✨Người Nùng
Người Nùng, là một trong số 54 nhóm sắc tộc được chính phủ Việt Nam chính thức phân loại. Người Nùng nói tiếng Nùng, là ngôn ngữ thuộc ngữ chi Tai của ngữ hệ Tai-Kadai. Người Nùng có văn hóa, ngôn ngữ giống với dân tộc Tày và với một số nhánh người Tráng tại Trung Quốc.
Người Nùng sống tập trung ở các tỉnh đông bắc Bắc Bộ như Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang v.v (chiếm tới 84%). Hiện tại, một lượng lớn đã di cư vào các tỉnh Tây Nguyên (11 %), chủ yếu tại Đắk Lắk. Quá trình di cư này bắt đầu vào năm 1954, khi Việt Minh kiểm soát miền bắc Việt Nam.
Người Nùng có quan hệ gần gũi với người Tày và người Tráng sống dọc biên giới với Trung Quốc. Tại Trung Quốc, người Nùng cùng với người Tày được xếp chung vào dân tộc Tráng. Người Nùng không chỉ là anh em họ hàng với người Tày, Tráng mà là cả chính người Kinh (do ADN của các sắc tộc Tai/Thái có nhiều điểm giống nhau với ADN người Việt/Kinh).
thumb|right|Bản đồ phân bố tỷ lệ phần trăm người [[Tày+Nùng+Giáy+Bố Y theo thống kê năm 2009 tại các tỉnh Việt Nam:
Lạng Sơn 78.3%, Cao Bằng 72.1%, Bắc Kạn 62.3%
]] thumb|Bản đồ phân bố tỷ lệ phần trăm [[người Tráng+Bố Y so với các sắc tộc khác tại Quảng Tây, châu tự trị Tráng-Miêu Văn Sơn (Vân Nam), huyện tự trị Tráng-Dao Liên Sơn (Quảng Đông) và một phần tỉnh Quý Châu.]]
Dân số và địa bàn cư trú
Dân số theo Thống kê dân số Việt Nam năm 1999 là 856.412 người Chính phủ Việt Nam chính thức tuyên bố người Nùng là một trong số 54 nhóm sắc tộc vào 1979. Tên gọi "Nùng", với tư cách là một tộc danh, được chính thức công nhận và gán ghép cho những nhóm cư dân cụ thể này tại Việt Nam liên quan nhiều đến sự vận động chính trị của các nhà nước-dân tộc và sự thiết lập của các đường biên giới quốc gia nơi không có ai tồn tại trước người Nùng cũng nhiều như nó liên quan tới hệ thống phân loại dân tộc của Việt Nam và sự tự nhận thức dân tộc..
Riêng nhóm Nùng An ở Quảng Uyên và Nùng Vẻn là có tiếng riêng, tiếng Nùng An có đặc điểm giống ngôn ngữ nhóm Tai Bắc. Tiếng Nùng Vẻn ở một bản thuộc Hà Quảng được xác định là tiếng Bố Ương thuộc Ngữ chi Kra.
Ngôn ngữ
Tiếng Nùng là một nhóm các ngôn ngữ thuộc ngữ chi Tai trong ngữ hệ Tai-Kadai. Hầu hết các phương ngữ Nùng đều được xếp vào nhóm Tai Trung tâm. Tuy nhiên Nùng An (và Tráng Long'an tại Quảng Tây, Trung Quốc) mang cả hai đặc điểm của nhóm Tai Bắc và Tai Trung tâm về mặt âm vị và từ vựng. André Haudricourt xếp phương ngữ Nùng An cùng ba ngôn ngữ khác ở Việt Nam: Yáy (Giáy), Cao Lan, Ts'ưn-wa (tiếng Thôn Lão) vào một nhóm riêng mà ông gọi là "Yáy". Yáy của Haudricourt tương đương với nhóm Tai Bắc được Lý Phương Quế phân loại.
