✨Tiếng Hán thượng cổ

Tiếng Hán thượng cổ

Tiếng Hán thượng cổ (tiếng Hán: 上古漢語; Hán Việt: thượng cổ Hán ngữ) là giai đoạn cổ nhất được ghi nhận của tiếng Hán và là tiền thân của tất cả các dạng tiếng Hán ngày nay. Ngữ liệu cổ nhất ta có được là những bản khắc giáp cốt văn niên đại khoảng 1250 TCN, cuối nhà Thương. Sau đó, thời nhà Chu, Kim văn trở nên phổ biến. Nửa cuối nhà Chu, nền văn học phát triển vượt bậc, với các tác phẩm kinh điển như Luận ngữ, Mạnh Tử, Tả truyện. Những tác phẩm này là hình mẫu cho văn ngôn, dạng tiếng Hán viết chuẩn cho đến đầu thế kỷ XX, qua đó giúp lưu giữ phần từ vựng-ngữ pháp thời cuối tiếng Hán thượng cổ.

Phân loại

Tiếng Hán trung cổ và các nhóm ngôn ngữ lân cận phía nam như hệ Kra–Dai, hệ H'Mông-Miền và chi Vietic của hệ Nam Á đều sở hữu hệ thống thanh điệu, cấu trúc âm tiết, đặc điểm ngữ pháp và sự bất biến tố tương tự nhau; điều này không phải vì chúng có mối quan hệ họ hàng, mà là vì chúng đã tiếp xúc và trao đổi với nhau trong dòng lịch sử hình thành và phát triển của khu vực. Hiện nay, phần lớn giới ngôn ngữ học xếp tiếng Hán vào nhóm Hán-Tạng cùng với tiếng Miến Điện, tiếng Tây Tạng và nhiều ngôn ngữ khác rải rác khắp dãy Himalaya và khối núi Đông Nam Á. Bằng chứng cho điều này là hàng trăm hình vị đồng nguyên đã được tìm thấy, bao gồm những từ vựng cơ bản được trình bày bên dưới:

Mặc dù mối quan hệ này đã được phát hiện vào đầu thế kỷ 19 và hiện được chấp nhận rộng rãi, công cuộc phục nguyên tiếng Hán-Tạng vẫn chưa có nhiều tiến triển, nhất là khi so với các công trình tiên phong như hệ Ấn-Âu và hệ Nam Đảo. Tuy tiếng Hán thượng cổ là thành viên được chứng thực sớm nhất của hệ Hán-Tạng, chữ tượng hình Hán văn thường không làm rõ cách phát âm của từng từ, gây cản trở công tác khảo cứu. Bên cạnh đó, các khó khăn đáng kể đến cũng bao gồm sự đa dạng ngôn ngữ cực kỳ lớn, sự bất biến tố của các ngôn ngữ thuộc hệ này và sự tiếp xúc – vay mượn hỗn loạn giữa các ngôn ngữ trong khu vực. Ngoài ra còn tồn tại nhiều ngôn ngữ ít người nói chưa được mô tả hoàn chỉnh vì chúng được nói ở những vùng núi và biên giới nhạy cảm, khó tiếp cận.

Theo Benedict và Matisoff, tiếng Tạng-Miến nguyên thủy không có sự khu biệt bật hơi ở các âm tắc và tắc-xát đầu. Sự bật hơi ở tiếng Hán thượng cổ thường trùng khớp với các phụ âm tiền thanh mẫu (pre-initial) ở tiếng Tạng và Lô Lô-Miến; điều này được nhiều học giả coi như bằng chứng cho thấy tiếng Hán thượng cổ từng có tiền tố ở giai đoạn trước nữa.

