Các ngôn ngữ Đông Á thuộc về một số ngữ hệ khác biệt với các đặc tính chung hình thành từ quá trình tiếp xúc giữa các ngôn ngữ. Trong vùng ngôn ngữ học Đông Nam Á Lục địa, các phương ngữ tiếng Trung và các ngôn ngữ Đông Nam Á chia sẻ nhiều đặc tính khu vực, thường là những ngôn ngữ phân tích với cấu trúc âm tiết và thanh điệu tương tự nhau.
Trong thiên niên kỷ đầu sau công nguyên, văn minh Trung Hoa chiếm ưu thế ở Đông Á. Văn ngôn đã được các học giả ở Việt Nam, bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản tiếp nhận, và đã có một lượng từ vựng gốc Hán rất lớn du nhập vào các ngôn ngữ này và những ngôn ngữ lân cận. Chữ Hán cũng đã được điều chỉnh để sử dụng cho tiếng Việt, tiếng Hàn và tiếng Nhật, mặc dù ngày nay trong tiếng Việt và tiếng Hàn, chữ Hán chỉ còn được sử dụng trong giáo dục bậc cao, ngôn ngữ học, sử học và các tác phẩm nghệ thuật hoặc trang trí và (ở Hàn Quốc) báo chí.
Các ngữ hệ
Ngữ hệ Nam Á bao gồm Tiếng Việt và Tiếng Khmer, cùng với nhiều ngôn ngữ khác được nói tại những khu vực rải rác vươn xa đến Mã Lai và Đông Ấn, thường là trong những khu vực bị cô lập bởi vùng nói các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ khác. Hầu hết các nhà ngôn ngữ học tin rằng ngữ hệ Nam Á từng trải rộng khắp Đông Nam Á và rằng sự phân bố rải rác ngày nay của chúng là kết quả của sự di xuất hiện của các ngữ hệ khác từ nơi khác đến.
Một trong số đó là các ngôn ngữ thuộc Ngữ hệ Tai-Kadai như Tiếng Thái, Tiếng Lào và Tiếng Shan. Những ngôn ngữ này ban đầu được nói ở miền Nam Trung Quốc, nơi mà ngày nay người ta vẫn thấy sự phân hóa rộng nhất trong ngữ hệ, và thậm chí có thể xa về phía Bắc đến thung lũng sông Dương Tử. Khi nền văn minh Trung Hoa từ bình nguyên Hoa Bắc bành trướng xuống hướng Nam, nhiều người nói tiếng Tai-Kadai đã bị Hán hóa, tuy nhiên một số đã di cư xuống Đông Nam Á. Ngoại trừ Tiếng Tráng, hầu hết các thứ tiếng Tai-Kadai còn lại ở Trung Quốc đều được nói ở những vùng núi cao bị cô lập.
Các thứ tiếng Mèo-Dao và H'Mông-Miền cũng bắt nguồn từ miền Nam Trung Quốc, nơi mà giờ đây chúng chỉ còn được sử dụng trong những vùng đồi hẻo lánh. Sự đàn áp đối với một loạt cuộc nổi dậy ở Quý Châu đã làm nhiều người nói tiếng H'Mông-Miền di cư xuống Đông Nam Á vào thế kỉ 18 và 19.
Ngữ hệ Nam Đảo được cho là đã lan từ Đài Loan sang các hòn đảo trên Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương cũng như một số khu vực ở Đông Nam Á Lục địa.
Các phương ngữ Trung Quốc thường bao gồm Ngữ hệ Hán-Tạng, ngữ hệ này lại bao gồm Ngữ tộc Tạng-Miến được nói tại Tây Tạng, Tây Nam Trung Quốc, Đông Bắc Ấn Độ, Miến Điện và các quốc gia lân cận.
Về phía bắc, có các ngữ hệ Turk, Mông Cổ và Tungus, được một số nhà ngôn ngữ học xếp vào Ngữ hệ Altai, đôi khi bao gồm cả Tiếng Hàn và Ngữ hệ Nhật Bản, nhưng giả thuyết này hiện đã bị xem là không đáng tin cậy và không còn được ủng hộ bởi các chuyên gia về các ngôn ngữ đó. Các ngôn ngữ này thường không có thanh điệu, đa âm tiết và là ngôn ngữ chắp dính, với trật tự từ Chủ ngữ-Bổ ngữ-Động từ và sự hài hòa nguyên âm ở một mức độ nhất định. Những người phê phán thuyết Altai cho rằng những điểm tương đồng này là do tiếp xúc ngôn ngữ mạnh mẽ tại một số thời điểm vào thời tiền sử.
