thanh môn được mở trước khi mở miệng, tạo nên âm . Do đó, tính chất chủ đạo của âm này là tiền âm thanh hầu hơn là âm nổ.

là âm răng-chân răng (), còn là âm đầu lưỡi-chân răng.

là âm phiến lưỡi-âm vòm lợi (bản lưỡi chạm vào vòm lợi).

thường được phát âm hơi tắc xát thành , nhưng không bật hơi.

Một âm tắc thanh hầu vô thanh được chèn vào từ bắt đầu bằng một nguyên âm hay bán nguyên âm trong giọng Hà Nội.

:

Hà Nội

  • /ɹ/, , và /w/ chỉ có trong các từ mượn.
  • là âm răng-phiến lưỡi-chân răng: .
  • là âm đầu lưỡi-chân răng.
  • Không có các phụ âm quặt lưỡi /ʈʂ/, /ʂ/, /ʐ/ thay vào đó là âm đầu lưỡi: /tʃ/, /ʃ/, /ʒ/ trong trường phổ thông.

Sài Gòn

  • là âm đầu lưỡi-chân răng.
  • là âm phiến lưỡi-vòm lợi: . *Một số người không phát âm tách biệt và . Hai âm này đang mất dần sự phân biệt.
  • Một số người không phát âm tách biệt và . Hai âm này đang mất dần sự phân biệt *Mẫu tự v thường được đọc là trong văn nói thường ngày, nhưng người đọc thường đọc là khi đọc văn bản. Nó được phát âm là hoặc là hoặc là trong từ mượn (va li đọc như wa li, ti vi đọc như ti wi, van đọc như wan, vân vân). Có một số người phát âm như phụ âm chùm với "âm đệm" /j/ , môi khép lúc đầu môi mở và chuyển ngay qua âm /j/, cách đọc này còn được bảo lưu trong các loại hình diễn xướng truyền thống như Hát bội (Tuồng), Đờn ca Tài tử, Cải Lương. Đây chính là hệ quả của việc hợp nhất và biến đổi âm trong phương ngữ miền Nam, (nhưng luôn có ở các phương ngữ miền Bắc và miền Trung).
  • Một số người phát âm d như là , và gi như là trong các tình huống cần phân biệt, đa phần phát âm cả hai thành .
  • Trong phương ngữ miền Nam, mẫu tự r có nhiều cách đọc khác nhau tùy thuộc vào người nói. Một người còn có thể có nhiều cách phát âm. Nó có nhiều dạng như âm đầu lưỡi vòm cứng xát , âm chân răng tiếp cận , âm chân răng vỗ , âm chân răng rung , hoặc âm xát vỗ/rung . Ở khu vực giáp ranh giữa Thành phố Hồ Chí Minh và Long An (các huyện Bình Chánh, Cần Giuộc, Cần Đước) mẫu tự r phát âm là [j]. Tại nhiều khu vực ở đồng bằng sông Cửu Long mẫu tự r phát âm là [ɣ].

Lược giảm phụ âm chùm

Trong tiếng Sài Gòn, tất cả phụ âm đầu + cụm đều bị lược giảm:

*Sau phụ âm vòm mềm /k, ŋ, ɣ/ và phụ âm thanh hầu /h, ʔ/, phụ âm đi trước được lược bỏ, phụ âm xát vòm mềm vô thanh /x/ mẫu tự kh biến đổi thành phụ âm môi-môi, môi-răng vô thanh tương ứng /ɸ/, /f/ và âm đệm /w/ được lược bỏ, ví dụ: cá khoai đọc như cá phai, khóa máy đọc như phá máy, khỏe không? đọc như phẻ không?.

: Sau phụ âm môi-môi, môi răng /m, ɓ, f, v/ với âm đệm tròn môi /w/ theo sau chỉ có một số ít từ và hầu hết là từ mượn tiếng Pháp, ví dụ: tiền boa (pourboire), đậu pơ-ti-poa (petit pois), xe buýt (bus), vải voan (voile). Phụ âm giữa nguyên và âm đệm được lược bỏ và đọc như: tiền bo, đậu bo, xe bít, vải von. Các phụ âm chùm thuộc các cơ quan cấu âm còn lại (chân răng, chân răng sau, vòm cứng) với âm đệm /w/, phụ âm giữ nguyên và âm đệm bị lược bỏ như trên, ví dụ: vô duyên đọc như vô diên, cái loa (hát) đọc như cái lo.