Ngữ âm

Ngữ âm tiếng Hán thượng cổ đã được tái dựng dựa trên nhiều bằng chứng khác nhau, bao gồm các Hán tự ký âm, cách thức gieo vần trong Kinh Thi và cách đọc tiếng Hán trung cổ trong các tự điển như Thiết Vận (601 CN). Mặc dù nhiều chi tiết vẫn còn bị tranh cãi, các phục nguyên gần đây hầu như đã thống nhất về các nội dung cốt lõi. Ví dụ dưới đây là những phụ âm đầu (tức thanh mẫu) được Lý Phương Quế và William Baxter công nhận, cùng một số bổ sung (chủ yếu của Baxter) được đóng ngoặc đơn:

Nhiều tổ hợp phụ âm đầu đã được đề xuất, nhất là cụm + phụ âm, nhưng vấn đề này vẫn chưa nhận được sự tán thành đồng thuận.

Bernhard Karlgren và nhiều học giả về sau cho rằng tiếng Hán thượng cổ sở hữu các phụ âm giữa -r-, -j- và -rj-, điều mà sẽ giúp giải thích cho sự xuất hiện của âm quặt lưỡi, âm ồn và nhiều sự tương phản nguyên âm đặc trưng của tiếng Hán trung cổ. Âm -r- và sự tương phản âm do -j- đại diện hầu như được các học giả chấp nhận, tuy nhiên, cách thực hiện âm lướt ngạc cứng -j- còn là đề tài gây tranh cãi.

Các phục nguyên kể từ thập niên 80 trở đi thường đề xuất sáu nguyên âm sau đây:

Nguyên âm hạt nhân có thể được theo sau bởi các phụ âm cuối giống ở tiếng Hán trung cổ: các âm lướt -j hoặc -w; các âm mũi -m , -n hoặc -ŋ; các âm dừng -p, -t hoặc -k. Một số học giả đề xuất thêm âm cuối môi – ngạc mềm -kʷ. Hiện nay, giới chuyên gia cho rằng tiếng Hán thượng cổ không có thanh điệu như ở các ngôn ngữ hậu duệ, song nó có các phụ âm hậu vần (post-coda) như -ʔ và *-s, về sau diễn tiến lần lượt thành thanh thượng (rising tone) và thanh khứ (departing tone) ở giai đoạn tiếng Hán trung cổ.

Ngữ pháp

Ta biết rất ít về ngữ pháp tiếng Hán thuở sớm bởi lẽ hầu hết các văn liệu thời cổ chỉ ghi chép về nghi lễ cúng tế và phần lớn từ vựng chưa được giải mã. Tuy nhiên, trái lại thì vốn văn học phong phú thời Chiến Quốc đã được phân tích kỹ lưỡng. Qua đó, ta thấy rằng tiếng Hán thượng cổ không có sự biến tố hình thái từ; thứ tự câu, trợ từ và từ loại mới đảm nhận các chức năng ngữ pháp.

Từ loại

Đại từ nhân xưng tiếng Hán thượng cổ có rất nhiều dạng thù trong các văn liệu, có lẽ bởi sự khác biệt giữa các phương ngữ. Có hai nhóm đại từ ngôi nhất:

Dạng *l-: , , và

Dạng *ŋ-: và

Trong các bản giáp cốt văn, đại từ dạng l- được nhà vua sử dụng để chỉ bản thân, và đại từ dạng ŋ- được sử dụng bởi dân chúng thời nhà Thương. Sự phân biệt hai dạng không tái xuất trong các văn liệu về sau, và đại từ dạng *l- mất hẳn trong thời kỳ cổ điển. Sau thời nhà Hán, trở thành đại từ chung chỉ ngôi nhất.

Các đại từ ngôi hai bao gồm , , , . và tiếp tục được sử dụng không phân biệt cho tới khi bị thay thế bởi biến thể (bính âm hiện đại: ) của miền tây bắc thời nhà Đường. Một vài phương ngữ Mân hiện đại vẫn sử dụng đại từ ngôi hai phái sinh từ .

Tiếng Hán thượng cổ không có đại từ chủ ngữ ngôi ba chuyên dụng, nhưng (ban đầu là một từ chỉ định khoảng cách) được sử dụng như một đại từ tân ngữ ngôi ba trong thời kỳ cổ điển. Đại từ sở hữu ban đầu là bị thay thế bởi vào thời kỳ Cổ điển. Sau thời nhà Hán, được dùng làm đại từ chung chỉ ngôi ba. Từ này vẫn tiếp tục được sử dụng trong một vài phương ngữ Ngô.