Các học giả Trung Quốc thường phân loại Tai-Kadai và H'Mông-Miền chung với Hán-Tạng, nhưng giới học giả phương Tây kể từ sau Thế chiến thứ 2 đã xem chúng là những ngữ hệ riêng biệt. Một vài nhóm lớn hơn đã được đề xuất, nhưng không được ủng hộ rộng rãi. Thuyết Nam phương đại ngữ hệ, dựa vào Hình thái học và các sự tương đồng khác, là các nhóm Nam Á, Nam Đảo, một số Tai-Kadai và vài H'Mông-Miền tạo thành một họ di truyền. Các nhóm giả thuyết khác bao gồm ngữ hệ Hán-Nam Đảo và ngữ hệ Úc-Tai. Các nhà ngôn ngữ học trải qua các so sánh tầm xa đã đưa ra giả thuyết về những siêu ngữ hệ như Dené-Caucasian, bao gồm Hán-Tạng và tiếng Ket.
Vùng ngôn ngữ học Đông Nam Á Lục địa
Vùng ngôn ngữ học Đông Nam Á Lục địa trải dài từ Thái Lan đến Trung Quốc và là quê hương của những người nói các thứ tiếng thuộc các ngữ hệ Hán-Tạng, H'Mông-Miền (hoặc Mèo-Dao), Tai-Kadai, Nam Đảo (đại diện là ngữ tộc Chamic) và Nam Á. Các ngôn ngữ trong những ngữ hệ này khi phân bố gần nhau, mặc dù được cho là không liên hệ với nhau, lại thường có các đặc điểm hình thái tương đồng được cho là hình thành do khuếch tán.
Đặc trưng của nhiều ngôn ngữ trong vùng ngôn ngữ học ĐNÁ lục địa là một cấu trúc âm tiết đặc biệt như hình vị đơn âm tiết, thanh điệu, số lượng phụ âm khá lớn, bao gồm phụ âm bật hơi, các phụ âm phức bị giới hạn ở đầu âm tiết, các cặp nguyên âm tương phản phong phú và tương đối ít phụ âm cuối. Các ngôn ngữ ở phần phía Bắc của vùng có ít nguyên âm và phụ âm cuối tương phản hơn nhưng lại có nhiều phụ âm đầu tương phản hơn.
Một đặc trưng nổi tiếng là hệ thống thanh điệu tương đồng trong các thứ tiếng Hán, H'Mông-Miền, Tai và Việt. Hầu hết các ngôn ngữ này đã trải qua thời kì đầu với ba thanh điệu trên hầu hết âm tiết (trừ các âm tiết đóng kết thúc bằng một phụ âm tắc), theo sau là sự phân chia thanh điệu khi sự khác biệt giữa phụ âm vô thanh và hữu thanh biến mất và thay vào đó số lượng thanh điệu tăng gấp đôi.
Những điểm tương đồng này đã gây ra nhầm lẫn trong việc phân loại các ngôn ngữ này, cho đến khi Haudricourt vào năm 1954 chỉ ra rằng thanh điệu không phải là một đặc trưng bất biến bằng cách chứng tỏ rằng các thanh điệu trong tiếng Việt ứng với một số phụ âm cuối trong ngữ hệ Môn-Khmer, và đề xuất rằng thanh điệu trong các ngôn ngữ khác cũng có nguồn gốc tương tự.
