✨Người Tráng

Người Tráng

Người Tráng hay người Choang (Chữ Tráng Chuẩn: Bouxcuengh, //; Chữ Nôm Tráng: 佈壯; Chữ Hán giản thể: 壮族, phồn thể: 壯族, bính âm: Zhuàngzú; Chữ Thái: ผู้จ้วง, Phu Chuang) là một nhóm dân tộc sống chủ yếu ở Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây , phía nam Trung Quốc. Ngoài ra một số sống ở các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quý Châu và Hồ Nam. Họ được xếp vào một trong số 55 dân tộc thiểu số được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức công nhận.

Người khởi xướng trang "Zhuang online" (người Tráng online) đưa ra từ "rauz" (l/ra:uA2) làm tên gọi chung cho người Bố Y, Tráng và một số nhóm Tai ở Việt Nam. Dân số Tráng ước tính khoảng 18 triệu người, xếp thứ hai sau người Hán. 94 % dân số Tráng sống tại tỉnh Quảng Tây , tập trung ở phía tây và tây nam tỉnh. Thời Đông Hán (năm 40 SCN), người Tráng được gọi là Ly (Li 狸). Thời Tấn họ được gọi là Lang (Lang 狼). Cuối cùng vào thời Tống thông lệ gọi họ là "Tráng" bắt đầu hình thành, dùng chữ 獞 cho tên gọi này. Cụ thể "Tráng" là tên tự xưng được người Tráng sử dụng rộng rãi ở nửa phía bắc Quảng Tây.

Hán tự Zhuàng "獞" (hay tóng; Hán Việt: đồng; nghĩa: chó hoang) gồm phần nghĩa phù thuộc bộ khuyển (chó) 犭 và phần âm phù 童 đồng (trẻ con, trẻ thơ). Hán tự thường kết hợp một phần chỉ ý nghĩa (nghĩa phù) và một phần chỉ âm (âm phù). John DeFrancis gọi Zhuàng 獞 (gồm bộ khuyển 犭 và phần âm phù đồng 童) là một kiểu bôi xấu sắc tộc và miêu tả cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã thay thế nó như thế nào. Năm 1949, sau nội chiến Quốc-Cộng, Chữ 獞 đã chính thức được thay thế bằng Zhuàng 僮 (hay tóng; Hán Việt: Đồng; nghĩa "đứa trẻ, trẻ em), gồm "bộ nhân" (người) 亻và phần âm cũ. Hán tự dùng để chỉ dân tộc Tráng được chuyển từ 僮 sang 壮 (nghĩa: "mạnh mẽ; cường tráng") năm 1964, được ghi chép lại do gợi ý của Chu Ân Lai.

Tên tự xưng

Người Tráng không có cách thống nhất để gọi họ và ngôn ngữ của họ. Tiếng Tráng chuẩn dựa trên một phương ngữ phía bắc gọi là Tráng Ung Bắc (Yongbei Zhuang 邕北壮语) được nói tại huyện Vũ Minh (Wuming 武鸣县) tỉnh Quảng Tây. Tiếng Tráng chuẩn được xếp vào ngữ nhánh Tai Bắc, gần với tiếng Bố Y, rất ít người học loại tiếng này. Do đó người Tráng từ những vùng nói phương ngữ khác nhau sử dụng một trong số các phương ngữ Hán để giao tiếp. Theo thống kê vào thập niên 1980, 42% người Tráng chỉ nói tiếng Tráng, và 55% nói được cả tiếng Tráng và tiếng Hán. Theo một số nguồn bán chính thức "tại Quảng Tây, giáo dục bắt buộc được thực hiện bằng cả tiếng Tráng và tiếng Hán, tập trung vào sự biết đọc viết sớm chữ Tráng". Tiếng Tráng được viết bằng chữ tượng hình dựa trên Hán tự ("Sawndip" hay chữ nôm Tráng) trong hơn một nghìn năm. Chữ Tráng chuẩn, một bảng chữ cái chính thức, được đưa ra năm 1957, và năm 1982 các ký tự Kirin được đổi hết sang ký tự Latinh, tuy nhiên chữ viết dựa trên ký tự truyền thống vẫn phổ biến hơn trong các nghi lễ ít trang trọng.

Người Tráng có các bài tế được viết dưới dạng thơ, ví dụ Baeu Rodo.

Phân Chia Tráng Bắc-Tráng Nam

Theo Pingwen Huang (2002), 68% trong tổng dân số Tráng nói các phương ngữ Tráng Bắc, 32% nói các phương ngữ Tráng Nam. Năm 1999, Trương Quân Như (Zhāng Jūnrú 张均如) xác định được 13 phương ngữ. Năm 2010, Eric C. Johnson và Vương Minh Phú (Wang Mingfu 王明富) phân loại thêm 4 phương ngữ khác tại châu tự trị Tráng-Miêu Văn Sơn thuộc tỉnh Vân Nam. Cho đến nay, tổng cộng tiếng Tráng có 16 phương ngữ đã được phân loại. Các phương ngữ sau đây được liệt kê dựa trên các tên gọi tìm thấy tại Ethnologue [http://www.ethnologue.com/language/zha]:

Tráng Bắc:

1.Tráng Hồng Thủy Hà Trung tâm (Central Hongshuihe Zhuang 中红水河壮语), 2.Tráng Hồng Thủy Hà Đông (Eastern Hongshuihe Zhuang 东红水河壮语), 3.Tráng Khâu Bắc (Qiubei Zhuang 丘北壮语), 4.Tráng Quế Biên (Guibian Zhuang 桂边壮语), 5.Tráng Liên Sơn (Lianshan Zhuang 连山壮语), 6.Tráng Liễu Giang (Liujiang Zhuang 柳江壮语), 7.Tráng Liễu Kiềm (Liuqian Zhuang 柳黔壮语), 8.Tráng Quế Bắc (Guibei Zhuang 桂北壮语), 9.Tráng Ung Bắc (Yongbei Zhuang 邕北壮语), 10.Tráng Hữu Giang (Youjiang Zhuang 右江壮语).