Tiếng Hán thượng cổ có đại từ nghi vấn và đại từ chỉ định nhưng không có đại từ bất định. Đại từ phân bổ được tạo thành bằng cách đính thêm hậu tố *-k:

  • 'ai đó' < 'ai'
  • 'mỗi một' < 'tất cả'
  • 'có kẻ' (phiếm chỉ người) < 'có'
  • 'chẳng ai' < 'chẳng có'

Cấu trúc câu

Giống như tiếng Anh và tiếng Trung hiện đại, cấu trúc câu tiếng Hán thượng cổ cũng bao gồm hai thành tố chủ ngữ và vị ngữ.

Trước thời kỳ Cổ điển, vị ngữ danh từ được cấu thành bởi vị từ + một danh ngữ bất kì. Ví dụ:

Vị từ phủ định đã được chứng thực trong một số bản giáp cốt văn, về sau rút gọn thành . Thời Cổ điển, vị từ cuối câu thay thế cấu trúc giữa câu, song vẫn được bảo toàn làm yếu tố phủ định, theo đó có thể thêm hay không tùy:

Động từ liên kết () xuất hiện trong Hán văn và tiếng Trung hiện đại có niên đại về thời nhà Hán. Vào giai đoạn thượng cổ, từ này có chức năng gần như một đại từ chỉ định.

Giống tiếng Trung hiện đại, song dị biệt khi so với các ngôn ngữ Tạng-Miền khác, thứ tự câu cơ bản của tiếng Hán thượng cổ là chủ–động–tân (SVO):

Ngoài trường hợp đảo trật tự từ nhằm mục đích nhấn mạnh, có hai ngoại lệ khác cần phải chú ý: đại từ chủ ngữ của câu phủ định hoặc đại từ tân ngữ của câu nghi vấn phải được đặt trước động từ:

Biến đổi phụ ngữ

Nhìn chung, phụ ngữ tiếng Hán thượng cổ đứng trước chính ngữ. Theo đó, các tiểu cú liên hệ được đặt trước danh từ và thường đi kèm với tiểu từ (có chức năng giống từ de của tiếng Trung hiện đại):

Ngữ vựng

Vốn từ vựng cốt lõi của tiếng Hán thượng cổ đã được hầu hết các nhà nghiên cứu truy vết về tiếng tổ tiên Hán-Tạng, với các từ vay mượn sớm từ các ngôn ngữ lân cận. Quan điểm truyền thống cho rằng tiếng Hán thượng cổ là một ngôn ngữ đơn lập do nó không có sự biến tố hoặc sự phái sinh hình thái, nhưng giờ thi ta biết rằng từ ngữ vẫn có thể được hình thành thông qua phương thức phụ tố phái sinh, điệp từ hoặc ghép từ. Tuy quan điểm truyền thống xác định tiếng Hán thượng cổ chỉ có gốc đơn âm tiết, Baxter và Sagart gần đây lập luận rằng tồn tại gốc đôi âm tiết với âm tiết đầu gần khuyết, giống như ngữ âm tiếng Khmer hiện đại.

Từ mượn

Vào thời Hán ngữ thượng cổ, văn minh Trung Hoa phát tích từ khu vực xung quanh hạ lưu sông Vị và trung lưu Hoàng Hà rồi bành trướng về phía đông, qua đồng bằng Hoa Bắc đến Sơn Đông và sau đó xuống phía nam vào thung lũng sông Dương Tử. Không có ghi chép nào còn tồn tại về các thứ tiếng phi-Hán được nói ở những vùng này trước khi chúng bị người Hán đồng hóa hoặc tận diệt. Tuy nhiên, dấu vết của những thứ tiếng ấy vẫn lưu đọng ít nhiếu trong tiếng Trung hiện đại thông qua quá trình vay mượn từ ngữ, và điều này có thể góp phần giải thích nguồn gốc của nhiều từ tiếng Trung có lai lịch không rõ ràng.