Các ngôn ngữ thuộc vùng ngôn ngữ học ĐNÁ Lục địa thường có hình thái đơn âm tiết, mặc dù có một vài ngoại lệ. Hầu hết chúng là những ngôn ngữ phân tích không có biến tố và rất ít hình thái phái sinh. Các mối quan hệ về ngữ pháp thường được biểu hiện bởi trật tự từ, tiểu từ và giới từ kiêm động từ hoặc giới từ. Tình thái được biểu đạt bằng cách sử dụng trợ từ đứng cuối câu. Trật tự từ thường gặp trong các ngôn ngữ thuộc vùng ngôn ngữ học ĐNÁ Lục địa là Chủ ngữ-Động từ-Bổ ngữ. Tiếng Hán và Karen được cho là đã chuyển sang trật tự từ này từ trật tự từ Chủ-Bổ-Động vốn được hầu hết các thứ tiếng Hán-Tạng khác giữ lại. Thứ tự của các thành phần trong một cụm danh từ là khác nhau: Ở các ngôn ngữ Tai, tiếng Việt và tiếng Mèo, danh từ đứng trước, yếu tố phụ đứng sau, trong khi đó, các phương ngữ Hán và tiếng Dao có yếu tố phụ đứng trước danh từ. Cấu trúc chủ đề-bình luận cũng thường gặp.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Các ngôn ngữ Đông Á** thuộc về một số ngữ hệ khác biệt với các đặc tính chung hình thành từ quá trình tiếp xúc giữa các ngôn ngữ. Trong vùng ngôn ngữ học Đông
**Các phương ngữ tiếng** **Ả Rập** ( __) là một cụm từ chỉ đến các phương ngữ tiếng Ả Rập, do "sự can nhiễu" ngôn ngữ giữa tiếng Ả Rập và các ngôn ngữ địa
**Nhóm ngôn ngữ Đông Iran** là một nhóm con của ngữ chi Iran nổi lên trong thời Iran Trung cổ (từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên). Tiếng Avesta thường được phân loại là
thumb|Đông Nam Á lục địa **Vùng ngôn ngữ Đông Nam Á lục địa** là một vùng ngôn ngữ kéo dài từ nam Thái Lan đến nam Trung Quốc và từ Myanmar đến Việt Nam với
**Ngôn ngữ nổi bật chủ đề** () là ngôn ngữ có cú pháp được tổ chức để cường điệu cấu trúc của câu. Thuật ngữ này được biết đến nhiều nhất trong 'ngành ngôn ngữ
**Các ngôn ngữ Andaman** là những ngôn ngữ bản địa của quần đảo Andaman, được nói bởi các tộc người Negrito tại đây. Có hai ngữ hệ tại quần đảo Andaman, Andaman Lớn và Önge,
[[Tập_tin:Language families of modern Asia.png|nhỏ|450x450px|ngữ hệ ở Châu Á ]] Có rất nhiều ngôn ngữ được sử dụng trên toàn Châu Á, bao gồm các ngữ hệ khác nhau. Các nhóm ngữ hệ chính được
thumb|Các ngôn ngữ ở Hồng Kông Luật Cơ bản của Hồng Kông quy định tiếng Anh và tiếng Trung là hai ngôn ngữ chính thức của Hồng Kông. Trong thời kỳ thuộc địa của Anh,
**Ngôn ngữ** là một hệ thống giao tiếp có cấu trúc được sử dụng bởi con người. Cấu trúc của ngôn ngữ được gọi là ngữ pháp, còn các thành phần tự do của nó
phải|nhỏ|371x371px|Một trang từ [[Geniza|Cairo Geniza, một phần trong đó được viết bằng ngôn ngữ Ả Rập Do Thái]] **Nhóm ngôn ngữ Ả Rập Do Thái** (; ע) là một cụm phương ngữ tiếng Ả Rập
**Nhóm ngôn ngữ Nubia** (: lughāt nūbīyyah) là một nhóm các ngôn ngữ liên quan được người Nubia sử dụng. Chúng tạo thành một nhánh của các ngôn ngữ Đông Sudan, là một phần của
**Ngôn ngữ động vật** là hình thức giao tiếp ở động vật không phải của con người nhưng cho thấy sự tương đồng với ngôn ngữ của con người. Động vật giao tiếp với nhau
**Pascal** là một ngôn ngữ lập trình cho máy tính thuộc dạng mệnh lệnh và thủ tục, được Niklaus Wirth phát triển vào năm 1970. Pascal là ngôn ngữ lập trình đặc biệt thích hợp
phải|Bản đồ ngôn ngữ của châu Âu (đơn giản hóa). **Ngôn ngữ học châu Âu** là ngành ngôn ngữ học khá mới mẻ, nghiên cứu về các ngôn ngữ tại châu Âu. Tuy nhiên, ở
[[Tập tin:Africa ethnic groups 1996.jpg|thumb|upright=1.5|Bản đồ cho thấy phân bố của các ngữ hệ truyền thống tại châu Phi: Niger-Congo: Nin-Sahara: ]] Có 1.250 tới 2.100 và theo một nguồn là có tới 3.000 ngôn
**C#** (**C Sharp**, đọc là _"xi-sáp"_) là một ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng đa năng, mạnh mẽ được phát triển bởi Microsoft, C# là phần khởi đầu cho kế hoạch .NET của họ.