Tráng Nam:

11.Tráng Ngưỡng (Yang Zhuang 仰壮语), 12.Tráng Mẫn (Min Zhuang 敏壯语), 13.Tráng Tả Giang (Zuojiang Zhuang 左江壮语), 14.Tráng Ung Nam (Yongnan Zhuang 邕南壮语), 15.Tráng Đại (Dai Zhuang 文麻壮语), 16.Tráng Nùng (Nong Zhuang 侬壮语).

Ngoài các phương ngữ trên còn có Tráng Phù Bình (Fuping Zhuang hoặc Pyang Zhuang 扶平壯语) không được Ethnologue liệt kê. Tráng Phù Bình thuộc nhóm Tráng Nam nói tại Phù Bình Hương (Fuping 扶平乡), huyện Đức Bảo, Quảng Tây.

Các đặc điểm ngôn ngữ khác biệt nhất phân chia Tráng Bắc và Tráng Nam: Các phương ngữ Tráng Nam tồn tại các phụ âm đầu bật hơi ph [pʰ], kh [kʰ], th [tʰ], nhưng các phương ngữ Tráng Bắc khuyết các phụ âm này, ví dụ: Tráng Tĩnh Tây tha1 'mắt' so với Lai Tân ta1; Tráng Long Châu kha3 'giết' so với Vũ Minh ka3. "r" (thường phát âm là [ɣ]) trong các phương ngữ Tráng Bắc tương ứng với một số âm trong các phương ngữ Tráng Nam, chẳng hạn như "h", "khj", "l", "n". *Giữa các phương ngữ Tráng Bắc và các phương ngữ Tráng Nam còn tồn tại các cặp âm tương ứng như sau: (bắc-nam) f~m; p~v; ɯŋ~aɯ; a:k~ɯ:k; a:n~ɯ:n.

Một số từ vựng đặc thù phân biệt Tráng Bắc và Tráng Nam được liệt kê như sau:

Trong giao tiếp nói chung, Tráng Bắc cũng dùng nhiều từ vựng vay mượn tiếng Hán hơn Tráng Nam. Ví dụ, người ta thấy các từ vay mượn trong từ vựng Tráng Bắc khi đem so sánh với các từ thuần Tráng trong các cặp từ Tráng Bắc-Tráng Nam sau: wa:n3 với tui4 'bát'; jiŋ2 với be3 'dê'; va1 với bjo:k7 'hoa'; siŋ5 với kjo:k8 'họ'.

Lịch sử ngôn ngữ

Tiếng Tráng thuộc nhánh Tai Bắc và Tai Trung Tâm trong ngữ chi Tai của ngữ hệ Kra-Dai (Tai-Kadai). Tráng Bắc và Bố Y cùng với Giáy, Saek, Nyo, Yi được xếp vào nhánh Tai Bắc, trong khi Tráng Nam, Nùng và Tày được phân loại vào nhánh Tai Trung Tâm. Là các thành viên trong ngữ hệ Kra-Dai, tiếng Tráng có cùng nguồn gốc với các ngôn ngữ khác trong ngữ chi Tai như Thái Lan, Lào, Shan, và xa hơn nữa các ngôn ngữ thuộc ngữ chi Kra, Hlai, Ong-Be. Giả thuyết phổ biến nhất hiện nay là ngữ hệ Kra-Dai có chung nguồn gốc với Austronesian, hình thành nên khối ngôn ngữ Austro-Tai đã từng được nói tại vùng duyên hải nam Trung Hoa. Kra-Dai di cư sang đảo Đài Loan 6500 năm trước và sau đó di cư trở lại vào đất liền. Tuy nhiên, thời gian và vị trí Kra-Dai di cư trở lại vào đất liền vẫn còn là đề tài tranh luận giữa các học giả nghiên cứu về vấn chủ đề này. Các bằng chứng về ngôn ngữ học lịch sử cho thấy rằng các ngôn ngữ Kra-Dai đã từng hiện diện tại vùng lưu vực sông Trường Giang, gợi ý rằng Kra-Dai sau khi rời khỏi đảo Đài Loan đã di cư về phía tây bắc lên khu vực châu thổ dòng sông này.

Wolfgang Behr (2008) chỉ ra rằng hầu hết tất cả các từ mượn phi-Hán có thể nhận dạng được trên các vật trạm khắc được khai quật vào thời nước Sở là Kra-Dai, chứ không phải là hỗn hợp H'Mông-Miền, Nam Á hay Kra-Dai. Ví dụ: *Che chắn, đắp 「、揜、錯、摩,藏也。荊楚曰,吳揚曰揜,周秦曰錯,陳之東鄙曰摩。」

「揞」ăn < Hán Cổ *ʔomX* < Hán Thượng Cổ ʔʔəm-qProto-Tai homB1 (Thái Lan homB1, Long Châu humB1, Bo'ai hɔmB1, Lào hom, Ahom hum v.v...) "đắp" | Tiền-Kam-Sui zumHɣC1* "che giấu, đắp" Cào cào/châu chấu 「蟒,...南楚之外謂之蟒。」

「蟅」zhē < Hán Cổ *tsyæ* < Hán Thượng Cổ ttak** ← Tiền-Kam-Sui thrak7-it (Mulam -hɣak8-t, Kam ʈak7-it, Then zjak7, Sui ndjak7-) "cào cào". Lợn

知~Hình:Zhī.svg~智 zhī < *trje(H)* < te(-s)**

「知」,愈也。南楚病愈者...或謂之知"

Tri, dũ dã. Nam Sở bệnh dũ giả, hoặc vị chi tri

Dịch nghĩa: "zhī nghĩa là ‘lành’. Tại phía nam nước Sở, khi một cơn bệnh khỏi... điều này thỉnh thoảng được gọi là zhī."

