✨Chữ viết tiếng Việt

Chữ viết tiếng Việt

nhỏ|"Tôi nói tiếng Việt Nam" (碎呐㗂越南), bên trên viết bằng [[chữ Quốc ngữ (chữ Latinh), bên dưới viết bằng chữ Nôm.|250x250px]] Chữ viết tiếng Việt là những bộ chữ viết mà người Việt dùng để viết ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Việt, từ quá khứ đến hiện tại. Có hai dạng văn tự chính được dùng để ghi chép tiếng Việt là chữ Nôm, và chữ Quốc ngữ viết bằng mẫu tự Latinh. Chữ Nôm là văn tự ngữ tố có khả năng biểu nghĩa, là bộ chữ phổ thông tại Việt Nam trước thế kỷ 20. Chữ Quốc ngữ là chữ Latinh tượng thanh, chỉ có thể biểu âm, bắt đầu được sử dụng chính thức trên thực tế tại Việt Nam từ đầu thế kỷ 20.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tại Chương I Điều 5 Mục 3 quy định: "Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.", và không quy định chữ viết quốc gia hoặc văn tự chính thức. Hiện tại ở Việt Nam và người Việt ở nước ngoài đều sử dụng chữ Quốc ngữ (chữ Latinh) là chính. Chữ Nôm tuy không còn phổ biến nhưng vẫn được giảng dạy ở bậc đại học chuyên ngành Hán-Nôm, được dùng trong các hoạt động liên quan tới văn hóa truyền thống như viết thư pháp, và vẫn là văn tự chính cho tiếng Việt của cộng đồng người Kinh bản địa ở Đông Hưng, Trung Quốc. nhỏ|"Nội dung chủ nghĩa anh hùng cách mạng của chúng ta" (4-1966) do [[Chủ tịch Hồ Chí Minh viết, dùng hỗn hợp cả chữ Hán-Nôm và chữ Quốc ngữ]]

Các dạng chữ viết của tiếng Việt

Chữ Nôm

Dù chữ Hán có khả năng biểu ý tốt, nhưng trong tiếng Việt không chỉ có từ Hán Việt mà còn có từ thuần Việt, vậy nên chỉ sử dụng những chữ Hán hiện có lúc bấy giờ cũng không thể nào đáp ứng đủ, và thậm chí được cho là bất lực trước đòi hỏi, yêu cầu của việc trực tiếp ghi chép hoặc diễn đạt lời ăn tiếng nói cùng tâm tư, suy nghĩ và tình cảm của người Việt. Vì vậy chữ Nôm ra đời để bù đắp vào chỗ mà chữ Hán chưa đáp ứng được.

Chữ Nôm là một bộ chữ được xây dựng trên cơ sở áp dụng hệ chữ Hán để ghi chép các từ thuần Việt trong tiếng Việt. Quá trình hình thành chữ Nôm có thể chia thành hai giai đoạn:

Giai đoạn đầu, tạm gọi là giai đoạn "đồng hóa chữ Hán", tức là dùng chữ Hán để phiên âm các từ Việt thường là tên người, tên vật, tên đất, cây cỏ chim muông, đồ vật... xuất hiện lẻ tẻ trong văn bản Hán. Những từ tiếng Việt này, này xuất hiện vào thế kỷ đầu của Công Nguyên (đặc biệt rõ nét nhất vào thế kỷ thứ VI).

Giai đoạn sau: Ở giai đoạn này, bên cạnh việc tiếp tục dùng chữ Hán để phiên âm từ tiếng Việt, đã xuất hiện những chữ Nôm tự tạo theo một số nguyên tắc nhất định. Loại chữ Nôm tự tạo này, sau phát triển theo hướng ghi âm, nhằm ghi chép ngày một sát hơn, đúng hơn với tiếng Việt. Từ thời Lý thế kỷ thứ XI đến đời Trần thế kỷ XIV thì hệ thống chữ Nôm mới thực sự hoàn chỉnh. Theo sử sách đến nay còn ghi lại được một số tác phẩm đã được viết bằng chữ Nôm như đời Trần có cuốn Thiền Tông Bản Hạnh. Đến thế kỷ XVIII - XIX chữ Nôm đã phát triển tới mức cao, át cả địa vị chữ Hán. Các tác phẩm như hịch Tây Sơn, Khoa thi hương dưới thời Quang Trung (1789) đã có bài thi làm bằng chữ Nôm. Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu cũng được viết bằng chữ Nôm là những ví dụ.