**Ruby** là một ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng, có khả năng phản ứng. Theo tác giả, Ruby chịu ảnh hưởng bởi Perl, Smalltalk, Eiffel, Ada và Lisp. Ruby cung cấp nhiều mẫu hình
**Nhóm ngôn ngữ Việt** hay **Nhóm ngôn ngữ Việt-Chứt** là một nhánh của ngữ hệ Nam Á. Trước đây người ta còn gọi Nhóm ngôn ngữ này là **Việt-Mường**, **Annam-Muong**, **Vietnamuong**, nhưng hiện nay nói
**Ngôn ngữ của cộng đồng Hoa** **kiều** ở nước ngoài ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố, bao gồm tổ tiên, xuất xứ, sự đồng hóa qua nhiều thế hệ, và các chính sách chính
Trung Quốc có tới hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Hán tiêu chuẩn, dựa trên tiếng Quan Thoại là trung tâm, nhưng tiếng Trung Quốc có hàng trăm ngôn
**Python** () là ngôn ngữ lập trình bậc cao đa năng. Triết lý thiết kế của nó nhấn mạnh khả năng đọc mã bằng cách sử dụng thụt lề đáng kể. Python có kiểu động
**Thuyết tương đối ngôn ngữ** (), hay **giả thuyết Sapir-Whorf**, cho rằng cấu trúc ngôn ngữ ảnh hưởng đến tư duy và khả năng nhận biết thế giới xung quanh. Đó là, ngôn ngữ quyết
**Ngôn ngữ trung gian chung **hoặc **Ngôn ngữ trung gian dùng chung** (**Common Intermediate Language - CLI**), là ngôn ngữ lập trình có thể đọc được của con người ở mức thấp nhất được xác
**Ngôn ngữ học** hay **ngữ lý học** là bộ môn nghiên cứu về ngôn ngữ. Người nghiên cứu bộ môn này được gọi là nhà ngôn ngữ học. Nói theo nghĩa rộng, nó bao gồm
**C** là một ngôn ngữ mệnh lệnh được phát triển từ đầu thập niên 1970 bởi Dennis Ritchie để dùng trong hệ điều hành UNIX. Từ đó, ngôn ngữ này đã lan rộng ra nhiều
**Nhóm ngôn ngữ Thái (Tai)** (còn gọi là **Nhóm ngôn ngữ Tráng-Thái**) là một Nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Tai-Kadai. Nhóm ngôn ngữ này bao gồm các ngôn ngữ như tiếng Tráng, tiếng Bố
**Loại hình ngôn ngữ** là một khái niệm của ngôn ngữ học dùng để chỉ tập hợp các ngôn ngữ có chung một hay nhiều đặc điểm hình thái nhất định. Loại hình học là
**Nhóm ngôn ngữ Cơ Tu** là một Nhóm ngôn ngữ của ngữ hệ Nam Á với chừng 1,3 triệu người nói, có mặt ở bán đảo Đông Dương. Paul Sidwell, một trong những chuyên gia
Đây là danh sách các nước và vùng lãnh thổ theo **ngôn ngữ sử dụng**, hay ngôn ngữ nói. Do tính phổ biến của các ngôn ngữ khác nhau, nên việc xếp mục lục không
**Nhóm ngôn ngữ Tani** (tên thay thế là **nhóm ngôn ngữ** **Miri**, _Adi-Galo-Mishing-Nishing-Tagin_ (Bradley 1997), hay _Aborifer-Miri-Dafla_ (Matisoff 2003)), là một nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Hán-Tạng được nói chủ yếu ở Arunachal Pradesh,
**Nhóm ngôn ngữ Semit Ethiopia** (còn gọi **Ethio-Semitic,** **Ethiosemitic,** **Ethiopia** hoặc **Abyssinia**) là một nhóm ngôn ngữ được nói ở Ethiopia, Eritrea và Sudan. Cùng với ngôn ngữ Nam bán đảo Ả Rập cổ đại,
Nhóm ngôn ngữ **Sunda-Sulawesi** là một phần của ngôn ngữ **Mã Lai - Đa Đảo Tây (WMP)** trong đó bao gồm những ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo được nói ở Đông Nam Á
Đây là một trong bốn loại hình ngôn ngữ quan trọng của thế giới: loại hình **ngôn ngữ đơn lập** hay còn gọi là **ngôn ngữ cách thể**, loại hình ngôn ngữ chắp dính (ngôn
**Go** là một ngôn ngữ lập trình mới do Google thiết kế và phát triển. Nó được kỳ vọng sẽ giúp ngành công nghiệp phần mềm khai thác tối đa nền tảng đa lõi của
nhỏ|Phân bố lượng người sử dụng các ngôn ngữ Munda tại Ấn Độ **Nhóm ngôn ngữ Munda** là một nhánh của ngữ hệ Nam Á, được khoảng 9 triệu người ở miền trung và miền
Ngôn ngữ chính thức của Liên Hợp Quốc gồm sáu ngôn ngữ được sử dụng tại các cuộc họp của Liên Hợp Quốc và tất cả các văn bản chính thức của Liên Hợp Quốc.