Tiền-Tai *ʔdiiA1 "tốt, lành" (Thái Lan diiA1, Long Châu daiA1, Bo'ai niiA1) Mẹ/phụ nữ/đàn bà Kim văn tiếng Sở thời Xuân Thu, TK 5 TCN 嬭 mĭ < mjieX* < mej-q**

← Tiền-Tai *mɛɛB*, Proto-Kam-Sui mlɛɛB, Proto-Hlai mʔaiB so sánh với. Proto-Austroasiatic me-q, Proto-Mon meʔ, Proto-Katuic mɛ(:)ʔ "mẹ" Một, thống nhất, độc nhất Kim văn dạng chuẩn: , , yī < ʔjit < ʔit "một/ trở thành một" v.v... (> tất cả các ngôn ngữ Hán sau này)
Tiếng Sở thời Chiến Quốc: 「Hình:Neng2.svg」 ← p[能] néng <
nong** < *nnəŋ

「其義Hình:Neng2.svg也」Kỳ nghĩa "năng" dã "lễ nghĩa của hắn là độc nhất"; 「能為Hình:Neng2.svg,肰然句後能為君子」Năng vị "năng",nhiễm nhiên câu hậu năng vị quân tử "nếu có thể độc nhất— thì chỉ sau khi kẻ này trở thành một quân tử"; 「Hình:Neng2.svg禱」"cúng một lần"; 「歲Hình:Neng2.svg返」"trở về một lần mỗi năm"

Tiền-Tai *hnïŋ* = hnɯŋ (Thái Lan 22nɯŋ, Dai 33nɯŋ, Long Châu nəəŋA v.v...) "một, một lần" Trắng 「𩫁」 ← p[高] gāo < Hán Cổ kaw < Hán Thượng Cổ kkaw ← Tiền-Tai xaauA1 (Thái Lan, Long Châu khaauA1, Bo'ai haauA1) "trắng" (Tiền-Mon klaɨA "trắng") Dày 「Hình:Shí.svg」 ← p[石] shí < Hán Cổ dzyek < Hán Thượng Cổ [d,l]ak** ← Tiền-Kam-Sui *ʔnak7 (Kam nak7) "dày"

Một vài ví dụ khác được Wolfgang Behr đưa ra có vẻ liên hệ tới ngữ hệ Nam Đảo và Miêu-Dao nhưng trên thực tế có nguồn gốc từ các tài liệu bị sửa đổi vào giữa thời Hán và muộn hơn.

thumb|right|Lãnh thổ giả định của [[Nhà Hạ (2070 TCN–1600 TCN).]] Bằng cách đối chiếu các phục nguyên Hán Thượng Cổ và Hán Cổ cho tên gọi Sở 楚 và Hạ 夏 với phục nguyên cho tộc danh Kra, James R. Chamberlain (2016) cho rằng Kra-Dai có nguồn gốc từ nước Sở, và tên gọi vương quốc này có nguồn gốc từ tên triều đại/tộc danh Hạ (夏) :

*Phục nguyên cho 楚 Sở:

:Karlgren Số. 88 :::Hán Thượng Cổ *tṣ’i̯o* :::Hán Cổ tṣ’i̯wo:** (= thanh C trong các ngôn ngữ Tai)

:Baxter và Sagart (2014) :::Hán Thượng Cổ *S-ṛaʔ

:Schuessler (2007) :::Hán Thượng Cổ *tṣhjwo B* (thanh B trong Hán = thanh C trong Kra-Dai) :::Hậu Hán tṣhɑ B** :::Hán Thượng Cổ Giản Thức *tshraʔ (= thanh C)

:và phục nguyên của Weera Ostapirat cho Kra :::*kra C* (< Tiền-Kra-Dai khra C**)

*Phục nguyên cho hạ 夏 (xia) và giả 假 (jia):

:Schuessler Xia 夏 < Hán Thượng Cổ ɣa B (thanh B = thanh C trong Tai) ::::::< Hậu Hán ga B ::::::< Hán Thượng Cổ Giản Thức *graʔ :::::jia 假 < Hán Thượng Cổ ka B ::::::< Hậu Hán ka B* ::::::< Hán Thượng Cổ Giản Thức krâʔ**

:Baxter và Sagart 夏 Xia < Hán Thượng Cổ *[ɢ]ʕraʔ* ::::::假 jia (Hán Việt: giả) < Hán Thượng Cổ kʕraʔ** (= thanh C)

thumb|right|Hướng di cư của [[Ngữ chi Kra|Kra và Hlai (Li [rei]).]] Chamberlain lưu ý rằng các phục nguyên cho Hạ, Sở, và Kra đều mang thanh C. Để giải thích lý do người Sở gọi mình là Hạ, Chamberlain trích dẫn Pulleyblank (1983: 413) miêu tả mối quan hệ giữa Hạ (夏) và Chu (周) như sau:

_Có lẽ có một số nhỏ quý tộc Hán cai trị các chủ thể phi Hán; hoặc, khi xét tới truyền thống của một Nhà Hạ trước kia, triều đại mà có lẽ sáng tạo ra chữ viết, những kẻ cai trị Nhà Thương ban đầu có thể không nói tiếng Hán và tiếp nhận ngôn ngữ của những chủ thể bị cai trị người Hoa Hạ. Điều tương tự cũng đúng với Nhà Chu, những kẻ rõ ràng đã sử dụng hệ thống chữ viết của nhà Thương trước cuộc xâm lăng, và hậu duệ của họ sau này tự gọi mình là Hạ._

Các phục nguyên cho tên nước Việt như sau:

*Karlgren: Hán Thượng Cổ *gi̯wǎt Baxter và Sagart: Hán Thượng Cổ [ɢ]wat Schuessler: Hán Thượng Cổ jwɐt* ::::Hậu Hán wɑt** ::::Hán Thượng Cổ Giản Thức *wat

thumb|right|Cá sấu nước mặn Crocodylus Porosus đã từng tồn tại ở vùng ven [[biển Đông, là nguồn gốc của từ ‘thuồng luồng’ (Tiền-Tai *ŋaak > ŋɯɐk, ŋɯɯk, ŋɤɤk, ŋuak) trong các ngôn ngữ Tai.]] thumb|right|Rùa mai mềm khổng lồ Pelochelys Cantorii. thumb|right|Phân bố của rùa mai mềm khổng lồ Pelochelys Cantorii. Liên quan tới nguồn gốc duyên hải của người Việt (Be-Tai), Chamberlain chỉ ra một số lượng mục từ về tên gọi các loài vật chỉ tồn tại ở vùng ven biển Đông trong các ngôn ngữ Be-Tai. Những từ này không tồn tại trong các ngôn ngữ Kam-Sui, gợi ý rằng tổ tiên của Kam-Sui không hề hiện diện ở vùng ven biển.

thumb|right|Hướng di cư của Tai Trung-Tây Nam (Lạc Việt) và Tai Bắc (Tây Âu) bắt nguồn từ nước Sở. Khi Sở xâm lược Ngô Việt khoảng năm 333 TCN, các gia đình hoàng tộc Việt di cư về phía nam hình thành nên Bách Việt. Những tên gọi như Mỵ Nương, Quan Lang, Bồ Chính đều là những từ mượn từ ngôn ngữ Tai (Thái), chính xác hơn chúng là những từ Tai bị Hán hóa. Kết luận của Liam C. Kelley như sau:

_...Hùng Vương không hề tồn tại. Thay vào đó, họ được chế ra vào thời trung cổ, là một phần trong quá trình mà tầng lớp quý tộc Hán ở đồng bằng sông Hồng đầu tiên sáng tạo ra và sau đó diễn đạt dưới dạng một bản sắc khác so với di sản văn hóa Trung Hoa (tại Giao Chỉ). Điều này không phải để nói rằng không có các hình thái xã hội tồn tại ở vùng đồng bằng sông Hồng vào thiên niên kỷ thứ nhất TCN. Trống đồng và các tạo tác nghệ thuật khác mà các nhà khảo cổ học thế kỷ 20 đã khai quật cho thấy rằng các xã hội đó chắc chắn có tồn tại. Tuy nhiên, không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng các học giả Việt Nam thời trung cổ biết về những trống đồng này hoặc những người sử dụng chúng. Đó là một truyền thuyết được chế ra vào thế kỷ 20. Tuy vậy, những gì mà tầng lớp quý tộc Hán thời trung cổ biết tới là các ghi chép cổ, và họ dựa trên những ghi chép cổ để làm tư liệu và cảm hứng để sáng tạo ra một lịch sử cũng như bản sắc địa phương cho bản thân. Tầng lớp quý tộc Hán ở đồng bằng sông Hồng không hề đơn độc trong việc này. Các học giả tại các vùng khác nhau của đế chế Trung Hoa, chẳng hạn Tứ Xuyên và Quảng Đông, tham gia vào những việc tương tự vào cùng thời. Toàn bộ trên khu vực rộng lớn này trong gần như cùng một giai đoạn, các học giả hướng con mắt và sự chú ý của mình vào vùng bản địa của họ. Họ sáng tạo ra các ghi chép về vùng đất của mình, chẳng hạn như các câu chuyện chí quái, bằng việc kiểm tra những điều đã được viết ra trước về khu vực của mình. Trong quá trình này, họ góp phần vào việc hình thành nên bản sắc địa phương. Sau cùng, công việc khơi mào bởi tầng lớp quý tộc Hán thời trung cổ ở nơi mà ngày nay là Việt Nam tiến xa nhất. Qua nhiều thế kỷ, các truyền thuyết họ sáng chế ra đã trở thành bản sắc không thể thay đổi. Thực vậy, nửa thế kỷ qua, dưới sự áp đảo của chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam, những truyền thuyết được tầng lớp quý tộc Hán tạo ra thời trung cổ tại Việt Nam ngày nay đã trở thành sự thật không thể bị thách thức._

Mối liên hệ với tiếng Thái

Vào đầu những năm 1980, nhà ngôn ngữ học người Tráng Vi Khánh Ổn (韦庆稳) sử dụng tiếng Hán Thượng Cổ được phục nguyên để giải mã tài liệu duy nhất còn sót lại về ngôn ngữ của người Yuet (Việt) Việt Nhân Ca (越人歌) (một số người cho rằng bài hát này có niên đại từ năm 528 TCN dựa vào các nhân vật có liên quan trong câu chuyện và nơi diễn ra câu chuyện là tại tỉnh Hồ Bắc ngày nay). Yue là tên gọi chỉ các cư dân sống tại khu vực miền nam sông Trường Giang ngày nay vào thời Trung Hoa cổ đại. Tuy nhiên các cư dân này bản thân họ không tự gọi mình bằng Yuet. Kết quả của Wei Qingwen cho thấy từ vựng tiếng Yuet có một sự tương đồng mạnh mẽ với tiếng Tráng hiện đại. Sau đó, Trịnh Trương Thượng Phương (郑张尚芳) (1991) đi theo hướng củaVi Khánh Ổn nhưng sử dụng chữ viết Thái Lan để so sánh vì bảng chữ cái Thái Lan có niên đại từ thế kỷ 13 và vẫn giữ được các âm cổ so với phát âm hiện đại.

thumb|right|Bản đồ phân bố [[Hệ ngôn ngữ Tai-Kadai|ngữ hệ Tai-Kadai

Ngữ chi Tai gồm:

]]

