✨Hệ phiên âm Latinh Hepburn cho tiếng Nhật

Hệ phiên âm Latinh Hepburn cho tiếng Nhật

được đặt tên theo tên của James Curtis Hepburn, người đã dùng hệ này để phiên âm tiếng Nhật thành chữ cái Latinh ở phiên bản thứ 3 từ điển Nhật - Anh của ông, xuất bản năm 1886. Lúc đầu, hệ này được La Mã Tự Hội (羅馬字会 Rōmajikai) đề xuất sử dụng vào năm 1885. Sau đó, hệ Hepburn được tu chỉnh và gọi là Shūsei Hebon-shiki Rōmaji (). Phiên bản tu chỉnh này còn được xem là Hyōjun-shiki Rōmaji () (kiểu chuẩn).

Hệ Hepburn nguyên thủy và tu chỉnh vẫn là các phương pháp ghi âm tiếng Nhật được sử dụng rộng rãi nhất. Vì hệ Hepburn dựa trên âm vị tiếng Anh nên người nói tiếng Anh chưa biết tiếng Nhật vẫn có thể phát âm chính xác từ được phiên âm bằng hệ Hepburn hơn so với từ được phiên âm bằng hệ Kunrei-shiki.

Tình trạng pháp lý

Vì Hepburn dựa trên âm vị tiếng Anh mà không phải tiếng Nhật nên nó gặp một số phản đối tại Nhật Bản. Cụ thể, vào ngày 21 tháng 9 năm 1937 pháp lệnh của nội các Nhật Bản công bố một hệ thống thay thế mà nay là Kunrei-shiki để làm hệ Latinh hoá chính thức của Nhật Bản cho mọi mục đích. Tuy nhiên, pháp lệnh này bị bãi bỏ trong giai đoạn chiếm đóng Nhật Bản của Bộ chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh. Sau đó, pháp lệnh này (có sửa đổi đôi chút) được tái công bố năm 1954.

Năm 1972, bản Hepburn tu chỉnh được mã hoá thành tiêu chuẩn ANSI Z39.11-1972. Năm 1989 nó được đề xuất làm dự thảo cho ISO 3602, nhưng bị loại thay vì hệ Kunrei-shiki. Do đó, tiêu chuẩn Z39.11-1972 chấm dứt vào ngày 6 tháng 10 năm 1994.

Mặc dù Hepburn không là tiêu chuẩn của chính phủ nhưng một số cơ quan chính phủ bắt buộc sử dụng nó. Bộ ngoại giao yêu cầu sử dụng Hepburn trong hộ chiếu, Bộ đất đai, cơ sở hạ tầng và giao thông vận tải yêu cầu sử dụng Hepburn trên bảng hiệu giao thông, gồm có bảng giao thông đường bộ và đường sắt.

Trong các lĩnh vực khác, mặc dù hệ Hepburn thiếu tình trạng pháp lý, nhưng nó vẫn là tiêu chuẩn trên thực tế. Bảng hiệu và biển thông báo của văn phòng thành phố, đồn cảnh sát, đình, chùa và thắng cảnh vẫn sử dụng hệ này. Báo chí và phương tiện truyền thông đại chúng Anh ngữ dùng dạng Hepburn đơn giản hoá. Các tỉnh và thành phố dùng Hepburn trong thông tin dành cho cư dân và du khách nói tiếng Anh. Ấn bản phẩm Anh ngữ của Bộ ngoại giao Nhật Bản cũng sử dụng Hepburn đơn giản. Hepburn cũng được dùng trong giảng dạy tiếng Nhật cho người nước ngoài.

Các thể Latinh hoá Hepburn

Có 3 thể Latinh hoá Hepburn chuẩn.

  • Thể đầu tiên là Hepburn truyền thống, trong đó ghi âm nguyên âm dài n âm tiết theo các cách khác nhau. Thể này tương ứng với bản thứ 3 (1886) của từ điển Hepburn.
  • Thể thứ hai là Hepburn tu chỉnh, bản tu chỉnh của Hepburn truyền thống, trong đó không sử dụng cách ghi âm m thay cho n trước một số phụ âm.
  • Thể thứ ba là Hepburn cải biên, trong đó dựa theo Hepburn tu chỉnh để thay đổi thêm Hepburn truyền thống. Thể này thống nhất trong xử lý nguyên âm dài (luôn luôn gấp đôi nguyên âm) và n âm tiết (luôn là n có dấu ngang). Thể này đã được một số từ điển lớn áp dụng (như Pocket Kenkyusha Japanese Dictionary do Oxford University Press xuất bản), nhưng vẫn chủ yếu dành cho các nhà ngôn ngữ học.