Chữ Quốc ngữ (chữ Latinh tiếng Việt)

Chữ Quốc ngữ là bộ chữ hiện dùng để ghi tiếng Việt dựa trên các bảng chữ cái Latinh của nhóm ngôn ngữ Rôman (chủ yếu là Tiếng Bồ Đào Nha).250x250px|thumb|Đơn khai sinh năm 1938 ở [[Bắc Kỳ có bốn dạng chữ: chữ Quốc ngữ lẫn chữ Nôm cùng dấu triện bằng tiếng Pháp và vài chữ Hán|thế=]]Việc chế tác chữ Latinh để biểu âm cho tiếng Việt là một công việc tập thể của nhiều linh mục dòng Tên người Châu Âu. Trong công việc này có sự hợp tác tích cực và hiệu quả của nhiều người Việt Nam, trước hết là các thầy giảng Việt Nam (giúp việc cho các linh mục người Âu). Alexandre De Rhodes đã có công lớn trong việc góp phần sửa sang và hoàn chỉnh bộ chữ Quốc Ngữ. Đặc biệt là ông đã dùng bộ chữ ấy để biên soạn và tổ chức in ấn lần đầu tiên cuốn Từ điển Việt – Bồ – La (trong đó có phần về ngữ pháp tiếng Việt) và cuốn Phép giảng tám ngày. Xét về góc độ ngôn ngữ thì cuốn diễn giảng vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng đàng ngoài (in chung trong từ điển) có thể được xem như công trình đầu tiên khảo cứu về ngữ pháp, còn cuốn Phép giảng tám ngày có thể được coi như tác phẩm văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Quốc Ngữ, sử dụng lời văn tiếng nói bình dân hàng ngày của người Việt Nam thế kỷ XVII.

Tuy chữ Quốc ngữ của Alexandre De Rhodes năm 1651 trong cuốn Từ điển Việt – Bồ – La đã khá hoàn chỉnh, nhưng cũng phải chờ đến khi nó được xuất bản năm 1772, tức là 121 năm sau, với những cải cách quan trọng của Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine) thì chữ Quốc ngữ mới có diện mạo giống như hệ thống hiện nay.

Sự kiện đánh dấu vị thế chữ Quốc ngữ là khi người Pháp hoàn thành xâm chiếm Nam Kỳ vào cuối thế kỷ XIX. Để khiến tiếng Việt đồng văn tự với tiếng Pháp, giúp phổ biến tiếng Pháp, văn hoá Pháp và dễ bề cai trị, chữ Quốc ngữ được chính quyền thuộc địa bảo hộ qua các nghị định được người Pháp ban ra với mục đich xóa bỏ chữ Hán, chữ Nôm và văn hoá truyền thống Á Đông ở Việt Nam. Ngày 22 tháng 2 năm 1869, Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier ký nghị định bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Hán trong các công văn ở Nam Kỳ . Nghị định 82 do Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký ngày 6/4/1878 cũng đề ra mốc hẹn trong 4 năm (tức năm 1882) thì phải chuyển hẳn sang chữ Quốc ngữ . Sang thế kỷ XX, Chính phủ Đông Pháp mở rộng chính sách dùng chữ Quốc ngữ, giao cho Nha Học chính giảng dạy ở Bắc Kỳ từ năm 1910.

Việc cổ động cho học "chữ Quốc ngữ" ở Việt Nam gắn với các phong trào cải cách trong giai đoạn 1890–1910 như Hội Trí Tri, Phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo chí mới hình thành, đã thừa nhận và cổ vũ học "chữ Quốc ngữ", coi là phương tiện thuận lợi cho học hành nâng cao dân trí.