Jerry Norman và Mei Tsu-lin đã xác định nhiều từ tiếng Hán cổ vay mượn từ tiếng Nam Á, ngôn ngữ mà có lẽ đã từng được nói bởi các dân tộc sống ở vùng hạ lưu sông Dương Tử, được người Hán xưa kia gọi với cái tên là Bách Việt (Yue). Ví dụ, người Hán xưa kia gọi sông Dương Tử là __ (, bính âm: jiāng, Hán-Việt: giang), rồi dần dà dùng từ này để chỉ chung hầu hết các con sông ở miền nam Trung Quốc. Norman và Mei cho rằng từ 江 này đồng nguyên với từ sông của tiếng Việt (< *krong Vietic nguyên thủy) và kruŋ 'sông' của tiếng Môn.

Haudricourt và Strecker cũng đề xuất một số từ Hán cổ được suy đoán là bắt nguồn từ tiếng H'Mông-Miền, chủ yếu là vốn từ liên quan đến kỹ thuật canh tác lúa nước vốn phát tích ở miền trung lưu sông Dương Tử, chẳng hạn như:

  • ' 'mạ, mầm lúa' (, bính âm: , Hán-Việt: ương) < ' tiếng H'mông-Miền nguyên thủy
  • __ 'lúa gié' (, bính âm: , Hán-Việt: đạo) < A tiếng H'mông-Miền nguyên thủy

Ngoài ra, tồn tại một số từ bị nghi vấn là bắt nguồn từ miền Nam Trung Quốc nhưng không rõ là từ đâu, chẳng hạn như:

  • ' 'voi' (, bính âm: , Hán-Việt: tượng), so sánh với coiŋ tiếng Môn, ' tiếng Thái nguyên thủy và chaŋ tiếng Miến.
  • ' 'gà' (, bính âm: , Hán-Việt: ), so sánh với ' tiếng Thái nguyên thủy, ' tiếng H'mông-Miền nguyên thủy và ' tiếng Việt-Mường nguyên thủy.

Thời cổ đại, người Tochari Ấn-Âu định cư tại lòng chảo Tarim đã du truyền thuật nuôi ong lấy mật sang Trung Quốc. Theo đó, từ ' 'mật' trong tiếng Hán cổ (, bính âm: , Hán-Việt: mật) được suy đoán là bắt nguồn từ gốc ḿət(ə) của tiếng Tochari nguyên thủy (ḿ ở đây được ngạc cứng hóa; so sánh với mit của tiếng Tochari B), vốn cũng đồng nguyên với từ ' 'rượu mật ong' của tiếng Anh. Các dân tộc phương bắc cũng đóng góp một số từ vào ngữ vựng tiếng Hán cổ, chẳng hạn như __ 'con bê' (, bính âm: , Hán-Việt: độc), so sánh với tuɣul tiếng Mông Cổ và tuqšan tiếng Mãn Châu.

Phương thức phụ tố

Một trường hợp phổ biến là "phái sinh bằng biến đổi thanh điệu", theo đó những từ có thanh khứ dường như được sinh ra từ những từ có thanh khác. Nếu thuyết của Haudricourt về nguồn gốc thanh khứ là đúng, thì những phái sinh thanh này có lẽ là kết quả của sự phát âm lệch hậu tố . Vì tiếng Tạng cũng có phụ tố tương tự, đặc điểm này có lẽ được kế thừa từ giai đoạn tiền Tạng-Miền. Ví dụ:

  • ( ) 'kiệt quệ' và ( ) 'kiệt quệ, tro tàn'
  • ( ) 'trói buộc' và ( ) 'búi tóc'
  • ( ) 'nộp' và < ( ) 'bên trong'
  • ( ) 'thêu thùa' và ( ) 'áo vải' (so sánh với Tạng văn ʼthag 'thêu thùa' và thags 'quần áo') Phương thức biến đổi ngữ nghĩa bằng phụ tố khác liên quan đến các ngoại động từ có âm đầu vô thanh và các động từ bị động hoặc tĩnh với âm đầu hữu thanh:
  • ( ) 'thấy' và ( ) 'xuất hiện'
  • ( ) 'giao' và ( ) 'lẫn lộn'
  • ( ) 'trải ra, giăng ra' và ( ) 'dài' Một số học giả cho rằng ngoại động từ có âm đầu vô thanh là dạng cơ bản, còn âm đầu hữu thanh phản ánh sự tồn tại của tiền tố mũi phi ngoại động hóa. Số khác lại cho rằng dạng ngoại động từ được sản sinh nhờ sự tích hợp thêm tiền tố gây khiến vào căn tố động từ tĩnh, và tác động này sẽ làm cho âm đầu bị phi thanh hóa. Cả hai luồng ý kiến trên đều suy đoán rằng tiền tố xuất hiện song song trên tất cả các nhánh của hệ Tạng-Miền và thậm chí vẫn có tính năng sản ở một số nhánh.

Phương thức điệp và ghép

Các hình vị tiếng Hán thượng cổ gốc đều là đơn âm tiết, nhưng tới thời Tây Chu thì nhiều từ hai âm tiết mới đã phát sinh. Vào thời kỳ cổ điển, 25–30% ngữ vựng là đa âm tiết, song những từ đơn âm tiết xuất hiện thường xuyên hơn và cấu thành 80–90% văn liệu. Nhiều từ đơn hình vị nhưng hai âm tiết, đặc biệt là tên côn trùng, chim chóc, cỏ cây, cũng như trạng từ và tính từ biểu cảm, được hình thành bằng đa dạng các phương pháp điệp. Bên dưới là các ví dụ trích từ Kinh Thi:

  • điệp từ ( ), theo đó âm tiết được lặp lại, ví dụ như ( ) 'cao lớn' và ( ) 'hạnh phúc và thanh tịnh'.
  • điệp vần ( ), theo đó phần âm cuối được lặp lại, ví dụ như ( ) 'đẹp đẽ' và ( ) 'vàng anh'. Âm đầu của âm tiết phát sinh thường là hoặc .
  • song thanh ( ), theo đó phần âm đầu được lặp lại, ví dụ như ( ) 'bất thường' và ( ) 'uyên ương'.
  • biến nguyên âm, nhất là sự đột biến và , được đại diện bởi ( ) 'bận bịu' và ( ) 'vô tư lự'. Một số trường hợp đột biến và cũng đã được ghi nhận, ví dụ như ( ) 'ồ ạt (nói về gió và nước)' và ( ) 'dế mèn'.

Các hình vị đôi âm tiết khác bao gồm trường hợp nổi tiếng ( ) 'con bướm' từ cuốn Trang Tử. Nhiều từ đa âm tiết, nhất là danh từ, được hình thành bằng phương thức ghép, ví dụ:

  • ghép danh với danh, chẳng hạn như ( ) 'mộc qua' (nghĩa đen từng hình vị là 'cây-dưa'), và ( ) 'buổi trưa' (nghĩa đen từng hình vị là 'giữa-ngày').
  • ghép động với danh, chẳng hạn như ( ) 'tư mã/viên quan trông coi ngựa' (nghĩa đen từng hình vị là 'trông-ngựa') và ( ) 'tác sách/viên quan sao chép sách' (nghĩa đen từng hình vị là 'làm-viết'). Tuy nhiên phải chú ý rằng những hình vị cấu thành từ ghép kiểu này không bị trói buộc: chúng vẫn có nghĩa độc lập khi đứng riêng lẻ.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Giới hàn lâm đã có nhiều nỗ lực trong việc phục nguyên hệ thống âm vị học của tiếng Hán thượng cổ thông qua bằng chứng văn liệu. Mặc dù hệ chữ tượng hình Hán
**Tiếng Hán thượng cổ** (tiếng Hán: 上古漢語; Hán Việt: _thượng cổ Hán ngữ_) là giai đoạn cổ nhất được ghi nhận của tiếng Hán và là tiền thân của tất cả các dạng tiếng Hán
**Tiếng Hán trung cổ** () là một dạng tiếng Trung Quốc trong lịch sử, được dùng trong cuốn _Thiết Vận_, một từ điển vần (vận thư) phát hành lần đầu tiên năm 601 với nhiều
là giai đoạn tiếng Nhật cổ nhất được ghi nhận và phục nguyên. Thông tin về nó đến từ văn liệu thời kỳ Nara (thế kỷ VIII). Nó trở thành tiếng Nhật Trung cổ vào
**Âm Hán Việt** (音漢越) là thuật ngữ chỉ các âm đọc của chữ Hán được người nói tiếng Việt xem là âm đọc chuẩn dùng để đọc chữ Hán trong văn bản tiếng Hán vào
**Chữ Hán**, còn gọi là **Hán tự**, **Hán văn****,** **chữ nho**, là loại văn tự ngữ tố - âm tiết ra đời ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên. Ngôn
**Tiếng Trung Quốc** (), còn gọi là **tiếng Trung**, **tiếng Hoa**, **tiếng Hán**, **tiếng Tàu**, **Trung văn** (中文 _Zhōng wén_), **Hoa ngữ** (華語/华语 _Huá yǔ_), **Hoa văn** (華文/华文), **Hán ngữ** (漢語/汉语 _Hàn yǔ_), là một
**Ngữ hệ Hán-Tạng**, trong một số tư liệu còn gọi là **ngữ hệ Liên Himalaya**, là một ngữ hệ gồm trên 400 ngôn ngữ. Ngữ hệ này đứng thứ hai sau ngữ hệ Ấn-Âu về
**Tiếng Ngõa Hương** (; _ɕioŋ55 tsa33_) được coi là một dạng tiếng Trung khác biệt. Đây là ngôn ngữ của người Ngõa Hương, một dân tộc chưa được công nhận ở Trung Quốc sống tại
**Ngữ tộc Hán** (tiếng Anh: _Sinitic languages_ hoặc _Chinese languages_; tiếng Trung: 漢語族; âm Hán Việt: _Hán ngữ tộc_) là nhóm các ngôn ngữ thường mặc nhiên công nhận là một trong hai phân nhóm
**Tiếng Hàn Quốc**, **Tiếng Hàn** hay **Hàn ngữ** ( - cách gọi của Hàn Quốc) hoặc **Tiếng Triều Tiên** hay **Triều Tiên ngữ** ( - cách gọi của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều
**Tiếng Thụy Điển cổ** (tiếng Thụy Điển hiện đại: _fornsvenska_) là tên chung của 2 phiên bản tiếng Thụy Điển được nói vào khoảng thời Trung Cổ: tiến Thụy Điển sớm (_klassisk fornsvenska_), được nói
**Tiếng Mân** (; Bình thoại tự: Mìng ngṳ̄) là một nhóm ngôn ngữ Hán với hơn 30 triệu người nói ở các tỉnh miền nam Trung Quốc gồm Phúc Kiến, Quảng Đông (Triều Châu-Sán Đầu,
Hiện nay, tiếng Hán được dùng rộng rãi, phổ biến trong nhiều lĩnh vực xã hội, người học tập và sử dụng tiếng Hán càng có nhu cầu muốn biết những từ mới và thuật