Lịch sử
Tiền sử
right|thumb|Hướng di cư của marker di truyền M119 (pre-Austronesian; đường màu tím), theo Jerold A. Edmondson. Dựa trên các chứng cứ về di truyền, Jerold A. Edmondson cho rằng tổ tiên của các cư dân nói ngôn ngữ Tai-Kadai di cư từ Ấn Độ tới Myanmar, rồi sau đó tới Vân Nam (Trung Quốc) khoảng 20.000 năm trước. Họ sau đó di cư xuống phía nam vào Thái Lan và Lào rồi sau đó vòng lên phía bắc tới miền bắc Việt Nam rồi tiếp tục di cư vào lãnh thổ Trung Quốc ngày nay. Sau đó một nhóm quay lại đại lục khoảng 4000 năm trước và ngay sau đó hai nhánh Kra (Kadai) và Hlai tách ra khỏi Proto-Daic. Kra di cư sâu vào đất liền qua Quảng Châu, còn nhánh Hlai di cư sang đảo Hải Nam. Gần như chắc chắn rằng sự di cư của các cư dân Daic được thúc đẩy bởi động cơ nông nghiệp vì dạng nguyên thủy của Daic (Proto-Tai-Kadai) dành cho các từ vựng về hoa màu và vật nuôi có thể được phục nguyên. Ostapirat (2000) chỉ ra rằng các từ gồm "lợn", "chó" và ít nhất một số loại hoa màu đều tồn tại ở cả ba nhánh của Daic. Sau đó Benedict (1990) mở rộng quan điểm của mình để thêm cả tiếng Nhật vào Austro-Thai, một hướng đi mà ít người ủng hộ. Trong một khoảng thời gian ngắn, giữa 4.000 đến 2.000 năm TCN, các cư dân nói các ngôn ngữ Nam Đảo nhanh chóng di cư ra khắp Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, Robert Blust không chấp nhận lý thuyết này của Sagart chỉ ra rằng các ngôn ngữ Tai-Kadai (tiếng Buyang 布央 là trường hợp đáng chú ý nhất) chỉ có khoảng 15 từ cùng gốc với các ngôn ngữ trong nhóm "Muish" như Tagalog hoặc Malay, trong khi hầu hết các ngôn ngữ Formosan trên đảo Đài Loan—nhóm mà Sagart xếp ngoài "Muish" và có ít quan hệ hơn—lại chia sẻ 200-300 từ cùng gốc với các ngôn ngữ Tagalog hoặc Malay. Tên gọi Puluqish có nguồn gốc từ cách tân *puluq, tức số "mười" (10) trong proto-Malayo-Polynesian và 3 ngôn ngữ Nam Đảo Formosan trên đảo Đài Loan là: Paiwan, Puyuma, Amis.
thumb|Sự phân bố của các ngôn ngữ Nam Đảo Formosan trên [[đảo Đài Loan trước khi bị người Trung Quốc xâm chiếm.
]]
* Laurent Sagart (2008:151). Trích từ Li Jinfang (1999). [https://www.academia.edu/3077307/The_expansion_of_Setaria_farmers_in_East_Asia]. TMP=Tây Malayo-Polynesian.
Roger Blench (2008:6). Trích từ Norquest (2007: 413). [http://www.rogerblench.info/Archaeology/SE%20Asia/Leiden%202008/Daic%20prehistory%20paper%20EURASEAA%202008%20offprint.pdf]. PMP=proto-Malayo-Polynesian. Pre-Hlai (Hlai Tiền Sử) là một dạng tồn tại trước Proto-Hlai (Hlai Nguyên Thủy).
*Laurent Sagart (2004:49).[https://halshs.archives-ouvertes.fr/file/index/docid/90906/filename/THE_HIGHER_PHYLOGENY_OF_AUSTRONESIAN.pdf]. An=Austronesian, Tk=Tai-Kadai.
