✨Ngữ hệ

Ngữ hệ

thumb|Phân bố năm 2005 của các ngữ hệ chính trên thế giới (vài trường hợp là nhóm ngôn ngữ địa lý, không dựa trên "di truyền"). Các nhánh con của các ngữ hệ được lược bỏ.
Nếu muốn chi tiết hơn, xem [[:Template:Distribution of languages in the world|Distribution of languages on Earth.]] Ngữ hệ hay ngữ tộc, còn gọi là họ ngôn ngữ hay nhóm ngôn ngữ, là một tập hợp các ngôn ngữ được gộp lại dựa trên quan hệ "di truyền" (ở đây đang dùng với nghĩa bóng chứ không liên quan gì đến sinh học), nghĩa là các đặc điểm được kế thừa từ một ngôn ngữ chung duy nhất gọi là ngôn ngữ nguyên thủy (proto-language) hay ngôn ngữ tổ tiên. Các ngôn ngữ phát sinh từ ngôn ngữ chung đó được các nhà ngôn ngữ học gọi là các ngôn ngữ con gái (daughter language). Sở dĩ gọi là họ ngôn ngữ bởi vì nó phản ánh mô hình cây trong nghiên cứu ngôn ngữ học lịch sử, có điểm gần giống với gia phả hoặc cây phát sinh chủng loại dùng trong sinh học tiến hóa.

Theo Ethnologue, số lượng ngôn ngữ sống của con người trên thế giới là 7.139, phân bố ở 142 ngữ hệ khác nhau. "Ngôn ngữ sống" là những ngôn ngữ vẫn được sử dụng làm phương tiện giao tiếp chính trong một nhóm người; ngôn ngữ chết là ngôn ngữ không còn người nói; ngôn ngữ tuyệt chủng là ngôn ngữ không còn người nói không có ngôn ngữ hậu duệ. Ngoài ra, còn một số ít các ngôn ngữ chưa được nghiên cứu chuyên sâu để được phân loại; đôi khi, còn có cả các ngôn ngữ chưa được biết đến và chỉ được nói bởi một cộng đồng biệt lập nào đó.

Sự phân loại và sắp xếp các ngôn ngữ trên các nhánh của một ngữ hệ phải dựa trên cơ sở ngành ngôn ngữ học so sánh. Các ngôn ngữ chị em là các ngôn ngữ có quan hệ "di truyền", bắt nguồn từ một tổ tiên chung. Những người nói cùng một ngữ hệ thì được gọi là một cộng đồng ngôn ngữ. Sự phân tách ngôn ngữ gốc thành các ngôn ngữ con xảy ra bởi sự tách biệt địa lý hoặc tách biệt các cộng đồng ngôn ngữ. Từ đó mà các nhánh dần dần phát triển thành các phương ngữ rồi thành các đơn vị ngôn ngữ riêng biệt. Các cá nhân thuộc các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau có thể tiếp nhận ngôn ngữ từ một ngữ hệ khác thông qua quá trình dịch chuyển ngôn ngữ.

Các ngôn ngữ chị em bảo lưu một số đặc điểm nhất định từ tổ tiên; tức là các đặc điểm của ngôn ngữ nguyên thủy mà không do sự tình cờ hoặc sự vay mượn từ ngôn ngữ khác (còn gọi là sự hội tụ ngôn ngữ). Các nhà ngôn ngữ học phân loại nhánh/nhóm của một ngữ hệ dựa trên những đổi mới được chia sẻ; tức là các đặc điểm chung của một số ngôn ngữ nhưng không phải tất cả ngôn ngữ trong ngữ hệ. Ví dụ, ngữ tộc German được nhóm lại do chúng chia sẻ vốn từ vựng và các đặc điểm ngữ pháp giống nhau, không hiện diện ở tiếng Ấn-Âu nguyên thủy (ngôn ngữ tổ tiên của ngữ tộc German một số ngữ tộc khác). Những đặc điểm này được gọi là những đổi mới xảy ra riêng ở tiếng Proto-German (ngôn ngữ tổ tiên của duy nhất ngữ tộc German và cũng chính là hậu duệ của tiếng Proto-Ấn-Âu).