Theo tư liệu trong "Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ (25/5/1938)" do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức ngày 25/5/2008, thì Hội ra đời ngày 25/5/1938, đến ngày 29/7/1938, Thống sứ Bắc Kỳ là người Pháp công nhận sự hợp pháp của Hội. Hội cho rằng đó là dấu mốc chắc chắn cho vị thế "chữ Quốc ngữ".

Ngày nay do chữ Quốc ngữ là chữ ký tự Latinh, đồng văn tự với phần lớn ngôn ngữ trên thế giới, việc giao tiếp ngôn ngữ trên internet trở nên dễ dàng hơn so với các bộ chữ tượng hình như chữ Nôm và chữ Hán. Tuy nhiên chữ Quốc Ngữ có nhược điểm là vì thuộc dạng ký tự biểu âm, nên không có khả năng biểu nghĩa rõ ràng như chữ Hán và chữ Nôm, do vậy lại gây ra sự đồng âm khác nghĩa và hiểu sai nghĩa của từ vựng trong tiếng Việt (nếu các từ đứng độc lập, đặc biệt là tên người hay tên địa danh).

Về mặt mĩ thuật, do mỗi chữ cái có chiều cao và chiều dày khác nhau, số chữ cái trong mỗi từ đơn là không giống nhau nên độ dài mỗi từ đơn là không cố định, do vậy chữ Quốc ngữ chỉ có thể viết ngang vì viết dọc sẽ bị lệch hàng. Nó gây khó khăn trong việc dóng từng hàng khi viết thơ (đặc biệt là thể loại lục bát hoặc song thất lục bát), hay khó đoán kích cỡ nội dung tổng thể (như viết tên người bị tràn ra ngoài lề và phải xuống dòng).

Cùng với đó là việc không thể quy chuẩn cách viết các từ ngoại lai và tên riêng nước ngoài trong tiếng Việt là nên theo viết theo âm đọc như (tivi, in-tơ-nét, ma-két-tinh, Ma Rốc, Ả Rập Xê Út, Xô Viết).
Hay theo từ gốc như (TV, internet, marketing, Maroc, Arab Saudi, Soviet).

Mặc dù trước đây các từ ngoại lại hay được viết theo âm tiếng Việt như: ô tô thay cho auto bánh ga-tô thay cho bánh Gâteau Xô Viết thay cho Soviet thì gần đây các từ ngoại lai mới được sử dụng trong tiếng Việt đang theo  xu hướng chung là viết theo kiểu nguyên bản nhiều hơn như internet thay cho in-tơ-nét *Arab Saudi thay cho Ả Rập Xê Út nhưng phần lớn các báo hay sách lại không viết thêm cách đọc theo âm tiếng Việt (dù chỉ cần một lần trong cặp ngoặc đơn cũng không có, do lượng lớn người Việt hiện nay cho rằng cách viết phiên âm Việt là "quê mùa").

Điều này dẫn đến vấn đề là khiến người Việt thường phát âm sai các từ ngoại lai do thường quen đọc theo âm của chữ Quốc ngữ thay vì tham khảo Bảng mẫu tự ngữ âm quốc tế. Ví dụ như từ "depot" (ga điều hành đường sắt), phát âm đúng là "đê-pâu" (Anh-Anh: ) hay "đi-pâu" (Anh-Mỹ: ), nhưng người Việt hay phát âm nhầm theo chữ Quốc ngữ là "đề-pót", một số người khác thì "đọc bừa" thành "đì-pót".

Cũng như việc đọc tên người hay địa danh nước ngoài, vì tuỳ từng ngôn ngữ dùng chữ Latinh (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Hà Lan,...) sẽ có cách phát âm là khác nhau dù ký tự giống nhau, và các hệ thống chuyển tự Latinh (pinyin, romaji, romaja) cũng chỉ biểu diễn cách đọc mang tính tương đối, nên người Việt cũng hay phát âm sai tên người nước ngoài . Ví dụ như: *Tay vợt Andy Murray hay bị truyền thông Việt đọc phần họ là "Mu-ray", thực ra phát âm đúng phải là "Ma-ri" (). Câu lạc bộ bóng đá Tottenham thường bị đọc là "Tốt-ten-ham", thực ra phát âm đúng phải là "Tất-tơ-nơm" ().