Ví dụ so sánh

Trong giọng Hà Nội, d, gir đều được phát âm là , còn xs đều được phát âm là . Bảng bên dưới cho thấy sự khác nhau:

:

Nguyên âm

Nguyên âm hạt nhân

:

Bảng IPA của nguyên âm ở trên dựa theo giọng Hà Nội; các vùng khác có thể có sự khác biệt. Nguyên âm hạt nhân bao gồm nguyên âm đơn (nguyên âm đơn giản) và ba nguyên âm đôi giữa.

  • Tất cả các nguyên âm đều là nguyên âm không tròn môi chỉ trừ ba nguyên âm sau: .
  • và được phát âm ngắn — ngắn hơn những nguyên âm khác.
  • Dù và có một số điểm khác nhau, nhưng nó vẫn được coi gần như là giống nhau.
  • : Nhiều nguồn, ví dụ như Thompson, , , coi nguyên âm này là nguyên âm đóng sau không tròn môi: . Tuy nhiên, Han cho rằng nguyên âm này giống nguyên âm nửa mở hơn là sau. , và cũng miêu tả nguyên âm này là nguyên âm nửa mở.
  • Theo , là nguyên âm nửa mở , trong khi là nguyên âm sau [].
  • Nguyên âm trở thành khi đứng trước : lịch → , chúc → , thức → vv.
  • chỉ ra trong tiếng Hà Nội, nguyên âm đôi , ươ , , có thể bị phát âm thành , nhưng khi đứng trước và trong âm tiết mở, chúng luôn được đọc là .
  • Trong phương ngữ miền Nam, các nguyên âm đóng và nửa mở là nguyên âm đôi trong các âm tiết mở: :

:

Nguyên âm đóng

Trong tiếng Việt, các nguyên âm hạt nhân có thể kết hợp với âm lướt hoặc để tạo thành nguyên âm đôi và nguyên âm ba. Sau đây là bảng liệt kê các nguyên âm đóng dựa trên phương ngữ miền Bắc.

:

nói rằng ở Hà Nội, những từ có âm ưuươu được đọc là , trong khi những vùng khác ở Bắc Bộ vẫn phát âm là và . Những người Hà Nội phát âm là và chỉ đang dùng cách phát âm đánh vần.

Phụ âm cuối

  • Khi âm tắc nằm ở cuối từ, chúng sẽ bị câm :

::

  • Khi âm vòm mềm nằm tiếp sau , chúng được phát âm với hai môi khép hoặc bị âm môi hóa .

:

Thanh điệu

Giữa các phương ngữ của tiếng Việt có nhiều khác biệt về thanh điệu. Về mặt chính tả, các thanh điệu được xếp thành sáu loại: ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng. Các thanh khác nhau về

  • Độ cao
  • Độ dài
  • Biến thiên giai điệu
  • Cường độ
  • Cách phát âm

Không như các ngôn ngữ Mỹ bản địa, Phi hay Trung Quốc, thanh điệu của tiếng Việt không hoàn toàn dựa vào sự biến điệu của thanh, thay vào đó dựa vào nhiều yếu tố phức tạp khác nhau (bao gồm cách phát âm, cao độ, độ dài, nguyên âm, vv). Cho nên nói chính xác thì tiếng Việt là ngôn ngữ giàu ngữ vực chứ không phải là ngôn ngữ "thuần" thanh điệu.

Trong chính tả, dấu thanh được viết trên hoặc dưới nguyên âm.

Phương ngữ miền Bắc

Sáu thanh điệu trong tiếng Hà Nội và một số vùng lân cận:

thumb|Thanh điệu trong phương ngữ miền Bắc (không phải Hà Nội) của một người nam. Của thumb|Thanh điệu trong tiếng Hà Nội của một người nữ. Của thumb|Thanh điệu trong tiếng Hà Nội của một người nữ khác. Của

