✨Tiếng lóng trong tiếng Việt

Tiếng lóng trong tiếng Việt

Tiếng lóng hay từ lóng trong tiếng Việt là các từ vựng hạn chế về mặt thành phần và tầng lớp sử dụng. Trong từng trường hợp khác nhau thì tiếng lóng được sử dụng song song với ngôn ngữ toàn dân nhưng hạn chế về số lượng sử dụng đồng thời, tiếng lóng có khả năng thay đổi về theo thời gian. Đây là những từ mà các tầng lớp người sáng tạo ra nó muốn thông qua nó để bọc lộ cái riêng của tập thể mình, không muốn cho người ngoài biết. Đa số các từ lóng có nguồn gốc và được sử dụng tại một số địa phương nhất định, ở miền Bắc, Trung, Nam.

Từ lóng trong tiếng Việt là tập hợp các từ hiếm gặp trong từ điển tiếng Việt, thuộc loại biệt ngữ xã hội. Một trong các tầng lớp xã hội thường xuyên sử dụng là những người trẻ. Các từ này được dùng rộng rãi ở những nơi như: blog, diễn đàn trực tuyến, chat... và đôi khi là không thể thiếu. Một số không ít từ đã là "ngôn ngữ chính" của các cư dân mạng. Đặc biệt từ lóng còn được giới trẻ hiện nay như Gen Z sử dụng rất nhiều.

Nguồn gốc từ thuần Việt

Từ thuần Việt là bộ phận từ vựng cơ bản trong vốn từ tiếng Việt, chỉ tên các sự vật và các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Về mặt nguồn gốc, cơ sở hình thành của lớp từ thuần Việt là các từ gốc Nam Á và Tày Thái. Những kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy rằng rất nhiều bộ phận, nhiều nhóm của lớp từ thuần Việt có những tương ứng, những quan hệ hết sức phức tạp với nhiều ngôn ngữ hoặc nhóm ngôn ngữ trong vùng. Từ thuần Việt là lớp từ có lâu đời, người bản ngữ có thể hiểu được ý nghĩa của chúng mà không gặp bất kì cản trở nào. Trong khi đó, từ ngữ lóng được xem như một biệt ngữ xã hội. Tức là không phải nhóm xã hội nào cũng dùng tiếng lóng. Như vậy, để tạo ra nét khu biệt, tiếng lóng phải mang nét nghĩa khác so với tiếng toàn dân. Ví dụ: :Cách đây không lâu, Call Me Maybe của Carly Rae Jepsen ("gà" cùng công ty với Justin Bieber) nếu không được anh chàng, Selena Gomez và Ashley Tisdale thực hiện bản cover nhắng nhít vui nhộn thì có lẽ tới bây giờ nó vẫn còn là một bài hát vô danh ở Canada. (Gà: Cá nhân hoặc tập thể được đào tạo một cách chuyên nghiệp với mục đích thi đấu với các cá nhân, tập thể khác.)

Qua khảo sát, người ta nhận thấy từ thuần Việt là lớp từ – ngữ lóng được sử dụng nhiều nhất trên các phương tiện truyền thông. Đặc biệt là báo chí. Đây là lớp từ được xem như đơn giản và dễ hiểu. Khi trở thành tiếng lóng, lẽ tất yếu nó sẽ được gán cho một nghĩa khác với nghĩa gốc của từ. Đôi khi, ta dễ dàng nhận ra sự tương đồng về mặt hình ảnh (gà: một loại gia cầm quen thuộc, thường nuôi theo kiểu hộ gia đình, đôi khi được lựa chọn và chăm sóc một cách đặc biệt để mang đi "đá"), hay đó chỉ là sự tương đồng về mặt âm thanh (bánh bơ, mũ phớt – bơ phớt).