right|thumb|Hướng di cư của Tai-Kadai sau khi trở lại đất liền theo giả thuyết Đông Bắc-Tây Nam của Matthias Gerner (2014) [http://iscll-14.ling.sinica.edu.tw/files-pdf/Papers/Session4/Gerner.pdf]. Xem thêm Chamberlain (2016) Kra-Dai and the Proto-History of South China and Vietnam [http://www.academia.edu/26296118/Kra-Dai_and_the_Proto-History_of_South_China_and_Vietnam]. Các ngôn ngữ Tai-Kadai chia sẻ ít sự tương đồng với proto-Austronesian (PAN) hơn các ngữ chi phát triển từ PAN có thể được giải thích bằng lịch sử đặc biệt của chúng. Ví dụ: *Che chắn, đắp 「揞、揜、錯、摩,藏也。荊楚曰揞,吳揚曰揜,周秦曰錯,陳之東鄙曰摩。」
「揞」ăn < Hán Cổ *ʔomX* < Hán Thượng Cổ ʔʔəm-q ← Proto-Tai homB1 (Thái Lan homB1, Long Châu humB1, Bo'ai hɔmB1, Lào hom, Ahom hum v.v...) "đắp" | Proto-Kam-Sui zumHɣC1* "che giấu, đắp" Cào cào/châu chấu 「蟒,...南楚之外謂之蟅蟒。」
「蟅」zhē < Hán Cổ *tsyæ* < Hán Thượng Cổ ttak** ← Proto-Kam-Sui thrak7-it (Mulam -hɣak8-t, Kam ʈak7-it, Then zjak7, Sui ndjak7-) "cào cào". Lợn
知~Tập tin:Zhī.svg~智 zhī < *trje(H)* < te(-s)**
「知」,愈也。南楚病愈者...或謂之知"
"zhī nghĩa là 'lành'. Tại phía nam nước Sở, khi một cơn bệnh khỏi... việc này thỉnh thoảng được gọi là zhī."
← Proto-Tai *ʔdiiA1 "tốt, lành" (Thái Lan diiA1, Long Châu daiA1, Bo'ai niiA1) Mẹ/phụ nữ/đàn bà Kim văn tiếng Sở thời Xuân Thu, TK 5 TCN 嬭 mĭ < mjieX* < mej-q**
← Proto-Tai *mɛɛB*, Proto-Kam-Sui mlɛɛB, Proto-Hlai mʔaiB so sánh với. Proto-Austroasiatic me-q, Proto-Mon meʔ, Proto-Katuic mɛ(:)ʔ "mẹ"
Một, thống nhất, độc nhất
Kim văn dạng chuẩn: 一, 壹, 弌 yī < ʔjit < ʔit "một/ trở thành một" v.v... (> tất cả các ngôn ngữ Hán sau này)
Tiếng Sở thời Chiến Quốc: 「Tập tin:Neng2.svg」 ← p[能] néng < nong** < *nnəŋ
「其義Tập tin:Neng2.svg也」"lễ nghĩa của hắn là độc nhất"; 「能為Tập tin:Neng2.svg,肰然句後能為君子」"nếu có thể thống nhất— thì chỉ sau khi kẻ này trở thành một quân tử"; 「Tập tin:Neng2.svg禱」"cúng một lần"; 「歲Tập tin:Neng2.svg返」"trở về một lần mỗi năm"
← Proto-Tai *hnïŋ* = hnɯŋ (Thái Lan 22nɯŋ, Dai 33nɯŋ, Long Châu nəəŋA v.v...) "một, một lần" Trắng 「𩫁」 ← p[高] gāo < Hán Cổ kaw < Hán Thượng Cổ kkaw ← Proto-Tai xaauA1 (Thái Lan, Long Châu khaauA1, Bo'ai haauA1) "trắng" (Proto-Mon klaɨA "trắng") Dày 「Tập tin:Shí.svg」 ← p[石] shí < Hán Cổ dzyek < Hán Thượng Cổ [d,l]ak** ← Proto-Kam-Sui *ʔnak7 (Kam nak7) "dày"
Ký hiệu trong các từ Hán Cổ và Hán Thượng Cổ phục nguyên: yếu tố nằm trong "()" biểu thị nó thể tồn tại hoặc không không tồn tại do các bằng chứng hiện có không đủ để khẳng định được điều đó. Yếu tố nằm trong "[ ]" biểu thị rằng hoặc nó có thể tồn tại hoặc nó là một yếu tố khác mà dẫn đến cùng một kết quả khi phục nguyên Hán Cổ. Ví dụ, phục nguyên Hán Thượng Cổ pˤra[t]-s của 敗 (bài) 'bại' nghĩa là âm nằm trong "[ ]" hoặc là -t hoặc một âm nào đó khác (trong trường hợp này là -p) mà dẫn đến kết quả phục nguyên Hán Cổ là -t. Gạch ngang "-" biểu thị ranh rới ngăn cách hình vị. Các ký tự "-H", "-X" biểu thị thanh điệu, "-H" tức thượng thanh và "-X" tức khứ thanh. p[ ] (như trong p[高]) biểu thị âm phù (phonetic component) của chữ Hán nằm trong 「 」**.
right|thumb|Cuối thời [[Xuân Thu, thế kỷ thứ V TCN, trước khi nước Tấn tan rã và nước Tần đánh chiếm Bồn địa Tứ Xuyên. Các vương quốc phía nam gồm: Sở, Ngô, Việt.]]