*Các họ của người Hàn Quốc: họ Choi đọc đúng phải là "chuê", họ Lee đọc đúng phải là "i", những họ này thường đọc sai là "choi" và "ly" do romaja thường dùng cho các họ này viết là "Choi", "Lee". Khi mới sang Việt Nam, huấn luyện viên Park Hang-seo hay bị truyền thông Việt đọc tên là "Pắc Hang Xeo" như đọc chữ Quốc ngữ, và phải mất một thời gian sau tên ông mới được đọc lại là "Pắc Hang-so" hay "Pắc Hang-sơ" cho đúng với âm của tiếng Hàn.

Sử dụng chữ Quốc ngữ cũng khiến cho tiếng Việt hiện nay chịu ảnh hưởng của việc "dịch và dùng trung gian" qua tiếng Anh, phổ biến nhất là tên người Nhật Bản hay bị đảo ngược theo thứ tự tên-họ như trong tiếng Anh (mặc dù tên người Nhật gốc thực tế cũng theo thứ tự là họ trước tên sau như tên người Việt), hay các bộ manga, light novel của Nhật Bản và các bài hát, bộ phim của Hàn Quốc thay vì đặt tên tiếng Việt dịch trực tiếp từ tiếng Nhật, tiếng Hàn thì lại gọi bằng tên tiếng Anh hoặc dùng tên tiếng Việt dịch trung gian qua bản tiếng Anh.

Các dạng chữ đề xuất

Từ 2 thế kỉ gần nhất đến nay đã và đang có rất nhiều ý tưởng chữ viết tiếng Việt đến từ các cá nhân và các nhóm hoạt động xã hội, tuy nhiên chưa có bộ chữ nào được công nhận chính thức. Dưới đây là một số ý tưởng nổi bật.

Quốc Âm Tân Tự

nhỏ|Bảng chữ "Quốc Âm Tân Tự" của cư sĩ họ Nguyễn Quốc Âm Tân Tự (chữ Hán: ), nghĩa mặt chữ là "chữ quốc âm mới", là một đề xuất chữ viết tiếng Việt vào giữa thế kỷ 19. Tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện còn lưu giữ hai bản viết tay cổ (mỗi bản có bốn tờ) của cùng một văn bản có tên là Quốc Âm Tân Tự (國音新字) viết về loại chữ này. Trong văn bản Quốc Âm Tân Tự không có thông tin cho biết ngày tháng năm cụ thể tác phẩm này được viết ra. Căn cứ vào việc trong lời tựa của tác phẩm chữ “華” (hoa) trong tên gọi “中華” (Trung Hoa) đã được tị huý bằng cách bỏ không viết nét cuối của chữ này (nét sổ) thì có thể đoán rằng văn bản này được viết dưới thời vua Thiệu Trị (Mẹ vua Thiệu Trị tên là “Hồ Thị Hoa” 胡氏華). Cuối lời tựa của văn bản có dòng chữ “五星聚斗南城居士阮子書” (Ngũ Tinh Tụ Đẩu Nam thành cư sĩ Nguyễn tử thư). Qua dòng chữ này có thể biết rằng tác giả của Quốc Âm Tân Tự là một cư sĩ mang họ Nguyễn (阮) ở thành Nam Định (南定) có biệt hiệu là Ngũ Tinh Tụ Đẩu (五星聚斗).