Người Thái (Thái Lan) và người Tráng, ngày nay sống rất xa nhau và hai nhóm này bản thân họ cũng có rất ít cảm giác về sự tương đồng. Nhưng vào thời đại xa xưa họ hẳn đã phải sống cùng nhau. Từ này được lấy từ tên của một quận hay nơi đồn trú của quân đội Trung Hoa gọi là Giao Chỉ (交址), thành lập ở Việt Nam khoảng năm 112 TCN, cùng tám quận khác: Nam Hải (南海), Uất Lâm (郁林), Thương Ngô (苍梧), Hợp Phố (合浦), Cửu Chân (九真), Nhật Nam (日南), Châu Nhai (珠崖), và Đam Nhĩ (儋耳). Trong các quận này, Giao Chỉ, nằm ở đồng bằng sông Hồng, là quan trọng nhất và tồn tại trong suốt 200 năm. Tên này trở thành tên gọi chỉ Việt Nam hoặc người Việt Nam không sớm hơn năm 112 TCN, và do đó nó làm căn cứ cho thời điểm sớm nhất mà người Thái di cư vào vùng Đông Nam Á. Giao trong Giao Chỉ là tên gọi mà các dân tộc phi-Tai dùng để chỉ người Tai, và chỉ sau này từ này được dùng để chỉ dân An Nam.

Sau khi bành trướng và thiết lập nền cai trị ở phương nam, các triều đại Trung Hoa bắt đầu đặt họ cho các cư dân bản địa. Quá trình này diễn ra đặc biệt mạnh mẽ vào thời Nam Bắc triều (420-589). Do đó thời gian người Thái di cư từ Quảng Tây xuống phía nam vào khu vực phía bắc Lào và Thái Lan ngày nay cũng diễn ra vào khoảng thế kỷ 8-thế kỷ 10.

*Dữ liệu lấy từ luận văn tiến sĩ (2009) của Pittayawat Pittayaporn, trang 337. Riêng tiếng Lào ແກວ /kɛːw/ lấy từ thư viện SEAlang.net.[http://www.sealang.net/lao/dictionary.htm]

Pittayawat Pittayaporn trong chuyến đi thu thập dữ liệu từ vựng của các nhóm Tai ở vùng biên giới Việt-Trung và Quảng Tây, bị ấn tượng mạnh bởi cảnh quan núi đá ở những vùng này, đã chỉ ra một vài ví dụ về sự biến đổi từ vựng dựa trên thay đổi cảnh quan địa lý diễn ra trong quá trình di cư của Tai Nguyên Thủy (proto-Tai) từ vùng Quảng Tây xuống vùng Đông Nam Á. Một trong số ví dụ đó như sau:

Tất cả các ngôn ngữ Tai đều có một từ cụ thể để chỉ núi đá. Chúng được gọi là pla trong các phương ngữ Tai Bắc ở Vũ Minh và Bình Quả (平果), pja ở Liễu Châu (柳州), pra ở Quý Cảng (贵港), pha trong phương ngữ Tai trung tâm ở Thượng Tư (上思), và ngoài ra phja trong các phương ngữ ở Đức Bảo (德保), Tĩnh Tây (井陉), và Cao Bằng. Ngược lại, trong tất cả các ngôn ngữ Tai Tây Nam, từ này chỉ những chủ thể mơ hồ. Mo Giáo có các bài tế riêng và các thầy tế được gọi là bu mo (Pù Mo). Trong các nghi thức Mo truyền thống, thầy Mo dùng xương gà để xem quẻ. Trong Mo Giáo, đấng tạo hóa là Bu Luotuo và vũ trụ gồm ba yếu tố với tất cả mọi vật được hình thành từ ba yếu tố này, gồm: trời, đất và nước.

Người Tráng cũng có một số theo Phật giáo, Đạo Giáo và Thiên chúa giáo.

Lịch sử

Tiền lịch sử

Trong khi các nhà khoa học Trung Quốc tiếp tục đặt "ngôn ngữ Tráng-Đồng" vào hệ ngữ Hán-Tạng, thì các nhà ngôn ngữ học ngày nay đặt nhóm ngôn ngữ này vào hệ ngôn ngữ Tai–Kadai, với giả thuyết phổ biến nhất là có nguồn gốc Nam đảo, có thể khởi nguồn từ Đài Loan và dư cư về phía tây nam qua Trung Hoa ngày nay.

Thời kỳ đế chế Trung Hoa

Các ghi nhận lịch sử sớm nhất về người Tráng được khám phá cho đến nay là Bích họa Hoa Sơn (花山壁画), có từ thời chiến quốc (475–221 TCN).

Có rất ít các ghi chép tiếng Hán trước khi người Hán xâm nhập vào khu vực người Tráng, sự ám chỉ đơn giản đến vùng đất phía nam sông Trường Giang là "Bách Việt" (百越). Những cuộc xâm lấn phương nam của Tần Thủy Hoàng được trình bày trong sử ký của Tư Mã Thiên. Cuộc tấn công lúc đầu vào vùng Lĩnh Nam đã tỏ ra thảm bại, với sự thất bại của tướng Đồ Thư trong trận đánh năm 218 TCN, nhưng công binh của ông, Sử Lộc đã hoàn thành việc xây dựng kênh Linh nối liền hai con sông Tương Giang và Ly Giang. Năm 214, Triệu Đà và Nhâm Ngao quay trở lại và bình định tộc người Tây Âu, khai phá Quảng Tây và phía nam với sự nhập cư của hàng trăm nghìn người Hán.

Một thập kỷ sau sự sụp đổ của Nhà Tần, Triệu Đà sử dụng vị trí của mình với tư cách là quận úy Quận Nam Hải, lập nước Nam Việt và đặt thủ đô ở Phiên Ngung. Với giải pháp quy thuận và độc lập khỏi sự kiểm soát của Nhà Hán, vương quốc này đã mở rộng sự thực dân và Hán hóa bằng chính sách "hòa hợp bách việt" (和集百越) cho đến năm 211 TCN nhưng không được sự ủng hộ của người Tráng.