Điều này gợi lên khả năng là những nghệ nhân khắc chữ tại nước Sở được tuyển dụng từ các cư dân nước Việt Chiến quốc. Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy rằng không chỉ các lăng mộ kiểu Ngô Việt phân bố rộng rãi, mà ít nhất một phần lớn dân số tại phía nam nước Sở là người Ngô Việt. Ví dụ, hoàng tộc của nước Sở có họ là hùng (熊) tức 'gấu', nhưng trong tiếng Sở nó được gọi là mị (芈), đây là một từ Kam-Tai dành cho 'gấu'. Trịnh Trương (1998) trong loạt các bài báo và chương sách đã cung cấp các lập luận chi tiết ủng hộ việc xác định các vết tích còn sót lại của tiếng "Việt cổ" là một ngôn ngữ có liên hệ tới tiếng Tai. Trịnh Trương (1991) diễn giải tài liệu hoàn chỉnh duy nhất còn sót lại về ngôn ngữ Việt "Việt Nhân Ca" (越人歌) bằng cách sử dụng tiếng Hán Thượng Cổ do chính ông phục nguyên cho lời bài hát và đối chiếu với chữ viết Thái Lan có niên đại từ thế kỷ XIII và kết quả cho thấy rằng hai ngôn ngữ này gần như tương đương nhau. Laurent Sagart (2008:143) cho rằng các học giả tại Trung Quốc thường mặc nhiên xem ngôn ngữ Việt là một dạng ban đầu của Tai-Kadai và chỉ trích bản diễn dịch "Việt Nhân Ca" của Trịnh Trương Thượng Phương là gây tranh cãi. Trong một bài báo có ảnh hưởng năm 1976, hai nhà ngôn ngữ học Jerry Norman và Mei Tsu-lin đề xuất một nền tảng ngôn ngữ Austro-Asiatic (AA) cho các văn hóa Việt hình thành ở khu vực phía nam và đông nam Trung Hoa vào Thời đại đồ đá mới và Thời đại đồ đồng, và có lẽ ngay cả trong thời kỳ Chiến Quốc (464—221 TCN). Tuy nhiên, khi xem xét lại bốn trong số các từ cơ bản mà Norman và Mei đưa ra, gồm: chết, đồng, biết, chó, Laurent Sagart kết luận rằng không có bằng chứng thuyết phục nào, về mặt ngôn ngữ hoặc các khía cạnh khác, cho sự hiện diện của một dạng AA ban đầu tại vùng duyên hải đông nam Trung Hoa. và nếu ngôn ngữ trong "Việt Nhân Ca" là một ngôn ngữ thuộc nhóm Tai-Kadai, và nếu giả thuyết Tai-Kadai (là một phân nhánh PAN) của Sagart là chính xác thì người Việt nhiều khả năng nói một dạng PAN, chứ không phải AA như Norman và Mei đề xuất. Ba khối ngôn ngữ—Nam Đảo (bao gồm cả Tai-Kadai), Austro-Asiatic, và Hmong-Mien—cùng tồn tại tại khu vực nam Trung Hoa cổ, và hàng ngàn ngôn ngữ trong ba khối ngôn ngữ này được các nhóm cư dân khác nhau nói vào thời cổ đại. Trong số này, nhóm Luo Yue (Lạc Việt) sống tại vùng tây nam Quảng Tây và bắc Việt Nam. Họ được cho là chủ nhân của các bức vẽ trên sườn dốc đứng của núi Hoa Sơn nằm ở huyện Ninh Minh gần biên giới Việt-Trung, được tạo ra vào khoảng thời gian giữa thời Chiến Quốc (403–221 TCN) và thời Đông Hán (26–220 SCN). Theo phương pháp xác định niên đại bằng Carbon-14, các bức vẽ cổ nhất có niên đại 16.000 năm trước và các bức vẽ muộn nhất có niên đại 680 năm trước. Người Việt Nam, dựa trên các truyền thuyết, những hình khắc tương tự trên hiện vật thời Đông Sơn (Việt Nam), cũng cho rằng họ là hậu duệ của nhóm Lạc Việt.