Quốc Âm Tân Tự là loại chữ viết biểu âm chế tác từ các nét của chữ Hán và chữ Nôm (tương tự như Hiragana và Katakana của tiếng Nhật hay Chú âm Phù hiệu của tiếng Quan thoại Đài Loan) dựa theo âm đọc của tiếng Việt, có 22 “cán tự” 幹字 và 110 “chi tự” 枝字 ("cán" nghĩa là thân cây, "chi" nghĩa là cành cây). Cán tự được dùng để ghi phụ âm đầu, chi tự dùng để ghi vần. Mỗi cán tự đều được đặt tên bằng một từ mang vần “ông” có phụ âm đầu là phụ âm đầu mà cán tự đó biểu thị, ví dụ như cán tự biểu thị phụ âm “đ” được đặt tên là “đông” (tương tự như hiện nay người Việt gọi phụ âm "đ" là âm "đờ"). Quốc Âm Tân Tự không phân biệt “d” và “gi” như chữ Quốc ngữ (có thể do tác giả dưa theo giọng miền Bắc khi "d" và "gi" phát âm gần như giống nhau). Có một cán tự được dùng để ghi phụ âm đầu /ʔ/, cán tự này được đặt tên là “ông”.

Tác giả của Quốc Âm Tân Tự đã dùng bốn nét bút là ngang (一), sổ (丨), chấm (丶), phẩy (丿) (nét phẩy còn có biến thể là “㇏”) để tạo nên các cán tự và chi tự. Không phải chữ đơn nào cũng có đủ bốn nét bút kể, có những chữ đơn chỉ có chứa hai hoặc ba nét bút nhưng dù một chữ đơn có bao nhiêu nét bút thì tổng số nét, không phân biệt loại nét bút, trong chữ đơn đó đều là bốn.

Quốc Âm Tân Tự sử dụng cách phân chia thanh điệu truyền thống, thanh điệu được chia thành bốn loại là “bình” 平, “thướng” 上, “khứ” 去, “nhập” 入. Mỗi loại lại được chia ra thành hai bậc “âm” 陰 và “dương” 陽. Tổng cộng có tám thanh là:, và điển hình là bài viết của PGS. TS Đoàn Lê Giang từ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh . Ý tưởng về sự cần thiết này dựa trên 3 lý do:

  • Hiện nay trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo,... thì tiếng Việt đang bị "dùng sai một cách khủng khiếp". Khoảng già nửa đến 80% từ vựng tiếng Việt là từ gốc Hán (tùy cách ước lượng), với lượng từ đồng âm khá cao, nhưng bị dùng sai tràn lan, ví dụ dùng "khiếm nhã" như là "trang nhã", "yếu điểm" là "điểm yếu",...
  • Người Việt đang "vong bản ngay trên đất nước mình", thể hiện là hầu như không ai biết văn ngôn và chữ Nôm, không đọc được những gì tổ tiên đã viết trên các đình, chùa, bia, miếu,...
  • Các nước Đông Á "không có nước nào dám đoạn tuyệt với chữ Hán", nhờ đó giữ vững được truyền thống và bản sắc văn hóa, đồng thời phát triển được khoa học kỹ thuật và kinh tế, như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc,... và cho rằng "Thiếu chữ Hán làm nước ta nghèo nàn, lạc hậu".

Tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong những năm Chiến tranh Đông Dương không dạy chữ Hán trong trường phổ thông (hệ 9 năm). Hiện nay chữ Hán và chữ Nôm được giảng dạy trong chuyên ngành Hán Nôm bậc đại học. Ngoài ra còn có một số hội hay tổ chức chuyên dạy chữ Hán và chữ Nôm trong tiếng Việt (tránh nhầm lẫn là dạy tiếng Trung) cho người có nhu cầu.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Châu/Chu** (chữ Hán: 周), và **Chu** (朱), là hai họ của người Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên. ## Phân biệt họ Châu 周 và Chu 朱 Theo nghĩa đen của mặt chữ, 周
**Tiếng Tây Ban Nha** (**'), cũng được gọi là **tiếng Castilla** () hay **tiếng Y Pha Nho''' theo lối nói cũ, là một ngôn ngữ thuộc nhóm Iberia-Rôman của nhóm ngôn ngữ Rôman, và là
được đặt tên theo tên của James Curtis Hepburn, người đã dùng hệ này để phiên âm tiếng Nhật thành chữ cái Latinh ở phiên bản thứ 3 từ điển Nhật - Anh của ông,
**Trong lịch sử Việt Nam tồn tại hai bộ số**: một sử dụng từ vựng thuần Việt; và một sử dụng từ vựng Hán-Việt. Trong ngôn ngữ hiện đại, từ thuần Việt được sử dụng
nhỏ|375x375px| [[Microsoft Surface|Surface Type Cover phát sáng trong bóng tối vào ban đêm, hiển thị bố cục bàn phím JIS tiêu chuẩn được sử dụng bởi hầu hết các bàn phím bán tại Indonesia và
**Tiếng Ainu** (Ainu: _Aynu=itak_; tiếng Nhật: _Ainu-go_) hay **tiếng Ainu Hokkaido** là thành viên duy nhất còn tồn tại của ngữ hệ Ainu. Nó được nói bởi một ít người Ainu trên đảo Hokkaido bắc
**Tiếng Gond** () là một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Dravida, được nói bởi khoảng hai triệu người Gōnd, chủ yếu ở các bang Madhya Pradesh, Gujarat, Telangana, Maharashtra, Chhattisgarh, Andhra Pradesh và các khu
**Tiếng Parthia**, còn gọi là **tiếng Pahlavi Arsacid**, với nội danh **Pahlawānīg**, là một ngôn ngữ Iran Tây Bắc cổ đại nay đã mất, từng hiện diện ở Parthia, một vùng miền đông bắc cổ
**Tiếng Konkan** (chữ Devanagari: कोंकणी, Kōṅkaṇī, chữ Latinh: Konknni, koṅṇi, chữ Kannada: ಕೊಂಕಣಿ, konkaṇi, chữ Malayalam: കൊങ്കണി, konkaṇi) là một ngôn ngữ thuộc nhóm Ấn-Arya của Ngữ hệ Ấn-Âu. Ngôn ngữ này được nói tại
nhỏ|Hệ thống chữ viết tiếng Nhật **Hệ thống chữ viết tiếng Nhật** sử dụng kết hợp các chữ Hán, được sử dụng chữ Hán và âm tiết Kana. Vài ngàn ký tự Kanji được sử
**Tiếng Ý** hay **tiếng Italia** (_italiano_, _lingua italiana_) là một ngôn ngữ thuộc nhóm Rôman của hệ Ấn-Âu và được dùng bởi khoảng 70 triệu người, đa số sinh sống tại Ý. Giọng Ý tiêu
**Tiếng Sunda** (_Basa Sunda_) là ngôn ngữ của khoảng 42 triệu dân từ 1/3 phía tây của đảo Java và khoảng 15% dân số Indonesia. Ngôn ngữ này được phân loại nằm trong nhánh phía
**Tiếng Avar** (tên tự gọi **Магӏарул мацӏ** _Maⱨarul maⱬ_ "ngôn ngữ của núi" hay **Авар мацӏ** _Avar maⱬ_ "tiếng Avar") là một ngôn ngữ thuộc về nhánh Avar–Andi của ngữ hệ Đông Bắc Kavkaz. ##
**Tiếng Abkhaz** (còn được viết là **Abxaz**; //), còn gọi là **tiếng Abkhazia**, là một ngôn ngữ Tây Bắc Kavkaz, có