**Nhóm ngôn ngữ Asli** là một nhóm ngôn ngữ Nam Á, hiện diện trên bán đảo Mã Lai. Chúng là ngôn ngữ của một bộ phận _Orang Asli_, những cư dân nguyên thủy của bán
Trang này liệt kê **danh sách những ngôn ngữ phổ biến nhất trên thế giới hiện nay**, tính cả số người nói bản địa và sử dụng làm ngoại ngữ. Xin lưu ý rằng danh
**Viện Ngôn ngữ học** (tên tiếng Anh: _Institute of Linguistics_) là một viện nghiên cứu khoa học chuyên ngành thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Viện có chức năng nghiên cứu
**Nhập nhằng** trong ngôn ngữ học là hiện tượng thường gặp, trong giao tiếp hàng ngày con người ít để ý đến nó bởi vì họ xử lý tốt hiện tượng này. Nhưng trong các
Một **ngôn ngữ phụ trợ quốc tế** (trong tiếng Anh đôi khi được viết tắt là **IAL** hoặc **auxlang**) hoặc **interl Language** là một ngôn ngữ có nghĩa là để giao tiếp giữa những người
thumb|[[Tranh khảm La Mã|Tranh khảm (220–250) được tìm thấy tại El Djem, Tunisia (Phi Lợi Gia thuộc La Mã). Trên đây viết dòng chữ Latinh "Im đi! Để lũ trâu ngủ" _(Silentiu[m] dormiant tauri)_ và
**Nhóm ngôn ngữ Semit Tây Bắc** là một bộ phận của các ngôn ngữ Semit bao gồm các ngôn ngữ bản địa Levant. Nó xuất phát từ ngôn ngữ Semit nguyên thủy trong thời kỳ
phải|nhỏ|[[Ngữ chi Ấn-Arya|Ngôn ngữ Ấn-Arya chính của Nam Á; Nhóm ngôn ngữ Ấn-Arya Bắc có màu tím]] **Nhóm** **ngôn ngữ Ấn-Arya Bắc,** còn được gọi là **nhóm** **ngôn ngữ Pahar,** là một nhóm các ngôn
phải|nhỏ|250x250px|Cây phương ngữ Circassia. nhỏ|Một người đang nói tiếng Adyghe và tiếng Kabardia, được ghi lại cho [[Wikitongues.]] **Nhóm ngôn ngữ Circassia** còn được gọi là **Cherkess** là một nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ
**Nhóm ngôn ngữ Mảng**, bao gồm **nhóm ngôn ngữ Pakan**, là một nhánh ngôn ngữ Nam Á gồm một số ngôn ngữ đang nguy cấp. Phần lớn các ngôn ngữ này được sử dụng tại
thumb|**[[Phép tính lambda** là một hệ thống hình thức để định nghĩa hàm, ứng dụng hàm và đệ quy được Alonzo Church đề xuất vào những năm 193x.]] **Lý thuyết ngôn ngữ lập trình** (thường
Đây là danh sách các ngôn ngữ lập trình đáng chú ý, được nhóm theo loại. Vì không có sơ đồ phân loại bao quát cho các ngôn ngữ lập trình, nên trong nhiều trường
**Ngôn ngữ thứ hai** của một người (thường viết tắt là **L2** theo tiếng Anh: _Second language_) là ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ (ngôn ngữ thứ nhất hoặc L1) của người nói,
**Nhóm ngôn ngữ Bahnar** là một nhóm 30 ngôn ngữ, được nói bởi chừng 700.000 người ở Việt Nam, Campuchia, và Lào. Hầu hết ngôn ngữ trong nhóm này đều khá điển hình cho ngữ