Cấu trúc của một ngữ hệ

Ngữ hệ có thể được chia thành các đơn vị nhỏ hơn, được gọi là các nhánh vì phương pháp sử dụng mô hình cây trong ngôn ngữ học lịch sử. Một ngữ hệ được gọi là đơn ngành khi và chỉ khi tất cả các ngôn ngữ thành viên có nguồn gốc từ một tổ tiên chung và tất cả các ngôn ngữ hậu duệ đã được chứng thực của tổ tiên đó đều được bao gồm trong ngữ hệ. (Thuật ngữ này tương đương với Nhánh trong sinh học.) Một số thuật ngữ còn được sử dụng để chỉ nhánh ngôn ngữ nhỏ hơn trong giới ngôn ngữ học Việt Nam là: ngữ chi, ngữ tộc, v.v

Một số nhà phân loại học hạn chế dùng thuật ngữ họ ngôn ngữ, nhưng vẫn chưa có quy ước về vấn đề này. Những người dùng thuật ngữ như vậy cũng chia nhỏ các nhánh thành các nhóm (groups) rồi chia tiếp thành các phức hợp (complexes). Họ cao nhất thường được gọi là ngành (phylum hoặc stock). Các nhánh càng gần nhau thì các ngôn ngữ càng có mối quan hệ gần gũi với nhau. Tức là nếu ngôn ngữ gốc tách ra làm bốn nhánh và một ngôn ngữ chị em xuất hiện ở nhánh thứ tư đó, thì hai ngôn ngữ chị em này có quan hệ mật thiết với nhau hơn là ngôn ngữ tổ tiên chung đó.

Thuật ngữ macrofamily (liên họ) hoặc superfamily (siêu họ) đôi khi cũng được áp dụng cho các nhóm ngôn ngữ được đề xuất để gộp các ngữ hệ lớn lại. Tuy vậy cũng phải nói rằng, hầu hết những siêu họ ngôn ngữ này thường không có cơ sở hay bằng chứng thuyết phục dựa trên ngôn ngữ học.

Dãy phương ngôn

Một số ngữ hệ gần gũi, và nhiều nhánh trong các ngữ hệ lớn hơn, tạo nên một dãy phương ngữ (dialect continuum) khiến ranh giới giữa một phương ngữ và một ngôn ngữ trở nên lu mờ. Tuy nhiên, khi sự khác biệt ngôn ngữ giữa các vùng ở hai đầu cực của dãy liên tục trở nên quá lớn đến mức không còn tính thông hiểu lẫn nhau (mutual intelligibility), ví dụ: ngôi làng A hiểu tiếng nói của ngôi làng B, ngôi làng B hiểu tiếng nói của ngôi làng C, nhưng ngôi làng A lại không tài nào hiểu được tiếng nói của ngôi làng C, thì dãy liên tục không còn được coi là một ngôn ngữ đơn lẻ nữa.

Ngôn ngữ tách biệt

Hầu hêt các ngôn ngữ trên thế giới đều thuộc một ngữ hệ lớn hay nhỏ nào đó. Những ngôn ngữ không có họ hàng (hoặc chưa được chứng minh một cách thuyết phục là thuộc về một ngữ hệ nào đó) được gọi là ngôn ngữ tách biệt/biệt lập (language isolate), về cơ bản là một ngữ hệ chỉ bao gồm một duy nhất ngôn ngữ ấy. Hiện có khoảng 129 ngôn ngữ tách biệt được biết đến. Ví dụ như tiếng Basque ở châu Âu, tiếng Purépecha ở miền tây Mexico, v.v. Tất nhiên, những ngôn ngữ này hoàn toàn có khả năng thuộc về một ngữ hệ lớn hơn, nhưng do thời gian phân tách đã từ rất xa xưa nên chúng không còn để lại dấu vết nào; do vậy, những ngôn ngữ này sẽ vẫn được coi là tách biệt chừng nào ta không có các bằng chứng mới.