quan hệ gần nhất với tiếng Abaza. Đây là ngôn ngữ của người Abkhaz,
**Tiếng Brahui** () là một ngôn ngữ Dravida chủ yếu được nói bởi người Brahui ở miền trung Baluchistan của Pakistan, với những cộng đồng nhỏ rải rác ở Afghanistan. Ngôn ngữ này, nhờ sự
**Tiếng Mingrelia**, hay còn gọi là **tiếng Megrelia**, ( _margaluri nina_) là một ngôn ngữ Kartvelia được nói tại Tây Gruzia (vùng Samegrelo và Abkhazia), chủ yếu bởi người Mingrelia. Ngôn ngữ này cũng từng
**Tiếng Sikkim**, cũng được gọi là "Tạng Sikkim", "Bhutia", "Drenjongké" ( "ngôn ngữ thung lũng lúa"), _Dranjoke_, _Denjongka_, _Denzongpeke_, và _Denzongke_, là một ngôn ngữ Tạng. Nó được nói bởi người Sikkim tại Sikkim, đông
**Tiếng Ingush** (, , phát âm ) là một ngôn ngữ Đông Bắc Kavkaz với khoảng 500.000 người nói. Đây là bản ngữ của người Ingush, sống trên hai nước công hoà Ingushetia và Chechnya.
**Tiếng Pashtun** ( _Pax̌tō_ ), được gọi là **Afghāni** () trong tiếng Ba Tư và **Paṭhānī** trong tiếng Hindi và Urdu, là một ngôn ngữ ở miền Nam-Trung Á, được nói bởi người Pashtun. Người
Nhập chữ Hán theo kiểu gõ [[Bính âm Hán ngữ|bính âm của bộ gõ SCIM]] **Cầm bút quên chữ** () là hiện tượng người quen viết chữ Hán của tiếng Trung Quốc hoặc kanji của
**Tiếng Luba-Kasai**, còn gọi là **tiếng Luba Tây**, (nội danh: _Ciluba/Tshiluba_,) là một ngôn ngữ Bantu (khu L) miền Trung Phi, và là một ngôn ngữ quốc gia của Cộng hoà Dân chủ Congo, cùng
phải|nhỏ|250x250px| Các nhóm dân tộc được chọn của Nepal; Bhotia, Sherpa, Thakali, Gurung, Kirant, Rai, Limbu, [[Tiếng Newar|Nepal Bhasa, Pahari, Tamang (lưu ý rằng các lãnh thổ của Kulu Rodu (Kulung) bị đánh dấu nhầm
**Tiếng Alekano** là một ngôn ngữ Papua nói ở Gahuku Rural LLG của tỉnh Eastern Highlands, Papua New Guinea. Có chừng 25.000 người nói. Tiếng Alekano còn gọi là tiếng Gahuku (theo tên bộ tộc
**Người Việt tại Triều Tiên** hay **Người Triều Tiên gốc Việt**, là nhóm người có gốc tích từ Việt Nam sau sang sinh sống tại bán đảo Triều Tiên. Họ có thể là hoàn toàn
**Chữ Pahawh Hmông** (RPA: _Phajhauj Hmoob_, Chữ Hmông Việt: _Faxhâux Hmôngz_, IPA: pʰâ hâu m̥ɔ́ŋ, còn được gọi là _Ntawv Pahawh, Ntawv Keeb, Ntawv Caub Fab, Ntawv Soob Lwj_) là một bộ chữ bán âm
**Tiếng Hebrew hiện đại** hay **tiếng Hebrew Israel** ( _ʿivrít_ _ḥadašá [h],_ - "tiếng Hebrew hiện đại" hoặc "tiếng Hebrew mới"), thường được người nói gọi đơn giản là **tiếng Hebrew** ( _Ivrit_), dạng chuẩn
Một **chữ cái** là một đơn vị của hệ thống viết theo bảng chữ cái, như bảng chữ cái Hy Lạp và các bảng chữ cái phát sinh từ nó. Mỗi chữ cái trong ngôn
là những nguyên âm kéo dài, có độ dài gấp đôi các nguyên âm [あ] [い] [う] [え] [お]. Ví dụ nếu âm あ có độ dài là 01 thì âm ああ có độ dài
Trang đầu _[[Phép giảng tám ngày_ in năm 1651 của nhà truyền giáo Alexandre de Rhodes. Bên trái là tiếng Latinh, bên phải là tiếng Việt viết bằng chữ Quốc ngữ.]] **Chữ Quốc ngữ** là