Nguồn gốc vay mượn

Tiếng lóng trên các phương tiện truyền thông, ngoài lớp từ thuần Việt còn có lớp từ vay mượn (từ ngoại lai). Trong từ vựng tiếng Việt, chủ yếu có hai lớp từ vay mượn: từ vay mượn gốc Hán và lớp từ vay mượn gốc Ấn – Âu (Pháp, Nga, Anh…). Với lớp từ vay mượn gốc Hán, việc phân loại, xác định một cách rõ ràng và chính xác tuyệt đối là một điều vô cùng khó khăn. Bởi lớp từ đó chủ yếu là những từ gốc Hán đã tồn tại trong từ vựng tiếng Việt từ hơn mười thế kỷ trước. Chúng được Việt hóa rất mạnh, trở nên quá quen thuộc, gần gũi với người Việt: "chè, buồn, mùa, chìm…" (những từ Hán cổ); trường hợp những từ Hán – Việt, có thể dễ dàng hơn trong việc phân định chúng với những từ thuần Việt: "nam, nữ, trọng, khinh, cận, viễn…". Đối với những từ vay mượn gốc Ấn- Âu, do thời gian hòa nhập vào từ vựng tiếng Việt muộn hơn nên chúng chưa được Việt hóa hoàn toàn, dễ nhận thấy nhiều yếu tố ngoại lai vẫn tồn tại trong bản thân những từ ngữ ấy.

Nguyên nhân chính của sự hình thay nguồn gốc vay mượn từ lóng này đó chính là hiện tượng toàn cầu hóa đang là vấn đề thời sự không chỉ riêng của quốc gia nào. Toàn cầu hóa tác động đến mọi mặt của đời sống. Ngôn ngữ không nằm ngoài phạm vi ấy. Thậm chí, sự tác động của toàn cầu hóa còn mạnh mẽ, trực tiếp hơn nhiều lĩnh vực khác. Các cộng đồng khác nhau cần có chung một mã ngôn ngữ để giao tiếp. Chính quá trình sử dụng này đã tác động ngược trở lại ngôn ngữ của các cộng đồng. Hiện tượng vay mượn vì thế hình thành. Mặt khác, sự ra đời của hàng loạt khái niệm mới cũng cần được định danh. Cách nhanh chóng và hiệu quả nhất là vay mượn từ của những ngôn ngữ có sẵn.

Số lượng có thể nhiều ít khác nhau, nhưng hiện nay trên thế giới, không một ngôn ngữ nào không có những yếu tố vay mượn. Đó có thể là vay mượn các kết cấu cú pháp, các ngữ cố định, các yếu tố ngữ âm, nhưng chủ yếu là các đơn vị từ vựng. Cùng với các phương thức nội tại như tạo nghĩa mới cho từ, cấu tạo từ mới từ các yếu tố thuần Việt, việc vay mượn đã góp phần làm gia tăng nhanh chóng vốn từ vựng của tiếng Việt.

Lớp từ ngữ lóng có nguồn gốc Hán

Quá trình tiếp xúc lâu dài với tiếng Hán đã để lại trong tiếng Việt một số lượng lớn từ vay mượn gốc Hán. Các từ gốc Hán khi đi vào tiếng Việt đã được Việt hóa về âm đọc cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt. Đó gọi là cách đọc Hán – Việt. Cách đọc này đã được hoàn thiện từ khoảng thế kỉ X – XI và được sử dụng ổn định cho đến nay. Cách đọc này được áp dụng đối với những từ ngữ lóng có từ một hình vị gốc Hán trở lên: "kì thị", "vệ tinh", "bí kíp võ lâm", "phi công", "biến hình", "lâm sự", "cấm vận"... Ví dụ: :Bên cạnh đó, các teen cũng hồn nhiên chia sẻ vô số những "bí kíp võ lâm", từ đấm đến xoa, từ gia truyền đến hiện đại mà các chuyên gia cũng mắt chữ O, mồm chữ Y, thán phục sự "sáng tạo" của các bạn (Bí kíp võ lâm: Kinh nghiệm, mẹo vặt.) :Ám ảnh về thẩm mỹ của những khu vực "cấm địa" không chỉ là nỗi lo riêng của cánh con trai (Khu vực cấm địa: Bộ phận sinh dục.) :Tuy nhiên, đáng ngạc nhiên hơn trong chính nghiên cứu này cũng đã cho thấy, phần lớn các bạn trẻ ngày nay thích làm "chiến binh bàn phím" chỉ vì muốn thỏa mãn nỗi khát khao được khác biệt, được nhìn thấy của bản thân (Chiến binh bàn phím: Người chỉ biết thể hiện bản thân trên các trang mạng bằng những câu chữ gõ bằng bàn phím máy tính, đối lập hoàn toàn với đời sống thực.)