Người ta thường hiểu lầm rằng các biệt ngữ được phân loại như vậy là do chúng ta không có đủ dữ liệu ngôn ngữ học. Điều này hoàn toàn sai, vì một ngôn ngữ biệt lập được phân loại như vậy chính là do ta đã biết quá đủ về ngôn ngữ đó rồi, nên mới đem đi so sánh với các ngôn ngữ khác được.

Một ngôn ngữ tạo thành một nhánh riêng trong một ngữ hệ, chẳng hạn như tiếng Albania và tiếng Armenia của ngữ hệ Ấn-Âu, đôi khi cũng được gọi là ngôn ngữ biệt lập, nhưng ý nghĩa của từ "biệt lập" trong trường hợp này hoàn toàn khác, ở đây nhằm nhấn mạnh sự tách biệt của chúng khỏi các nhánh khác trong cùng một ngữ hệ. Ngược lại, tiếng Basque là một ngôn ngữ biệt lập tuyệt đối: nó chưa được chứng minh liên quan đến bất kỳ ngôn ngữ hiện đại nào khác.

Ngôn ngữ nguyên thủy

Một ngôn ngữ nguyên thủy, sơ ngữ (proto-language) hay ngôn ngữ mẹ là tổ tiên của tất cả các ngôn ngữ trong một ngữ hệ. Tổ tiên chung của một ngữ hệ hiếm khi được chứng thực với văn liệu hẳn hoi, vì những ngôn ngữ này được nói vào thời điểm cộng đồng nói chưa ghi chép lại hoặc không biết ghi chép. Tuy vậy, các nhà ngôn ngữ học có thể vận dụng phương pháp so sánh (so sánh nhiều ngôn ngữ với nhau để tìm ra các quy luật, điểm tương đồng rồi suy luận để tìm ra nguồn gốc chung) để phục dựng lại ngôn ngữ nguyên thủy. Phương pháp này được áp dụng lần đầu tiên bởi nhà ngôn ngữ học August Schleicher vào thế kỷ 19. Ví dụ, tổ tiên chung có thể được phục dựng của ngữ hệ Ấn-Âu được gọi là tiếng Ấn-Âu nguyên thủy v.v. Các văn liệu ghi chép thứ tiếng giả định này chưa từng tồn tại nhưng nhờ phương pháp so sánh, ta đã có thể suy đoán được hệ thống âm thanh của ngôn ngữ đã chết từ lâu này.

Phân loại

Các ngữ hệ lớn

Ethnologue 24 (2021) liệt kê các ngữ hệ chứa ít nhất 1% trong số 7.139 ngôn ngữ đã biết trên thế giới sau đây:

Niger–Congo (1.542 ngôn ngữ) (21,7%)

Nam Đảo (1.257 ngôn ngữ) (17,7%)

Liên New Guinea (482 ngôn ngữ) (6,8%)

Hán-Tạng (455 ngôn ngữ) (6,4%)

Ấn-Âu (448 ngôn ngữ) (6,3%)

Úc [chưa rõ] (381 ngôn ngữ) (5,4%)

Phi-Á (377 ngôn ngữ) (5,3%)

Nin-Sahara [chưa rõ] (206 ngôn ngữ) (2,9%)

Oto-Mangue (178 ngôn ngữ) (2,5%)

Nam Á (167 ngôn ngữ) (2,3%)

Thái–Kadai (91 ngôn ngữ) (1,3%)

Dravidia (86 ngôn ngữ) (1,2%)

Tupi (76 ngôn ngữ) (1,1%)

Glottolog 4.4 (2021) liệt kê các ngữ hệ lớn sau, gồm 8494 ngôn ngữ:

Đại Tây Dương–Congo (1.403 ngôn ngữ)

Nam Đảo (1.274 ngôn ngữ)

Ấn-Âu (583 ngôn ngữ)

Hán-Tạng (497 ngôn ngữ)

Phi-Á (377 ngôn ngữ)