Một loạt các cuộc nổi dậy nhỏ nổ ra ở Quảng Đông và Quảng Tây vào giai đoạn 597-769 nhưng chúng nhanh chóng bị dập tắt. Chuỗi nổi dậy thứ hai diễn ra từ 756-830 do họ Hoàng và họ Nông lãnh đạo. Họ Hoàng/Huang thống trị khu vực xa nhất về phía đông vùng biên giới. Các dòng họ Hoàng và Vi cùng với Nông/Nùng, Chu là các cư dân chủ yếu ở khu vực nằm giữa hai vùng sinh sống của người Việt Nam và Hán. Thủ lĩnh của các dòng họ này duy trì quyền lực của mình qua các mối quan hệ theo kiểu gia đình và quan hệ cá nhân. Leo Shin, một học giả nghiên cứu hệ thống bộ lạc ở biên giới tây nam tại khu vực này vào thời Minh (1368-1644), sau khi đã kiểm tra bản chất tự trị của các thực thể chính trị nhỏ này và cách hành sử khắc nghiệt khi các bộ tộc lớn hơn săn đuổi các bộ tộc nhỏ xung quanh, đã so sánh mạng lưới quan hệ tại các khu vực này với chế độ phong kiến vào thời Chiến Quốc.
Đầu năm 977, một bản tấu từ trại Ung Châu (邕州) báo cáo rằng: man tù ở châu Quảng Nguyên, thủ lĩnh thản xước Nông Dân Phú tự lập mình làm thủ lĩnh của một po gồm mười ngôi làng quanh vùng sau khi nhận được sự ủng hộ từ triều đình Nam Hán (907-971).
Cũng theo Tống Sử, qua một thầy cúng có thế lực tên là Ả Nùng (阿儂), một phụ nữ thực hiện ma thuật và hiến tế người.
Ả Nùng và con trai 14 tuổi, Nùng Trí Cao (儂智高) thoát được cuộc vây bắt bằng cách chạy sang phía biên giới Tống. Nùng Trí Cao thừa kế vị trí thủ lĩnh của họ Nùng, đầu tiên cố gắng vỗ về người Việt Nam và Trung Hoa bằng các cống phẩm vàng, voi và bạc. Một số tàn quân nổi dậy tẩu tán về quê cũ nơi họ bắt đầu cuộc khởi nghĩa. Hầu như toàn bộ các tài liệu lịch sử còn sót lại (về khu vực vực này) đều được viết duy nhất dưới bàn tay của các viên chức người Hán. Tuy nhiên, một trong các phụ tá của Sầm Mãnh đã móc nối với Tri phủ Tứ Ân (思恩府), Sầm Tuấn (岑濬), để kiểm soát một số lãnh thổ của Sầm Mãnh. Minh sử ghi lại rằng trong cuộc xung đột giữa Thổ Ty Tứ Ân và Điền Châu, hai phe đã 'mượn' khoảng 200.000 quân từ Giao Chỉ để tham gia vào cuộc chiến tại khu vực Điền Châu. Có lẽ họ là các binh lính nói ngôn ngữ Tày bản địa từ các vùng thung lũng phía bắc chứ không phải là quân do triều đình An Nam cử tới. Do sự dính líu bắt đắc dĩ của mình vào cuộc xung đột đó, Sầm Mãnh, lúc đó đã là một thanh niên, bị mất chức Tri ở Điền Châu và bị dáng xuống làm chỉ huy một tiểu đoàn ở Phúc Kiến. Ít nhất đến tận năm 1525, khi các viên chức nhà Minh bắt đầu kêu gọi một chiến dịch chống Sầm Mãnh, họ đã phải thận trọng với phản ứng của mình vì quân của Sầm Mãnh là một lực lượng cốt lõi trong các chiến dịch của nhà Minh chống lại các băng nhóm phiến loạn và ngoài ra Sầm Mãnh nhúng tay vào việc hối lộ các quan chức nhà Minh. Đầu năm 1527, các thuộc hạ của Sầm Mãnh là Lư Tô (盧蘇) và Vương Thụ (王受) nổi dậy ở Điền Châu. Sử dụng hàng binh để tấn công những kẻ thù khác là một mưu mẹo quân sự lâu đời của người Trung Hoa. Sầm Ngõa Thị là con gái của Sầm Trương, một thủ lĩnh Thổ Ty tại Quy Thuận Châu (歸順州), và kết hôn với Sầm Mãnh. Sầm Ngõa