Theo những thống kê ban đầu của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, lớp từ – ngữ lóng là từ Hán – Việt chiếm tỉ lệ rất ít (4,6% các cứ liệu khảo sát trên báo chí). Nguyên nhân chủ yếu là do sắc thái trang trọng, nghiêm túc của lớp từ này. Lớp từ Hán – Việt xuất hiện nhiều trong các lớp từ vựng mang màu sắc văn hóa gọt giũa hơn là tiếng lóng – vốn được xem như thuộc về phong cách khẩu ngữ. Các từ ngữ lóng gốc Việt và gốc Hán thường được cấu tạo theo cách chuyển nghĩa, tạo nghĩa mới khác với nghĩa gốc của từ. Hiếm thấy trường hợp nào giữ nguyên nghĩa ban đầu.

Lớp từ ngữ lóng gốc Ấn - Âu

Lớp từ này chủ yếu có nguồn gốc từ tiếng Pháp và tiếng Anh (xuất hiện khá nhiều ở dạng phiên âm hoặc nguyên ngữ), chiếm tỉ lệ khoảng 12%. Dựa trên những cứ liệu đã khảo sát được, đối tượng sử dụng tiếng lóng chủ yếu là giới trẻ. Họ có xu hướng sử dụng từ vay mượn Anh ở dạng nguyên ngữ. Hiện nay, khi nói đến hiện trạng lạm dụng từ ngữ nước ngoài là nói đến việc lạm dụng lớp từ vay mượn có nguồn gốc Ấn – Âu là chủ yếu (đặc biệt là tiếng Anh). Sở dĩ tiếng Anh trên các văn bản báo chí trở thành lớp từ vay mượn chiếm tỉ lệ lớn là vì hiện nay tiếng Anh được sử dụng phổ biến như một ngôn ngữ quốc tế trên toàn thế giới, việc dạy học và sử dụng tiếng Anh cũng đang rất phổ biến ở Việt Nam. Ví dụ: :Đến giờ mình vẫn chưa hoàn hồn mỗi khi nhắc đến Ex. ("Ex" là một từ xuất hiện khá nhiều trên các phương tiện báo chí. Nó được rút gọn từ "ex-boyfriend" hoặc "ex-girlfriend", dùng để chỉ người yêu cũ.) Ví dụ trên sử dụng tiếng lóng dưới dạng nguyên ngữ. Thực chất đa phần những từ lóng dưới dạng nguyên ngữ là để tạo ra nét sắc thái riêng biệt cho đối tượng sử dụng nó. Ngoài cách dùng từ nguyên ngữ thì người ta còn phiên âm những từ thông dụng. Từ vựng nói chung, khi đưa vào ngữ cảnh mới có thể nhận biết được các nét nghĩa, vừa tạo màu sắc riêng cho người sử dụng, vừa mang nét nghĩa mới lạ.. Ví dụ: :Tất bật ôn tập cho kì thi học kì căng thẳng sắp tới và "chạy sô" cho những buổi chụp hình, vậy mà hot girl Quỳnh Anh Shyn (QAS) nhà ta vẫn hoàn toàn tự tin để nói không với mụn khi sở hữu làn da mịn đáng mong ước ("Sô" hay show: buổi trình diễn, trình chiếu cũng vậy, nếu xét riêng lẻ, đơn thuần là từ vay mượn chứ không phải từ lóng. Tuy nhiên, trong tình huống này "chạy sô" tức làm nhiều việc cùng lúc)

Ngoài ra, tiếng lóng còn có thêm một hình thức sử dụng là viết tắt: :Trên FB, tôi biết chị từ bao năm nay đã đứng ra thành lập ngôi nhà tình thương cho các em chó mèo bị bỏ rơi, không những thế, với từng trường hợp, chị còn làm người "môi giới" cho các em về với người sẵn sàng nuôi nấng và chăm sóc . (FB: Viết tắt của Facebook – trang mạng xã hội có lượng người dùng đông nhất hiện nay.) :Có nhiều bạn còn hay thường pm facebook hay mail để nhờ tôi tư vấn cách làm bánh. (PM: Tin nhắn riêng, liên hệ riêng, thường dùng trên các trang mạng xã hội và được viết tắt từ tiếng Anh: Private message.) Thực tế cho thấy, không chỉ người Việt, mà người bản ngữ cũng dùng những cụm từ viết tắt kiểu này. Như vậy, người ta hoàn toàn có thể xếp nó vào hình thức vay mượn nguyên gốc tiếng nước ngoài. Tương đương với FB hay PM còn có BFF (Best friends forever), DIY (Do it yourself), LOL (Laugh out loud), ILU (I love you), KMS (Kill Me Slowly), B4 (Before), OMG (Oh my god)… Tuy nhiên, những cụm này chỉ xuất hiện trên báo 2! và Hoa học trò, còn trên những trang báo như Tuổi trẻ, Tuổi trẻ cười thì hiếm khi được sử dụng.