Hiện nay, tiếng Hán được dùng rộng rãi, phổ biến trong nhiều lĩnh vực xã hội, người học tập và sử dụng tiếng Hán càng có nhu cầu muốn biết những từ mới và thuật
- Biên soạn giáo trình: Xây dựng nội dung giảng dạy cho các khóa học tiếng Hàn từ sơ cấp đến nâng cao. - Giảng dạy: Trực tiếp giảng dạy tiếng Hàn, giúp học viên
Tiếng Hàn có một hệ thống kính ngữ để diễn tả và phản ánh địa vị tôn ti trật tự, thể hiện sự tôn trọng đối với chủ thể, đối tượng và/hoặc người nghe liên
Cuốn sách Tổng hợp Cách dùng 300 từ vựng Hán - Hàn cao cấp - người đồng hành cần thiết với bạn trong chặng đường chinh phục ngôn ngữ Hàn Quốc. Cuốn sách này sẽ
Tiểu từ là các từ có chức năng phụ trợ không thể đứng độc lập mà phải gắn sau một từ để xác định ý nghĩa, chức năng ngữ pháp. Trong tiếng Hàn, các từ
**Chính tả tiếng Việt** là sự chuẩn hóa hình thức chữ viết của ngôn ngữ tiếng Việt. Đây là một hệ thống quy tắc về cách viết các âm vị, âm tiết, từ, cách dùng
**Từ Hán Việt** là những từ và ngữ tố tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Hán và những từ tiếng Việt được người nói tiếng Việt tạo ra bằng cách ghép các từ và/hoặc ngữ
**Làn sóng Hàn Quốc**, còn gọi là **Hàn lưu** hay **Hallyu** (, , có nghĩa là "làn sóng/dòng chảy" trong tiếng Hàn), hay còn có tên gọi đầy đủ là **làn sóng văn hóa Hàn
**Tiếng Bạch** (chữ Latinh: , chữ Hán-Bạch: 白語子, âm Hán-Việt: Bạch ngữ tử; ) là ngôn ngữ của người Bạch, với phần đông người nói tụ ở Vân Nam, Trung Quốc. Ngôn ngữ này có
**Thành ngữ gốc Hán** dùng để chỉ những kết cấu ngôn ngữ rất ổn định, phổ thông, cô đọng về mặt ngữ nghĩa thịnh hành trong tiếng Hán, được du nhập vào tiếng Việt và
Căn cứ vào nguồn gốc của các từ, các nhà nghiên cứu chia từ vựng tiếng Việt thành hai lớp: từ thuần Việt và từ mượn hay còn gọi là từ ngoại lai. Nội dung
**On'yomi** (Tiếng Nhật là cách đọc chữ Hán (Kanji) dựa trên phát âm của tiếng Trung Quốc (nên còn gọi là âm Hán-Nhật) để phân biệt với cách phát âm thuần Nhật ( âm Hán
**Cờ vây** là một trò chơi dạng chiến lược trừu tượng cho hai người chơi, trong đó mục tiêu là bao vây nhiều lãnh thổ hơn đối thủ. Trò chơi được phát minh ở Trung
Để có thể học giỏi tiếng Hàn, trau đôi vốn từ vựng tiếng Hàn là yêu cầu bắt buộc với bất kì ai học ngôn ngữ này. Khi học tiếng Hàn, người học đối mặt
Bạn học thân mến, Để có thể học tiếng Hàn giỏi, trau dồi vốn từ vựng tiếng Hàn là yêu cầu bắt buộc với bất kì ai học ngôn ngữ này. Khi học tiếng Hàn,
**Han Ye-seul** (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1981) là một nữ diễn viên người Mỹ gốc Hàn Quốc. Cô xuất hiện lần đầu trong bộ phim sitcom _Nonstop 4_ (2003) và từ đó đóng
Giáo trình tiếng Hàn tổng hợp dành cho người Việt Nam Sơ cấp 1 Tặng Bookmark dễ thương Giáo trình tiếng Hàn tổng hợp dành cho người Việt Nam Sơ cấp 1 được biên soạn
Cẩm Nang Tiếng Hàn Trong Giao Tiếp Thương Mại Phong trào học tiếng Hàn bắt đầu bùng nổ từ những năm 1980 và cho đến nay, xu hướng ấy vẫn không ngừng tăng lên. Các