Nhà Hán đã giảm bớt quyền lực địa phương và lập các căn cứ quân sự ở Quế Lâm, Ngô Châu, và Ngọc Lâm. Cuộc nổi dậy ở Giao Chỉ do Hai Bà Trưng lãnh đạo bị tướng Mã Viện đàn áp năm 42, Mã Viện được ghi nhận với tư cách giúp bình định những vùng này bằng việc cải thiện hệ thống tưới tiêu và nhiều điều luật Hán. Cuộc di cư của Người Dao từ vùng gần Trường Sa, Hồ Nam tới Quảng Tây ngày nay đã làm đảo lộn khu vực này.

Dưới thời Đường, người Tráng chuyển sang ủng hộ vương quốc Thái là Nam Chiếu ở Vân Nam, nước này đã đẩy lui hai cuộc tấn công của quân Đường năm 751 và 754. Quảng Tây khi ấy được chia thành hai vùng: một là vùng thuộc thế lực của người Tráng phía tây Nam Ninh và một là vùng thế lực của người Hán phía đông Nam Ninh.

Sau khi Nam Chiếu sụp đổ, Lưu Nghiễm thành lập nước Nam Hán. Nước này hầu như không thể kiểm soát được người Tráng, sau đó Nam Hán bị Tống đánh chiếm và sáp nhập năm 971.

Bị quấy rối bởi cả Tống lẫn Đại Cồ Việt, lãnh đạo Tráng tộc là Nông Trí Cao (侬智高) đã chỉ huy cuộc nổi dậy năm 1052, vì điều đó mà ông vẫn được người Tráng tưởng nhớ. Họ Nông được ghi chép lại trong Tống Sử là giàu có về vàng, đông đúc về dân số "để tóc dài, cài áo sang phía trái. Chúng thích chiền đấu và xem nhẹ cái chết". Quân Nông càn quét sang phía tây, chiếm Nam Ninh, bao vây Quảng Châu 57 ngày, và giết các chỉ huy của năm đội quân Trung Hoa được cử đi đánh họ. Cuối cùng họ bị đánh bại và nhiều thủ lĩnh bị giết. cho đến khi Quân bình định Quảng Tây của Lý Tông Nhân lập ra Tân Quế Hệ (新桂系) do Lý, Hoàng Thiệu Hoành và Bạch Sùng Hy đứng đầu.

Trận đánh thắng lợi ở Hồ Nam chống lại Ngô Bội Phu dẫn đến quân bình bịnh Quảng Tây của người Tráng được gọi là "quân thần tốc" và "quân thép". Sau cái chết của Tôn Dật Tiên, Lý còn đánh lui cuộc biến loạn của Đường Kế Nghiêu trong chiến tranh Vân Nam-Quảng Tây và tham gia chiến tranh Bắc Phạt thiết lập sự kiểm soát của phe Quốc Dân Đảng với các tướng quân phiệt khác. Quân của ông là một trong số ít đơn vị Quốc Dân Đảng không bị ảnh hưởng của cộng sản và vì vậy được Tưởng Giới Thạch sử dụng trong Cuộc thảm sát Thượng hải năm 1927.

Sau mối bất hòa với Tưởng, Lý đã tham gia vào cuộc nổi loạn của Diêm Tích Sơn trong cuộc Trung Nguyên Đại Chiến tháng 5 năm 1930. Sự bại trận của ông đã không loại bỏ ông khỏi sự kiểm soát Quảng Tây, với Sự cố Mãn Châu và cuộc xâm lược của Nhật Bản đã ngăn cản Tưởng và phe Cộng sản loại bỏ ảnh hưởng của ông cho đến năm 1949. Trong chiến tranh thế giới thứ 2, Quảng Tây là một mục tiêu chính cho các cuộc tấn công của Nhật Bản. Chiến dịch Ichi-Go năm 1944 thành công đã mở rộng sự kiểm soát của Nhật Bản dọc tuyến đường sắt qua Quảng Tây vào Đông Dương thuộc Pháp, nhưng tuyến đường này vẫn bị tấn công liên tục bởi các máy bay ném bom Mỹ và nhóm bán quân sự người Tráng dưới quyền Bạch Sùng Hy.

Trong lịch sử Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa hiện đại, vào ngày 05 tháng 3 năm 1958, tỉnh Quảng Tây được đổi thành Khu tự trị Quảng Tây. Vào ngày 12 tháng 10 năm 1965, được phê chuẩn bởi Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Khu tự trị Quảng Tây được đổi tên thành Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, tự trị người Tráng. Từ năm 1979 đến 2020, có bảy người Tráng giữ cương vị Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, tương ứng với Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân quản lý hành chính Quảng Tây.