Ngay tại Nhật Bản, có 3 thể chính thức bắt buộc sử dụng:

  • Tiêu chuẩn đường sắt (), trong đó áp dụng m thay cho n âm tiết trước b, m, p. Hãng JR và các hãng đường sắt lớn khác dùng cách này để viết tên trạm xe lửa.
  • Tiêu chuẩn Bộ ngoại giao (), cho phép dùng trong tên riêng, nhất là trong hộ chiếu. Cụ thể, cho phép dùng m thay cho n âm tiết trước b, m, p, và Latinh hoá o dài ở bất cứ dạng nào trong các dạng oh, oo hay ou (như bất cứ dạng nào trong các dạng Satoh, Satoo hay Satou đối với 佐藤).
  • Tiêu chuẩn Bộ đất đai, cơ sở hạ tầng và giao thông vận tải, trong đó không dùng m thay cho n âm tiết. Cách này dùng cho bảng đường bộ.

Các thể không còn sử dụng

Cách Latinh hoá trong các bản đầu và thứ hai của từ điển Hepburn chủ yếu chỉ còn mang tính lịch sử. Một số khác biệt giữa hai bản này với bản thứ 3 và các bản sau đó:

Bản thứ hai

  • エ và ヱ được viết là ye (như: Yedo)
  • ズ và ヅ được viết là dzu (như: kudzu, tsudzuku)
  • キャ, キョ, và キュ được viết là kiya, kiyokiu
  • クワ và クワイ được viết là kwa, kwai (như: Kwannon)

Bản thứ nhất

Ngoài các khác biệt ở bản thứ hai, bản thứ nhất có một số khác biệt:

  • ス được viết là sz
  • ツ được viết là tsz
  • ズ và ヅ được viết là dz
  • クワ và クワイ được viết là kuwa, kuwai

Đặc điểm hệ phiên âm Latinh Hepburn

Đặc điểm chính của Hepburn là chính tả của nó dựa trên âm vị học tiếng Anh. Do đó, chính tả sẽ được viết sao cho người nói tiếng Anh có thể phát âm được gần đúng nhất, như し được viết là shi thay vì * si.

Trợ từ

Khi he へ được dùng làm trợ từ, nó được viết là e. Khi ha は được dùng làm trợ từ, nó được viết là wa. *Khi wo を được dùng làm trợ từ, nó được viết là o (thực tế thì を cũng chỉ có tác dụng duy nhất là trợ từ trong câu, nó không xuất hiện trong mọi từ vựng tiếng Nhật).

Nguyên âm dài

Trong Hepburn truyền thốngtu chỉnh: Đây cũng là thông lệ được dùng trong Hepburn trên thực tế trong các bảng hiệu và thông tin bằng tiếng Anh ở Nhật.

  • Tôkyô – được biểu thị với dấu mũ. Dấu mũ được dùng để biểu thị nguyên âm dài trong các hệ Latinh hoá Nihon-shiki và Kunrei-shiki. Dấu mũ thường được dùng khi phần mềm xử lý văn bản không cho phép dùng dấu ngang. Cùng với sự phổ biến của Unicode, cách dùng này trở nên ít gặp hơn.
  • Tohkyoh – được biểu thị với chữ h (chỉ dùng sau o). Đôi khi cách này còn được gọi là "Hepburn hộ chiếu", vì được Bộ ngoại giao Nhật Bản cho phép (nhưng không yêu cầu) cách dùng này trong hộ chiếu.
  • Toukyou – được viết theo chính tả kana: ōou hay oo (tuỳ theo kana) và ūuu. Đôi khi cách này còn được gọi là kiểu wāpuro, vì đây là cách văn bản được nhập vào phần mềm xử lý văn bản tiếng Nhật (_wādo purosessā_ – word processor) với bàn phím ký tự Latinh. Phương pháp này biểu thị chính xác nhất cách nguyên âm được viết trong kana, phân biệt giữa おう (như trong とうきょう (), được viết là Toukyou trong hệ này) và おお (như trong とおい (), được viết là tooi trong hệ này). * Tuy nhiên cách dùng này có thể khiến việc phát âm ou trở nên mơ hồ; nó có thể là o dài hay hai nguyên âm riêng biệt, ou. Tookyoo – được viết bằng cách gấp đôi nguyên âm dài. Cách này theo quy tắc của hệ Hepburn cải biên, nhưng cũng thường gặp khi viết các từ có nguồn gốc nước ngoài mà không đối chiếu đến một hệ cụ thể nào, như paatii đối với パーティー ("party") thay vì pātī. Đây cũng là cách dùng trong hình thức Latinh hoá JSL.