Âm tiết và sắp xếp âm

  • Những vần không phổ biến có thể sẽ không xuất hiện trong bản.
  • Thanh nặng được thêm vào tất cả các vần chỉ mang tính chất minh họa. Cần phân biệt vần nào mang dấu nào. Xem thêm Quy tắc đặt dấu thanh trong chữ quốc ngữ. Không phải vần nào cũng xuất hiện và không phải vần nào cũng mang dấu nặng.
  • Phiên âm IPA được dựa trên quy ước của Wikipedia. Các phương ngữ khác nhau có thể có các cách phát âm khác nhau
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Âm vị học tiếng Việt** là môn học nghiên cứu về cách phát âm tiếng Việt. Bài viết này tập trung vào các chi tiết kỹ thuật trong việc phát âm tiếng Việt viết bằng
**Âm vị học tiếng Pháp** là ngành nghiên cứu hệ thống ngữ âm của tiếng Pháp. Bài viết này thảo luận về tất cả các biến thế của tiếng Pháp tiêu chuẩn. Các đặc trưng
Bài viết này về **âm vị học tiếng Mã Lai** (Ngôn ngữ Malaysia và Bruneian) dựa trên cách phát âm tiếng Mã Lai chuẩn (ngôn ngữ chính thức của Brunei, Singapore, Malaysia (dưới tên tiếng
Giới hàn lâm đã có nhiều nỗ lực trong việc phục nguyên hệ thống âm vị học của tiếng Hán thượng cổ thông qua bằng chứng văn liệu. Mặc dù hệ chữ tượng hình Hán
**Từ vựng tiếng Việt** là một trong ba thành phần cơ sở của tiếng Việt, bên cạnh ngữ âm và ngữ pháp. Từ vựng tiếng Việt là đối tượng nghiên cứu cơ bản của ngành
**Âm vị** là phân đoạn nhỏ nhất của âm thanh dùng để cấu tạo nên sự phân biệt giữa các cách phát âm. Do đó, âm vị là một nhóm các âm thanh với sự
**Chính tả tiếng Việt** là sự chuẩn hóa hình thức chữ viết của ngôn ngữ tiếng Việt. Đây là một hệ thống quy tắc về cách viết các âm vị, âm tiết, từ, cách dùng
nhỏ|_"Tôi nói tiếng Việt Nam"_ (碎呐㗂越南), bên trên viết bằng [[chữ Quốc ngữ (chữ Latinh), bên dưới viết bằng chữ Nôm.|250x250px]] **Chữ viết tiếng Việt** là những bộ chữ viết mà người Việt dùng để
nhỏ|phải|[[Thương xá Phước Lộc Thọ]] nhỏ|phải|Bia chào mừng đến [[Little Saigon ở Garden Grove, California bằng tiếng Anh và tiếng Việt]] Tiếng Việt có hơn 1,5 triệu người sử dụng tại Hoa Kỳ và là
Tiếng Việt tại Việt Nam hiện sử dụng chữ Quốc ngữ (chữ Latinh) là chủ yếu, áp dụng cách viết tắt không nhất định theo một thể duy nhất. Do các chữ Latinh không có
**Từ đồng âm trong tiếng Việt** là những từ phát âm giống nhau hay cấu tạo âm thanh giống nhau, nhưng nghĩa, từ loại hoàn toàn khác nhau (gọi ngắn gọn là _đồng âm khác
Căn cứ vào nguồn gốc của các từ, các nhà nghiên cứu chia từ vựng tiếng Việt thành hai lớp: từ thuần Việt và từ mượn hay còn gọi là từ ngoại lai. Nội dung
**_Khái luận Âm nhạc học_** là một cuốn sách đề cập và nghiên cứu về khoa học trong âm nhạc do tiến sĩ âm nhạc Nguyễn Thanh Hà biên soạn. Đây được cho là cuốn
**Ngữ pháp tiếng Việt** là những đặc điểm của tiếng Việt theo các cách tiếp cận ngữ pháp khác nhau: tiếp cận ngữ pháp cấu trúc hay tiếp cận ngữ pháp chức năng. Phần dưới
thumb|right|Các vùng của Việt Nam, không bao gồm [[Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của miền Trung Việt Nam.|411x411px]]thumb|Bản đồ [[Nam Tiến của người Việt để xâm chiếm nước Chăm-pa và Khmer (Campuchia)|343x343px]] **Miền