Combo Trọn Bộ Ngữ Pháp Tiếng Hàn Thông Dụng Sơ - Trung Cấp Combo Trọn Bộ Ngữ Pháp Tiếng Hàn Thông Dụng Sơ - Trung Cấp gồm hai cuốn 1.Ngữ Pháp Tiếng Hàn Thông Dụng
**Tiếng Pháp** (, IPA: hoặc , IPA: ) là một ngôn ngữ Rôman (thuộc hệ Ấn-Âu). Giống như tiếng Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, România, Catalonia hay một số khác, nó xuất phát
CẨM NANG LUYỆN THI NĂNG LỰC TIẾNG HÀN - TOPIK II TOPIK là kỳ thi năng lực tiếng Hàn được tổ chức tại 76 quốc gia và có đến 375.871 thí sinh khắp thế giới
Trong tiếng Hàn có 2 bộ số là số Hán Hàn và số Thuần Hàn. ## Sự kết hợp của số Hán Hàn và Thuần Hàn Đối với cả hệ số đếm Hán Hàn và
Giới thiệu Cuốn sách Khẩu ngữ thường dùng trong tiếng Hán hiện đại đã được sự hoan nghênh nhiệt liệt của độc giả gần xa, không chỉ tái bản nhiều lần ở Trung Quốc, mà
CẨM NANG LUYỆN THI NĂNG LỰC TIẾNG HÀN - TOPIK II TOPIK là kỳ thi năng lực tiếng Hàn được tổ chức tại 76 quốc gia và có đến 375.871 thí sinh khắp thế giới
Với tốc độ ảnh hưởng của văn hóa Hàn Quốc hiện nay, càng ngày càng có nhiều bạn có nhu cầu học tiếng Hàn giao tiếp. Tuy nhiên, các bạn thường gặp phải khó khăn
Sách 2.000 Từ vựng tiếng Hàn thiết yếu dành cho người mới bắt đầu được thiết kế cho người học tiếng Hàn, các giáo viên giảng dạy tiếng Hàn như ngôn ngữ thứ hai. Số
Kem Nám Nacos- Coreana White Solution Dark Spot Reducer Hàn Quốc. Top 3 mỹ phẩm nổi tiếng Hàn Quốc, được yêu thích số 1 Hàn QuốcĐến từ thương hiệu mỹ phẩm nổi tiếng Hàn Quốc
GIỚI THIỆU SẢN PHẨM: PHẤN NƯỚC IOPE- HÀN QUỐCPhấn IOPE là một trong những dòng mỹ phẩm. Hàn Quốc, với những tinh thể phấn siêu mịn giúp chị em che đậy khuyết điểm một cách
Kem dưỡng trẻ hoá và làm sáng da vùng mắt sulwhasoo chứa công thức thảo mộc dược liệu từ hồng sâm Hàn Quốc cùng nhiều chiết xuất khác, giúp chống lão hoá, khôi phục sức
Kem dưỡng trẻ hoá và làm sáng da vùng mắt sulwhasoo chứa công thức thảo mộc dược liệu từ hồng sâm Hàn Quốc cùng nhiều chiết xuất khác, giúp chống lão hoá, khôi phục sức
**Hán Vũ cố sự** (chữ Hán: 漢武故事, bính âm: Hàn wǔ gùshì) hay **Hán Vũ Đế cố sự** (chữ Hán: 漢武帝故事, bính âm: hàn wǔdì gùshì), đa phần nội dung của cuốn sách này cùng
**Tiếng Bình** hay **Bình thoại** (; Yale: _Pìhng Wá_; đôi khi được gọi là /) là một nhóm phương ngữ tiếng Trung Quốc được nói ở chủ yếu tại Khu tự trị dân tộc Choang
THUỘC TÍNH SẢN PHẨMNhãn hiệu:Khác.Xuất xứ:Hàn Quốc.Loại da:Mọi loại da.Hạn sử dụng: 2022.Dung tích: 180ml.Ngày sản xuất:.CHI TIẾT SẢN PHẨMNước hoa hồng Dr.Pepti Centella TonerThông tin sản phẩm:Dr.Pepti+ là hãng mỹ phẩm đến từ đất
, còn gọi là **chữ Hán tiếng Nhật**, là những chữ Hán được dùng để viết tiếng Nhật. ## Tên gọi Từ _kanji_ bắt nguồn từ từ tiếng Nhật 漢字 (chuyển tự La-tinh:
là một ngôn ngữ Đông Á được hơn 125 triệu người sử dụng ở Nhật Bản và những cộng đồng dân di cư Nhật Bản khắp thế giới. Tại Việt Nam nó cũng là một
**Phiên thiết Hán-Việt** là dùng cách **phiên thiết** (反切), tức là dùng âm của hai chữ khác (được coi là đã biết cách đọc) ghép lại để chú âm cho cách đọc âm Hán của