Cần chú ý rằng các từ ngữ thuộc lớp từ lóng có tính chất lâm thời, chúng là một hiện tượng ký sinh vào vốn từ tiếng Việt. Xuất hiện và mất đi, thay đổi thường xuyên, không ngừng. Bằng chứng là rất nhiều tiếng bồi trước đây rất hay được sử dụng thì nay đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, ít xuất hiện trên các phương tiện truyền thông. Có thể kể đến các trường hợp sử dụng từ ngữ lóng theo kiểu tiếng bồi như: No four go (vô tư đi), know die now (biết chết liền), ugly tiger (xấu hổ), like is afternoon (thích thì chiều), sugar sugar a hero man (đường đường một đấng anh hùng)...

Hiện tượng sử dụng lớp từ vay mượn của tiếng lóng trên các phương tiện truyền thông có thể được lý giải qua yếu tố tâm lý lứa tuổi. Đối tượng sử dụng tiếng lóng trên các phương tiện truyền thông chủ yếu là người trẻ. Khi sử dụng lớp từ vay mượn gốc Hán, những người trẻ thường hướng tới những trao đổi nghiêm túc, những cảm xúc chín chắn, trang trọng. Lớp từ tiếng lóng gốc Hán ít được sử dụng là vì nó không gợi lên cảm giác trẻ trung, phá cách, những người trẻ tuổi nếu sử dụng lớp từ này nhiều sẽ bị những người cùng tuổi đánh giá là "ông cụ non", "sến" theo cách nói hiện nay của giới trẻ. Ngược lại, với những từ vay mượn gốc Ấn – Âu (chủ yếu là tiếng Anh), khi sử dụng giới trẻ sẽ chứng tỏ được sự sành điệu, hiện đại và trình độ tiếng Anh của mình.Từ bệnh sính ngoại ngữ này sẽ dẫn đến hiện tượng nửa Tây nửa ta trong giao tiếp, trở thành một thói quen khó chữa.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Tượng con Tê giác trước [[Bảo tàng d'Orsay của Henri Alfred Jacquemart, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm tê giác của Johann Dietrich Findorff **Hình tượng
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
phải|nhỏ|300x300px|Hổ là con vật được nhắc đến rất nhiều trong tín ngưỡng dân gian **Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của
nhỏ|[[Chùa Dâu, Bắc Ninh]] nhỏ|[[Chùa Dơi, Sóc Trăng]] nhỏ|[[Chùa Cầu, Hội An]] nhỏ|[[Chùa Phước Điền, An Giang]] **Chùa Việt Nam** (gọi thông tục là _Chùa chiền_) là các ngôi chùa trên lãnh thổ Việt Nam.
**Âm Hán Việt** (音漢越) là thuật ngữ chỉ các âm đọc của chữ Hán được người nói tiếng Việt xem là âm đọc chuẩn dùng để đọc chữ Hán trong văn bản tiếng Hán vào
**Người Khmer tại Việt Nam** là bộ phận dân tộc Khmer ở Việt Nam, người Khmer là dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Người Khmer được công nhận
Hiện nay Việt Nam có 54 dân tộc và 1 nhóm "người nước ngoài". Bản Danh mục các dân tộc Việt Nam này được Tổng cục Thống kê Việt Nam của chính phủ Việt Nam
**Nam Việt** (tiếng Quan Thoại: 南越 / _Nányuè_, tiếng Quảng Đông: 南粤 / _Naam4 jyut6_) là một quốc gia được lãnh đạo bởi **nhà Triệu** tồn tại trong giai đoạn 203 TCN – 111 TCN
**Bảng chữ cái tiếng Slovak** [[Ký tự Glagolica là những chữ cái đầu tiên của người Slav được Konstantin Filozof người Solun tạo nên vào khoảng năm 862 để diễn đạt ngôn ngữ Slovientrina cổ
**Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, thường được gọi ngắn gọn hơn là **Bộ Quốc phòng Việt Nam** hay đơn giản là **Bộ Quốc phòng** (**BQP**), là cơ quan
**Phiên thiết Hán-Việt** là dùng cách **phiên thiết** (反切), tức là dùng âm của hai chữ khác (được coi là đã biết cách đọc) ghép lại để chú âm cho cách đọc âm Hán của
**Vai trò của Kitô giáo với nền văn minh nhân loại** rất lớn và phức tạp. Nó đan xen với lịch sử và sự hình thành của xã hội phương Tây, và nó đã đóng
Một số đặc trưng của văn hóa Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ , Hắc cô như đàn bầu, tam thập