Thị không chỉ là một lãnh đạo quân sự xuất sắc mà còn được biết đến vì kỹ năng sử dụng song kiếm bản rộng trong chiến trận. Quân Quảng Tây đóng vai trò chính trong việc đánh bại một tổ hợp hơn 4.000 cướp biển và tiêu giệt hơn 3.000 trong số này tại trận Vương Giang Kinh (王江涇) ngoại thành Thượng Hải (Shanghai) năm 1555. Nhờ kỹ thuật quân sự và chiến thuật độc nhất của mình, cô chiến thắng nhiều trận và được phong tước Nhị Phẩm Phu Nhân (二品夫人). Mộ của bà nằm ở Điền Châu, huyện Điền Dương, Quảng Tây ngày nay. Theo ghi chép, Nguyễn Văn Nha phát động cuộc khởi nghĩa của mình khi biết đến cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi (1833-35) mà khiến nhà Nguyễn phải bận rộn ở phía nam. Lary tiếp tục với một quan sát có liên quan trực tiếp tới khu vực biên giới Việt-Trung: "các vùng biên giới thường cô lập và bị nghèo đói tác động mạnh; các cư dân ở đó bị tập trung lại với nhau tương phản với các cư dân giàu có hơn ở những vùng trung tâm thuộc cả hai tỉnh.".
Trước đây, hầu hết người Nùng đều mù chữ, chỉ có những người giàu có mới được đi học, nhưng là học chữ Hán hoặc tiếng Pháp, để làm thầy cúng, thông ngôn. Hiện nay, phần lớn người Nùng đều không biết viết chữ của dân tộc mình. Mọi người đều được học chữ quốc ngữ của người Việt
- Họ Nguyễn Công, Nguyễn Khắc ở vùng Thất Khê là những người quê ở Nghệ An được cử lên Lạng Sơn làm quan vào thời Trần Hiến Tông (1328-1341).
- Dòng họ Vi của Tổng đốc Vi Văn Định.
Người Nùng tiêu biểu
- Nùng Tồn Phúc: lãnh tụ người Tráng nổi lên đòi tự trị giữa Đại Tống và Đại Cồ Việt thời Nhà Lý
- Nùng Trí Cao: con của Nùng Tồn Phúc, cũng nổi dậy đòi tự trị giữa Đại Tống và Đại Việt thời Nhà Lý
- Tông Đản: tướng lãnh của Lý Thường Kiệt thời Nhà Lý, có công đánh quân Tống cùng Lý Thường Kiệt
- Kim Đồng: một trong năm người Đội viên đầu tiên của Đội Thiếu niên Tiền phong Việt Nam
- Hoàng Văn Vĩnh: luật sư giỏi xuất phát từ gia đình làm nông nhưng có truyền thống làm quan; ông nội là Hoàng Văn Tráng là chủ tịch tỉnh Cao Bằng từ năm 1975 đến năm 2000
- Phùng Văn Khầu: là Đại tá pháo binh, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong trận Điện Biên Phủ, có nhiều thành tích trên chiến trường đánh Mỹ, là người hùng chống tiêu cực trong thời bình. *Nông Viết Bính: Sinh năm 1954, mất năm 2019, là Đại tá, Tham mưu trưởng, Phó Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng.
- Hoàng Văn Hùng: con trưởng của Hoàng Văn Tráng, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, từ năm 1995 đến năm 2017 ông công tác tại đơn vị biên phòng huyện Trà Lĩnh, Cao Bằng; nay đã về hưu
- Hoàng Văn Cường: con thứ của Hoàng Văn Tráng, ông từng giữ chức Chủ tịch UBND huyện Hoà An, Cao Bằng cho đến năm 2018.
- Thượng tướng Chu Văn Tấn: nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một trong 9 vị Thiếu tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam *Triệu Quân Sự: Nổi tiếng vì đào ngũ 5 lần và vượt ngục 3 lần tại Việt Nam
- Triệu Thị Hà: Hoa hậu Các Dân tộc Việt Nam 2011