**Tiếng lóng** hay **từ lóng** trong tiếng Việt là các từ vựng hạn chế về mặt thành phần và tầng lớp sử dụng. Trong từng trường hợp khác nhau thì tiếng lóng được sử dụng
được đặt tên theo tên của James Curtis Hepburn, người đã dùng hệ này để phiên âm tiếng Nhật thành chữ cái Latinh ở phiên bản thứ 3 từ điển Nhật - Anh của ông,
**Văn học tiếng Latinh** hay **văn học Latin/Latinh** bao gồm các bài tiểu luận, lịch sử, thơ ca, kịch và các tác phẩm khác được viết bằng ngôn ngữ Latinh. Sự khởi đầu của văn
**_Từ điển tiếng Việt_** còn gọi là **_Từ điển Hoàng Phê_** là công trình từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, cơ quan nghiên cứu ngôn ngữ hàng đầu của Việt Nam, do
Chữ Quốc ngữ – tức bảng chữ cái tiếng Việt hiện đại – vốn được các giáo sĩ Dòng Jesus người Bồ Đào Nha và Ý sáng tạo nên, và được linh mục Alexandre de
**Wikipedia tiếng Việt** là phiên bản tiếng Việt của Wikipedia. Website lần đầu kích hoạt vào tháng 11 năm 2002 và chỉ có bài viết đầu tiên của dự án là bài Internet Society. Wikipedia
**Trong lịch sử Việt Nam tồn tại hai bộ số**: một sử dụng từ vựng thuần Việt; và một sử dụng từ vựng Hán-Việt. Trong ngôn ngữ hiện đại, từ thuần Việt được sử dụng
Việt Nam là một đất nước tiềm năng có rừng vàng biển bạc, nền băn hóa độc đáo, chính trị ổn định và có nền kinh tế đang phát triển không ngừng, Chính là điểm
**Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam** (tiếng Anh là: _Vietnam National Academy of Music – VNAM_) được thành lập từ năm 1956, với ba chức năng chính là Đào tạo, Nghiên cứu khoa
Trang đầu _[[Phép giảng tám ngày_ in năm 1651 của nhà truyền giáo Alexandre de Rhodes. Bên trái là tiếng Latinh, bên phải là tiếng Việt viết bằng chữ Quốc ngữ.]] **Chữ Quốc ngữ** là
**Âm Hán Việt** (音漢越) là thuật ngữ chỉ các âm đọc của chữ Hán được người nói tiếng Việt xem là âm đọc chuẩn dùng để đọc chữ Hán trong văn bản tiếng Hán vào
**Từ thuần Việt** là những từ do người Việt sáng tạo, và như thế, là những từ có nguồn gốc nội sinh. ## Nguồn gốc Về mặt nguồn gốc, cơ sở hình thành của lớp
thumb|Người nói tiếng Bắc Sami Biển báo biên giới 3 ngôn ngữ ([[tiếng Phần Lan, tiếng Thụy Điển và tiếng **Bắc Sami**) trên tuyến đường E8 tại biên giới giữa Na Uy và Phần Lan,
Kinh Thánh tiếng Việt xuất bản năm 1925 là bản dịch đầu tiên toàn bộ Kinh Thánh Tin Lành sang tiếng Việt, được phát hành tại Việt Nam. Bản **Kinh Thánh Việt ngữ 1925** được
**Tiếng Quảng Đông** (), còn gọi là **Việt ngữ** (), là một nhánh chính của tiếng Trung được nói tại miền Nam Trung Quốc, đặc biệt là ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hồng Kông và
**_Vua tiếng Việt_** là chương trình trò chơi truyền hình do Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất. Đây là chương trình nhằm tìm hiểu và khám phá sự phong phú, giàu có và thâm
**Tiếng Kinh Trung Quốc** (chữ Nôm: ) là phương ngữ tiếng Việt sử dụng bởi người Kinh ở Trung Quốc, chủ yếu sống tại Quảng Tây (đặc biệt là tại Đông Hưng, Phòng Thành Cảng
**Tiếng Abkhaz** (còn được viết là **Abxaz**; //), còn gọi là **tiếng Abkhazia**, là một ngôn ngữ Tây Bắc Kavkaz, có quan hệ gần nhất với tiếng Abaza. Đây là ngôn ngữ của người Abkhaz,
Tiếng Việt được viết bằng bảng chữ cái Latinh kèm dấu phụ để thể hiện thanh điệu, đòi hỏi mấy sự thích ứng khác nhau khi gõ trên điện thoại hoặc máy tính. Hình thức