Thư viện ảnh

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Người Tráng** hay **người Choang** (Chữ Tráng Chuẩn: Bouxcuengh, //; Chữ Nôm Tráng: 佈壯; Chữ Hán giản thể: 壮族, phồn thể: 壯族, bính âm: Zhuàngzú; Chữ Thái: ผู้จ้วง, _Phu Chuang_) là một nhóm dân tộc
nhỏ|Trống đồng của người Tráng nhỏ|Nhà sàn của người Tráng Dân tộc Tráng sở hữu một bề dày truyền thống văn hóa và đa dạng phong tục tập quán. ## Truyện kể Người Tráng ở
[[Hoàng Hiện Phan được xem là người sáng lập ra Tráng học.]] **Choang học** hoặc **Tráng học** (tiếng Tráng: Cuenghhag/Cang’yoz; chữ Hán giản thể: 壮学; chữ Hán phồn thể: 壯學; pinyin: Zhuàngxué) là một ngành
MÔ TẢ SẢN PHẨMÁo người trắng phi hành gia HSU0220 Thông tin sản phẩm:Chất liệu: TixiMàu sắc: Đen, tímNếu là Sản phẩm nữ Free size dưới 1m62, 40-g tùy chiều caoNếu là Sản phẩm nam
**Trang Khiếu** (tên thật là **_Khiếu Thị Huyền Trang_**) là một người mẫu, nhà thiết kế thời trang người Việt Nam. Cô là quán quân mùa đầu tiên của cuộc thi Vietnam's Next Top Model.
**Người Gia Rai**, còn gọi là **Jarai** (**Jrai**) hay **Ană Krai** (con của rồng), là một dân tộc cư trú ở vùng Tây Nguyên của Việt Nam, đa số là tại Gia Lai và một
**Người Bố Y** (; ; Tiếng Bố Y: ; Tiếng Tráng: ), còn gọi là **Chủng Chá**, **Trọng Gia**, **Tu Dí**, **Tu Dìn** hay **Pu Nà**, là một dân tộc cư trú ở vùng nam
**Người Nùng**, là một trong số 54 nhóm sắc tộc được chính phủ Việt Nam chính thức phân loại. Người Nùng nói tiếng Nùng, là ngôn ngữ thuộc ngữ chi Tai của ngữ hệ Tai-Kadai.
Cọ Trang Điểm NOXBEAUTY [ Bộ 12 Cái ] Chuyên Nghiệp Hỗ Trợ Trang ĐiểmBộ cọ có thể đáp ứng mọi nhu cầu trang điểm hàng ngày của bạn từ trang điểm cơ bản đến
Kem trang điểm trắng da thảo mộc Spapro 40gDòng kem trang điểm được chiết xuất từ các thành phần thảo dược thiên nhiên mang đến nhiều công dụng tuyệt vời cho làn da của bạnĐặc
Kem trang điểm trắng da thảo mộc Spapro 40g Dòng kem trang điểm được chiết xuất từ các thành phần thảo dược thiên nhiên mang đến nhiều công dụng tuyệt vời cho làn da của
Kem trang điểm trắng da thảo mộc Spapro 40gDòng kem trang điểm được chiết xuất từ các thành phần thảo dược thiên nhiên mang đến nhiều công dụng tuyệt vời cho làn da của bạnĐặc
Chị em đang loay hoay tìm kiếm 1 bộ cọ trang điểm vừa Bền vừa Rẻ, Đẹp Mắt mà lại Tiện Dụng, Gọn Nhẹ có thể dễ dàng mang đến nhiều nơi, vậy nên Thế
Kem trang điểm trắng da thảo mộc Spapro 40g Dòng kem trang điểm được chiết xuất từ các thành phần thảo dược thiên nhiên mang đến nhiều công dụng tuyệt vời cho làn da của
Kem trang điểm trắng da thảo mộc Spapro 40gDòng kem trang điểm được chiết xuất từ các thành phần thảo dược thiên nhiên mang đến nhiều công dụng tuyệt vời cho làn da của bạnĐặc
Kem trang điểm trắng da thảo mộc Spapro 40gDòng kem trang điểm được chiết xuất từ các thành phần thảo dược thiên nhiên mang đến nhiều công dụng tuyệt vời cho làn da của bạnĐặc
Kem trang điểm trắng da thảo mộc Spapro 40gDòng kem trang điểm được chiết xuất từ các thành phần thảo dược thiên nhiên mang đến nhiều công dụng tuyệt vời cho làn da của bạnĐặc
Những lợi ích mà Kem Dưỡng Trắng Da Forencos mang đến cho làn da ✔ Dưỡng ẩm sâu cho da Với kết cấu mịn, hàm lượng axit béo palmitic cao, kem dưỡng Forencos sẽ tạo
MÔ TẢ SẢN PHẨMCam kết hàng chuẩn y hệt hìnhGiá luôn tốt Thiết kế xinh xắn, tiện dụng và dễ đánh, dễ tán. Với 2 màu cam : nâu đồng thì phù hợp với mọi
Kem trang điểm trắng da thảo mộc Spapro 40gDòng kem trang điểm được chiết xuất từ các thành phần thảo dược thiên nhiên mang đến nhiều công dụng tuyệt vời cho làn da của bạnĐặc
Kem trang điểm trắng da thảo mộc Spapro 40g Dòng kem trang điểm được chiết xuất từ các thành phần thảo dược thiên nhiên mang đến nhiều công dụng tuyệt vời cho làn da của
Kem trang điểm trắng da thảo mộc Spapro BB01 40gDòng kem trang điểm được chiết xuất từ các thành phần thảo dược thiên nhiên mang đến nhiều công dụng tuyệt vời cho làn da của
Kem trang điểm trắng da thảo mộc Spapro BB02 40gDòng kem trang điểm được chiết xuất từ các thành phần thảo dược thiên nhiên mang đến nhiều công dụng tuyệt vời cho làn da của
Kem trang điểm dưỡng trắng da Beauty Life BB03 50gThành phần sản phẩm chiết xuất từ thiên nhiên, nuôi dưỡng da trắng mịn từ bên trong. Kết cấu kem siêu mịn với các hạt nano