Liên New Guinea hạt nhân (317 ngôn ngữ)

Pama–Nyungar (250 ngôn ngữ)

Oto-Mangue (181 ngôn ngữ)

Nam Á (157 ngôn ngữ)

Thái–Kadai (95 ngôn ngữ)

Dravidia (79 ngôn ngữ)

Arawak (77 ngôn ngữ)

Mande (75 ngôn ngữ)

Tupi (71 ngôn ngữ)

Số lượng ngôn ngữ dao động tùy thuộc vào cách phân biệt phương ngữ và ngôn ngữ; ví dụ, nhà ngôn ngữ học Lyle Campbell chỉ công nhận 27 ngôn ngữ thuộc hệ Oto-Mangue; dù rằng Campbell, EthnologueGlottolog không đồng quan điểm về ngôn ngữ nào được gộp vào hệ này.

Danh sách các ngữ hệ

Dưới đây là danh sách liệt kê các ngữ hệ không phải ngôn ngữ ký hiệu:

thumb|Sơ đồ phân bố ngữ hệ tại châu Phi thumb|Sơ đồ phân bố ngữ hệ Nam Đảo thumb|Sơ đồ phân bố ngữ hệ tại Đông Nam Á lục địa thumb|Sơ đồ phân bố các nhánh lớn của ngữ hệ Dravidia thumb|Sơ đồ phân bố các nhánh chính của hệ Ấn-Âu tại đại lục [[Á-Âu]] thumb|Sơ đồ phân bố các ngôn ngữ Altai tại đại lục Á-Âu thumb|Các ngôn ngữ bản địa của Papua thumb|Các ngôn ngữ bản địa của Úc thumb|Phân bố của các ngôn ngữ thời kỳ tiền thực dân phía bắc Mexico thumb|Các ngữ hệ lớn tại Nam Mỹ