Bảng phiên âm

Đối với katakana mở rộng

Katakana mở rộng chủ yếu dùng để biểu thị âm trong các từ của ngôn ngữ khác.

Các chữ màu cam thường được dùng cho các từ vay mượn hoặc nơi và tên nước ngoài. Các chữ màu xanh dương được dùng để phiên âm chính xác hơn các âm nước ngoài.

  • † — Các ký tự màu đỏ không còn sử dụng trong tiếng Nhật hiện đại.
  • ‡ — Ký tự を/ヲ _wo_ nên được viết là _o_ như được phát âm khi nó dùng làm trợ từ trong tiếng Nhật hiện đại.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
được đặt tên theo tên của James Curtis Hepburn, người đã dùng hệ này để phiên âm tiếng Nhật thành chữ cái Latinh ở phiên bản thứ 3 từ điển Nhật - Anh của ông,
là hệ thống ký âm bằng chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Nhật. Rōmaji được dùng giúp người nước ngoài khi bắt đầu học tiếng Nhật, khi cần biết tên người và vật ở
là tiền tệ chính thức của Nhật Bản. Đây là loại tiền được giao dịch nhiều thứ ba trên thị trường ngoại hối sau đồng đô la Mỹ và đồng euro. Nó cũng được sử
**Hiragana** (Kanji: 平仮名, âm Hán Việt: Bình giả danh; _ひらがな_), còn gọi là **chữ mềm**, là một dạng văn tự biểu âm truyền thống của tiếng Nhật, một thành phần của hệ thống chữ viết
thumb|upright=0.7|Ngôn ngữ có thể được Latinh hóa bằng nhiều cách, như được cho thấy ở đây với [[Hán ngữ tiêu chuẩn|tiếng Trung Quốc tiêu chuẩn cho từ "quốc ngữ".]] **Latinh hóa**, còn gọi là **La
**Latin hóa BGN/PCGN** là tên cho bản tiêu chuẩn chuyển ngữ sang chữ Latin các địa danh của ngôn ngữ phi Latin, được hai tổ chức là _Ban Địa danh Hoa Kỳ_ (BGN, United States
**Singapore** (, , ), quốc hiệu là **Cộng hòa Singapore**, là một đảo quốc và thành quốc có chủ quyền ở Đông Nam Á, nằm ngoài khơi về mũi phía nam của bán đảo Mã
**Marion Robert Morrison** (26 tháng 5 năm 1907 – 11 tháng 6 năm 1979), thường được biết đến với nghệ danh **John Wayne** và biệt danh **Duke**, là một nam diễn viên và nhà làm
**_One-Punch Man_** (tiếng Nhật: ワン パン マン Hepburn: _Wanpanman_) hay có thể đọc tắt là (opm) là loạt tác phẩm siêu anh hùng của Nhật Bản xuất phát điểm là web manga do ONE tạo
**Conan – Cậu bé tương lai** (Tiếng Nhật: 未来少年コナン phiên âm Hepburn: Mirai Shōnen Konan) là bộ anime chủ đề khoa học viễn tưởng được xưởng phim Nippon Animation sản xuất và đạo diễn bởi
**Henry Stewart** (hay **Henry Stuart**), tước hiệu **Công tước xứ Albany** (7 tháng 12 năm 1545 - 10 tháng 2 năm 1567), thường được gọi là **Huân tước Darnley** trước 1565, là phu quân của
**Mary của I Scotland** (tiếng Anh: _Mary, Queen of the Scots_; tiếng Pháp: _Marie Ire d’Écosse_; 8 tháng 12, 1542 – 8 tháng 2, 1587), thường được gọi là **Nữ vương Mary**, **Nữ hoàng Mary**,