Kem trang điểm dưỡng trắng da BeautyLife BB02 50gThành phần sản phẩm chiết xuất từ thiên nhiên, nuôi dưỡng da trắng mịn từ bên trong. Kết cấu kem siêu mịn với các hạt nano chống
Kem trang điểm dưỡng trắng da Beauty Life BB01 50gThành phần sản phẩm chiết xuất từ thiên nhiên, nuôi dưỡng da trắng mịn từ bên trong. Kết cấu kem siêu mịn với các hạt nano
Kem trang điểm trắng da thảo mộc Spapro BB03 40gDòngkem trang điểm được chiết xuất từ các thành phần thảo dược thiên nhiên mang đến nhiều công dụng tuyệt vời cho làn da của bạn1.
Gương gỗ để bàn chữ nhật đi kèm bút dạ trắng Các nàng có biết để có lớp makeup đẹp ngoài mỹ phẩm ra còn phụ thuộc vào chiếc gương của bạn rất nhiều không?
Sản phẩm được làm từ những sợi tự nhiên tinh khiết cung cấp khả năng tuyệt vời để giữ phấn trang điểm, mềm mại và phù hợp cho làn da của bạn. Một sản phẩm
KEM TRANG ĐIỂM TOÀN THÂN MAKEUP FOREVER COLLAGEN+ LANGCE Tự tin cùng nàng dạo phố - Che khuyết điểm hoàn hảo. - Điều chỉnh tông màu da. - Làm trắng da đẹp tự nhiên. -
MÔ TẢ SẢN PHẨMDưỡng kem không trắng nhưng LỘT LÀ TRẮNG❗️Tắm trắng không trắng nhưng LỘT LÀ TRẮNG❗️Xài kem lâu năm vẫn không thấy trắng nhưng LỘT LÀ TRẮNG❗️Da chai lì ngâm đen,đen bẫm sinh,nghỉ
KEM TRANG ĐIỂM TOÀN THÂN MAKEUP FOREVER COLLAGEN+ LANGCE Tự tin cùng nàng dạo phố - Che khuyết điểm hoàn hảo. - Điều chỉnh tông màu da. - Làm trắng da đẹp tự nhiên. -
MÔ TẢ SẢN PHẨMDưỡng kem không trắng nhưng LỘT LÀ TRẮNG❗️Tắm trắng không trắng nhưng LỘT LÀ TRẮNG❗️Xài kem lâu năm vẫn không thấy trắng nhưng LỘT LÀ TRẮNG❗️Da chai lì ngâm đen,đen bẫm sinh,nghỉ
MÔ TẢ SẢN PHẨM Đây là sản phẩm khi ra mắt đã nhận được rất nhiều sự khen ngợi từ khách hàng, cho dù bạn là người trang điểm chuyên nghiệp hay mới tập đều
MÔ TẢ SẢN PHẨMMã Hàng: BB020866Xuất xứ: Hàn QuốcHãng sản xuất: innisfreeHSD: 3 năm kể từ NSXCông dụng:– Đây là sản phẩm khi ra mắt đã nhận được rất nhiều sự khen ngợi từ khách
Thông tin sản phẩm: Bộ 8 cọ trắng trang điểm sang trọngChất liệu: sơn gỗ + ống nhôm + sợi tổng hợp- Thiết kế sang trọng, chắc tay giúp thao tác trang điểm dễ dàng-
MÔ TẢ SẢN PHẨM Đây là sản phẩm khi ra mắt đã nhận được rất nhiều sự khen ngợi từ khách hàng, cho dù bạn là người trang điểm chuyên nghiệp hay mới tập đều
MÔ TẢ SẢN PHẨMMã Hàng: BB020866Xuất xứ: Hàn QuốcHãng sản xuất: innisfreeHSD: 3 năm kể từ NSXCông dụng:– Đây là sản phẩm khi ra mắt đã nhận được rất nhiều sự khen ngợi từ khách
MÔ TẢ SẢN PHẨM Đây là sản phẩm khi ra mắt đã nhận được rất nhiều sự khen ngợi từ khách hàng, cho dù bạn là người trang điểm chuyên nghiệp hay mới tập đều
MÔ TẢ SẢN PHẨM Đây là sản phẩm khi ra mắt đã nhận được rất nhiều sự khen ngợi từ khách hàng, cho dù bạn là người trang điểm chuyên nghiệp hay mới tập đều
TẨY TẾ BÀO CHẾT COLLAGEN TRẮNG DA CẤP ẨM NGỪA MỤN LANGCE - Tẩy tế bào chết là một liệu trình không thể thiếu trong việc chăm sóc da. Thậm chí được xem là giai
TẨY TẾ BÀO CHẾT COLLAGEN TRẮNG DA CẤP ẨM NGỪA MỤN LANGCE - Tẩy tế bào chết là một liệu trình không thể thiếu trong việc chăm sóc da. Thậm chí được xem là giai
Thông tin sản phẩm: Bộ 7 cọ xanh ombre trang điểm sang trọngChất liệu: sơn bóng + ống nhôm + sợi tổng hợp- Thiết kế sang trọng, chắc tay giúp thao tác trang điểm dễ
Thông tin sản phẩm: Bộ 11 cọ nhung 2 màu trang điểm cá nhânChất liệu: sơn gỗ + sợi tổng hợp- Thiết kế sang trọng, chắc tay giúp thao tác trang điểm dễ dàng- Gồm
Thông tin sản phẩm: Bộ 13 cọ xanh lá trang điểm cơ bảnChất liệu: sơn gỗ + ống nhôm + sợi tổng hợp- Gồm 5 cọ trang điểm mặt, 4 cọ mắt, 4 cọ bổ
Thông tin sản phẩm: Bộ 11 cọ nhung 2 màu trang điểm cá nhânChất liệu: sơn gỗ + sợi tổng hợp- Thiết kế sang trọng, chắc tay giúp thao tác trang điểm dễ dàng- Gồm
Thông tin sản phẩm: Bộ 12 cọ mắt 2 màu trang điểm cá nhânChất liệu: sơn gỗ + sợi tổng hợp- Thiết kế sang trọng, chắc tay, và nhỏ gọn giúp thao tác trang điểm
Bộ cọ trang điểm 14 cây cọ. Bộ cọ trang điểm 14 cây gồm 5 cọ định hình khuôn mặt, 4 cọ phấn mắt và 5 cọ bổ sung. Chất liệu cọ được làm bằng
**Người Thái** tại Trung Quốc (tiếng Thái Lặc: tai⁵¹ lɯ¹¹ , phiên âm Hán-Việt: Thái tộc) là tên gọi được công nhận chính thức cho một vài nhóm sắc tộc sinh sống trong khu vực
MÔ TẢ SẢN PHẨMLà con gái ai cũng muốn mình trông thật xinh đẹp, đáng yêu trong mắt mọi người .Trang điểm một đặc quyền riêng của phái nữ.Tô điểm chút son phấn trước khi