**Âm Hán Việt** (音漢越) là thuật ngữ chỉ các âm đọc của chữ Hán được người nói tiếng Việt xem là âm đọc chuẩn dùng để đọc chữ Hán trong văn bản tiếng Hán vào
**Từ Hán Việt** là những từ và ngữ tố tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Hán và những từ tiếng Việt được người nói tiếng Việt tạo ra bằng cách ghép các từ và/hoặc ngữ
là một ngôn ngữ Đông Á được hơn 125 triệu người sử dụng ở Nhật Bản và những cộng đồng dân di cư Nhật Bản khắp thế giới. Tại Việt Nam nó cũng là một
**Chữ Hán**, còn gọi là **Hán tự**, **Hán văn****,** **chữ nho**, là loại văn tự ngữ tố - âm tiết ra đời ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên. Ngôn
nhỏ|_"Tôi nói tiếng Việt Nam"_ (碎呐㗂越南), bên trên viết bằng [[chữ Quốc ngữ (chữ Latinh), bên dưới viết bằng chữ Nôm.|250x250px]] **Chữ viết tiếng Việt** là những bộ chữ viết mà người Việt dùng để
**Chính tả tiếng Việt** là sự chuẩn hóa hình thức chữ viết của ngôn ngữ tiếng Việt. Đây là một hệ thống quy tắc về cách viết các âm vị, âm tiết, từ, cách dùng
**Tiếng Latinh** hay **Latin** (tiếng Latinh: __, ) là ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ gốc Ý của ngữ hệ Ấn-Âu, ban đầu được dùng ở khu vực quanh thành phố Roma (còn gọi là
**Tiếng Phạn** hay **Sanskrit** (chữ Hán: 梵; _saṃskṛtā vāk_ संस्कृता वाक्, hoặc ngắn hơn là _saṃskṛtam_ संस्कृतम्) là một cổ ngữ Ấn Độ và là một ngôn ngữ tế lễ của các tôn giáo như
**Người Hoa** () là một dân tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và được công nhận là một trong 54 dân tộc của Việt Nam. Các tên gọi khác của họ là **người Minh**,
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
**Tên người Việt Nam** được các nhà nghiên cứu cho rằng bắt đầu có từ thế kỷ 2 TCN và càng ngày càng đa dạng hơn, trong khi có ý kiến khác cho rằng: "sớm
**Từ vựng tiếng Việt** là một trong ba thành phần cơ sở của tiếng Việt, bên cạnh ngữ âm và ngữ pháp. Từ vựng tiếng Việt là đối tượng nghiên cứu cơ bản của ngành
**Bảng chữ cái Lào, chữ Lào** hay **Akson Lao** (; , _ắc-xỏn Láo_) là bảng chữ cái chính thức được sử dụng để viết tiếng Lào và các ngôn ngữ thiểu số khác ở CHDCND
**Chữ Kirin**, **chữ Cyril** ( )(Кири́л) hay là chữ **Slav** (Slavonic hoặc Slavic) là một hệ thống chữ viết sử dụng cho nhiều ngôn ngữ khác nhau ở lục địa Á-Âu và được dùng như
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Phiên thiết Hán-Việt** là dùng cách **phiên thiết** (反切), tức là dùng âm của hai chữ khác (được coi là đã biết cách đọc) ghép lại để chú âm cho cách đọc âm Hán của
**Việt Nam** qua các thời kỳ, triều đại nhà nước khác nhau với những tên gọi hoặc quốc hiệu khác nhau. Bên cạnh đó, cũng có những danh xưng chính thức hoặc không chính thức
**Từ đồng âm trong tiếng Việt** là những từ phát âm giống nhau hay cấu tạo âm thanh giống nhau, nhưng nghĩa, từ loại hoàn toàn khác nhau (gọi ngắn gọn là _đồng âm khác
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
thumb|Bản đồ thể hiện các quốc gia sử dụng nhiều tiếng Indonesia. Xanh đậm = quốc gia, xanh nhạt = được nói bởi > 1%. thumb|Một người nói tiếng Indonesia được ghi âm ở [[Hà