**Tiếng Elam** là một ngôn ngữ đã biến mất, bản ngữ của người Elam. Nó hiện diện ở nơi ngày nay là miền tây nam Iran, trong quãng thời gian từ năm 2600-330 TCN. Những
nhỏ|phải|Trang bìa Từ điển Việt–Bồ–La _Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum_ ấn bản 1651. Lưu ý chữ Annamiticum viết sai vì có 3 chữ "n" **_Từ điển Việt–Bồ–La_** (tiếng Latinh: _Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum_) là
**Tiếng Hà Nhì** (_Haqniqdoq_ hay __; ) là một ngôn ngữ Tạng-Miến thuộc nhóm ngôn ngữ Lô Lô, được người Hà Nhì ở Trung Quốc, Lào và Việt Nam sử dụng . ## Phân bố
**Mùa thứ ba** của chương trình **_Vua tiếng Việt_** do Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất, được phát sóng vào lúc 20:30 thứ sáu hàng tuần trên kênh VTV3 từ ngày 1 tháng 3
thumb|Phát âm tiếng Anh Mỹ của cụm từ _no highway cowboys_, với năm nguyên âm đôi: Một **nguyên âm đôi** là sự kết hợp của hai nguyên âm kế nhau trong cùng một âm tiết.
Bảng Âm Vần Bảng Chữ Cái Khổ A0 In Bạt Giáo Cụ Dạy Học Tiểu Học Cho Bé Bảng âm vần là nền tảng quan trọng trong quá trình học tiếng Việt của trẻ, giúp
**Tiếng Hebrew hiện đại** hay **tiếng Hebrew Israel** ( _ʿivrít_ _ḥadašá [h],_ - "tiếng Hebrew hiện đại" hoặc "tiếng Hebrew mới"), thường được người nói gọi đơn giản là **tiếng Hebrew** ( _Ivrit_), dạng chuẩn
**Chương trình học bậc tiểu học và trung học thời Việt Nam Cộng hòa** là tổ chức giáo dục hai cấp dưới của nền giáo dục tại Miền Nam Việt Nam dưới vĩ tuyến 17,
Dấu trường âm , hay , , hay cụ thể hơn gọi là dấu trường âm Katakana-Hiragana, là dấu thể hiện âm đọc kéo dài (trường âm) trong tiếng Nhật. ## Hình thức Đối với
**Hình vị** (tiếng Anh: _morpheme_), còn gọi là **ngữ tố**, **từ tố**, là đơn vị ngữ pháp nhỏ nhất có nghĩa của một ngôn ngữ. Lĩnh vực nghiên cứu hình vị là _hình thái học_
**Tiếng Romani Sinti** (còn gọi là **Sintengheri Tschib (en),** **Sintitikes,** **Manus** hoặc **Romanes**) là phương ngữ của tiếng Romani nói bởi người Sinti ở Đức, Pháp, Áo, Bỉ, Hà Lan, một số khu vực ở
**Văn học đời Trần** là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225-1400). ## Tổng quan văn học thời Trần Nước Việt dưới đời Trần xuất hiện nhiều
**Âm tiết**, còn gọi là **chữ**, **tiếng**, là một đơn vị cấu tạo nên một sự phối hợp trong tiếng nói. Ví dụ, từ _Latinh_ được kết hợp từ hai âm tiết: _la_ và _tinh_.
nhỏ|Các phương ngữ tiếng Thụy Điển Phần Lan. **Tiếng Thụy Điển Phần Lan** (, ) là một thuật ngữ chung gọi tiếng Thụy Điển chuẩn và nhóm phương ngữ Thụy Điển có mối quan hệ
**Tiếng Luba-Kasai**, còn gọi là **tiếng Luba Tây**, (nội danh: _Ciluba/Tshiluba_,) là một ngôn ngữ Bantu (khu L) miền Trung Phi, và là một ngôn ngữ quốc gia của Cộng hoà Dân chủ Congo, cùng
**Tiếng Tà Mun** là ngôn ngữ của người Tà Mun, một dân tộc thiểu số chưa được công nhận tại Việt Nam. Ngôn ngữ này được xác định thuộc ngữ hệ Nam Á, nhánh Bahnar.