**Hình tượng con sói** là một motif phổ biến trong thần thoại của các dân tộc trên toàn lục địa Á-Âu và Bắc Mỹ tương ứng với mức độ lịch sử phân bố của môi
**Lịch sử Bộ Quốc phòng Việt Nam** tính từ ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
**Long Cheng** hay **Long Tieng**, trong tiếng Việt gọi là **Long Chẹng**, là một căn cứ quân sự của Lào nằm ở Xiêng Khoảng. Trong cuộc nội chiến Lào, đó là một thị trấn và
**Chi Long đởm** (danh pháp khoa học: **_Gentiana_**) là một chi thực vật có hoa thuộc họ Long đởm (Gentianaceae) với khoảng 335-400 loài. Chúng được chú ý vì các hoa to, dạng kèn trumpet,
**Con rắn** là một trong những biểu tượng thần thoại lâu đời nhất và phổ biến nhất của thế giới loài người. Loài rắn này đã được kết hợp với một số các nghi lễ
Các địa danh hành chính tại Việt Nam hiện có tên là những từ (như Hà Nội) hoặc liên danh (như Bà Rịa - Vũng Tàu) có một đến bốn âm tiết, trong đó hầu
**Giải bóng đá Cúp Quốc gia Việt Nam** (), thường được biết đến với tên ngắn gọn là **Cúp Quốc gia** (trước đây cũng được gọi là _Cúp bóng đá Quốc gia_ trong tiếng Việt),
nhỏ|325x325px|Từ trái sang:
_hàng trước_: [[Doraemon (nhân vật)|Doraemon, Dorami
_hàng giữa_: Dekisugi, Shizuka, Nobita, Jaian, Suneo, Jaiko
_hàng sau_: mẹ Nobita, ba Nobita]] **_Doraemon_** nguyên gốc là một series manga khoa học
**Nguyễn Phan Long** (1888 – 1960) là một nhà báo, nhà hoạt động chính trị Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Ông từng được Quốc trưởng Bảo Đại chỉ định làm Thủ tướng đầu
Một số nhân vật chính và phụ của trong truyện Đây là danh sách các nhận vật trong bộ truyện tranh _Thám tử lừng danh Conan_ được tạo ra bởi tác giả Aoyama Gosho. Các
**Tiếng lóng** hay **từ lóng** trong tiếng Việt là các từ vựng hạn chế về mặt thành phần và tầng lớp sử dụng. Trong từng trường hợp khác nhau thì tiếng lóng được sử dụng
nhỏ|Giống [[gà tây nhà thường được nuôi ở huyện An Phú tỉnh An Giang]] **Giống vật nuôi ngoại nhập** hay **giống vật nuôi nhập nội** hay **giống vật nuôi nhập khẩu** hay còn gọi là
**Người Hoa** () là một dân tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và được công nhận là một trong 54 dân tộc của Việt Nam. Các tên gọi khác của họ là **người Minh**,
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
**Lý Chấn Phiên**, thường được biết đến với nghệ danh **Lý Tiểu Long** (tiếng Trung: 李小龍, tiếng Anh: _Bruce Lee,_ 27 tháng 11 năm 1940 – 20 tháng 7 năm 1973), là một cố võ
**Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau thế giới, hình ảnh con
**Tiếng lóng Internet** (cũng gọi **từ lóng trên mạng**, **chatspeak**) (tiếng Anh: **Internet slang**) là một dạng ngôn ngữ không chuẩn, phi chính thức được mọi người trên Internet sử dụng để giao tiếp với
Thương hiệu truyền thông âm nhạc Nhật Bản _BanG Dream!_ có số lượng lớn nhân vật, với dàn nhân vật chính được chia thành chín ban nhạc toàn nữ gồm có năm thành viên. Ban
**Đồng bằng sông Cửu Long** đã có lịch sử khai phá từ thế kỷ 17, bắt đầu dưới quyền chúa Nguyễn, các chúa đã cho tổ chức các đơn vị hành chính ban đầu trên
**Việt Nam** qua các thời kỳ, triều đại nhà nước khác nhau với những tên gọi hoặc quốc hiệu khác nhau. Bên cạnh đó, cũng có những danh xưng chính thức hoặc không chính thức
**Từ đồng âm trong tiếng Việt** là những từ phát âm giống nhau hay cấu tạo âm thanh giống nhau, nhưng nghĩa, từ loại hoàn toàn khác nhau (gọi ngắn gọn là _đồng âm khác
**Tên người Việt Nam** được các nhà nghiên cứu cho rằng bắt đầu có từ thế kỷ 2 TCN và càng ngày càng đa dạng hơn, trong khi có ý kiến khác cho rằng: "sớm
**Từ vựng tiếng Việt** là một trong ba thành phần cơ sở của tiếng Việt, bên cạnh ngữ âm và ngữ pháp. Từ vựng tiếng Việt là đối tượng nghiên cứu cơ bản của ngành
**Tiếng lóng trong tiếng Việt của thế hệ Z** hay được gọi ngắn là **ngôn ngữ gen Z**, những người sinh ra trong giai đoạn những năm 1990 đến cuối những năm 2000 (hoặc đầu
**Vụ Trịnh Xuân Thanh trở về Việt Nam** là một câu chuyện có 2 phiên bản khác nhau. Chính vì 2 phiên bản trái ngược đưa đến một cuộc khủng hoảng quan hệ ngoại giao
nhỏ|phải|Tháp Phước Duyên ở [[chùa Thiên Mụ đã trở thành một trong những công trình biểu tượng của thành phố Huế]] **Tháp chùa Việt Nam** là những công trình tháp được đặt tại các ngôi
**Hệ động vật ở Việt Nam** là tổng thể các quần thể động vật bản địa sinh sống trong lãnh thổ Việt Nam hợp thành hệ động vật của nước này. Việt Nam là nước
nhỏ|phải|Vị trí vùng Đồng bằng sông Cửu Long trên bản đồ Việt Nam **Đồng bằng sông Cửu Long**, còn được gọi là **Tây Nam Bộ** hay** miền Tây**, là vùng cực nam của Việt Nam,
**Nguồn gốc người Việt Nam** để chỉ nguồn gốc của các dân tộc sống ở Việt Nam. Hiện nay chỉ mới được xác định được nguồn gốc của một số dân tộc thiểu số mới
**Trần Cảng Sinh** (tiếng Trung: 陳港生, tiếng Anh: Chan Kong-sang), hay **Phòng Sĩ Long** (tiếng Trung: 房仕龍, tiếng Anh: Fang Shi-long), thường được biết đến với nghệ danh **Thành Long** (tiếng Trung: 成龙, tiếng Anh:
**Lê Chí Trực** (28 tháng 2 năm 1928 – 31 tháng 12 năm 1967), hay còn được biết đến rộng rãi với bút danh **Hoàng Việt**, là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là
thumb|Bản đồ thể hiện các quốc gia sử dụng nhiều tiếng Indonesia. Xanh đậm = quốc gia, xanh nhạt = được nói bởi > 1%. thumb|Một người nói tiếng Indonesia được ghi âm ở [[Hà
Một đòn đá trong làng võ Tân Khánh Bà Trà. **Võ thuật Việt Nam** là tên gọi khái quát hệ thống võ thuật, các võ phái, bài thảo, võ sư khai sinh và phát triển
**Đài Tiếng nói Việt Nam** (**TNVN**), cũng được gọi là **VOV** (viết tắt từ tên ), là đài phát thanh quốc gia trực thuộc Chính phủ Việt Nam, có nhiệm vụ "tuyên truyền đường lối,
## Alal Alal là tên gọi theo tiếng Ba Na, dùng để chỉ nhạc cụ hơi có lưỡi gà rung tự do, khá phổ biến trong cộng đồng người Ba Na và một số dân