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngữ hệ Nam Á** () là một ngữ hệ lớn ở Đông Nam Á lục địa, phân bố rải rác ở Ấn Độ, Bangladesh, Nepal và miền nam Trung Quốc, được nói bởi khoảng 117
**Ngữ hệ Kra-Dai** ( , các tên gọi khác bao gồm **Tai–Kadai** and **Daic** ) là một ngữ hệ tập trung tại Đông Nam Á, miền nam Trung Quốc và Đông Bắc Ấn Độ. Hiện
**Ngữ hệ Hán-Tạng**, trong một số tư liệu còn gọi là **ngữ hệ Liên Himalaya**, là một ngữ hệ gồm trên 400 ngôn ngữ. Ngữ hệ này đứng thứ hai sau ngữ hệ Ấn-Âu về
thumb|Phân bố năm 2005 của các ngữ hệ chính trên thế giới (vài trường hợp là nhóm ngôn ngữ địa lý, không dựa trên "di truyền"). Các nhánh con của các ngữ hệ được lược
**Ngữ hệ Nam Đảo** () là một ngữ hệ lớn phân bổ rộng rãi tại các hải đảo Đông Nam Á và Thái Bình Dương, Madagascar và một phần nhỏ tại đại lục châu Á.
**Ngữ hệ Maya** là một ngữ hệ được nói tại Trung Bộ châu Mỹ và miền bắc Trung Mỹ. Các ngôn ngữ Maya được nói bởi ít nhất 6 triệu người, thuộc các dân tộc
**Ngữ hệ Ấn-Âu** là một ngữ hệ lớn có nguồn gốc từ Tây và Nam đại lục Á-Âu. Nó bao gồm hầu hết ngôn ngữ của châu Âu cùng với các ngôn ngữ ở sơn
**Ngữ hệ Eskimo-Aleut** hoặc **Eskaleut** là ngữ hệ bản xứ tại Alaska, Bắc Canada, Nunavik, Nunatsiavut, Greenland và bán đảo Chukotka ở cực đông Siberia, Nga. Ngữ hệ này được chia làm hai nhánh, gồm
**Ngữ hệ Mixe–Zoque** là một ngữ hệ gồm những thứ tiếng được nói ở trong và quanh eo đất Tehuantepec, México. Chính phủ México công nhận ba ngôn ngữ Mixe–Zoque: Mixe (_ayook_) với 188.000 người
**Ngữ hệ Triều Tiên** là một ngữ hệ bao gồm tiếng Hàn Quốc hiện đại cùng với họ hàng cổ đại đã biến mất. Ngôn ngữ tại đảo Jeju được một số người coi là
**Ngữ hệ Nhật Bản-Lưu Cầu** hay là một nhóm ngôn ngữ tập trung tại Nhật Bản và Quần đảo Lưu Cầu đã phát triển độc lập với các ngôn ngữ khác sau nhiều thế kỷ.
**Ngữ hệ Altai** (**Altaic** /ælˈteɪ.ɪk/, được đặt theo tên của dãy núi Altai ở trung tâm châu Á; có khi còn được gọi là **Transeurasian**, tức là **hệ Liên Á-Âu**) là một _Sprachbund_ (tức một
**Ngữ hệ Phi Á** là một ngữ hệ lớn với chừng 300 ngôn ngữ và phương ngữ. Những ngôn ngữ trong hệ có mặt ở Tây Á, Bắc Phi, Sừng châu Phi và Sahel. Ngữ
**Ngữ hệ Tungus** (còn gọi là ngữ hệ Mãn-Tungus) là một ngữ hệ miền đông Siberia và Mãn Châu. Hầu hết ngôn ngữ Tungus bị đe dọa, và tương lai của các ngôn ngữ kia
**Ngữ hệ Ute-Aztec**, **Ute-Aztek** hoặc (hiếm khi) **Ute-Nahuatl** là một ngữ hệ bản địa châu Mỹ, bao gồm hơn 30 ngôn ngữ khác nhau. Các ngôn ngữ Ute-Aztec chỉ được tìm thấy ở miền Tây
**Ngữ hệ Sioux** hay **ngữ hệ Sioux–Catawba** là một ngữ hệ Bắc Mỹ chủ yếu được nói quanh vùng Đại Bình nguyên, các thung lũng tại Ohio và Mississippi, với một vài ngôn ngữ khác
**Ngữ hệ Pama–Nyungar** là ngữ hệ bản địa Úc phổ biến rộng rãi nhất, gồm khoảng 300 ngôn ngữ. Cái tên "Pama–Nyungar" xuất phát từ tên hai phân nhóm cách xa nhau nhất, nhóm ngôn
**Ngữ hệ Liên New Guinea** (Trans–New Guinea, TNG) là một ngữ hệ ngôn ngữ Papua nói ở New Guinea cùng các đảo lân cận. Đây có lẽ là ngữ hệ có số ngôn ngữ lớn
**Ngữ hệ Tuu**, hay **ngữ hệ Taa–ǃKwi** (**Taa–ǃUi**, **ǃUi–Taa**, **Kwi**) là một ngữ hệ bao gồm hai cụm phương ngữ nói ở Botswana và Nam Phi. Mối quan hệ giữa hai cụm là rõ ràng
**Ngữ hệ Ural** là một ngữ hệ gồm khoảng 38 ngôn ngữ được sử dụng bởi chừng 25 triệu người, phần lớn ở miền Bắc lục địa Á-Âu. Những ngôn ngữ Ural với số người
**Ngữ hệ Hmông-Miền** (còn gọi là **ngữ hệ Miêu–Dao**) là một ngữ hệ gồm những ngôn ngữ có thanh điệu ở miền Nam Trung Quốc và Bắc Đông Nam Á lục địa. Người nói ngôn
**Ngữ hệ Kavkaz** phân bố chủ yếu ở khu vực nằm giữa biển Đen và biển Caspian, tập trung nhất ở vùng núi Kavkaz nên được gọi là ngữ hệ Kavkaz Ngữ hệ Kavkaz có
**Ngữ hệ Önge**, còn gọi là **ngữ hệ Nam Andaman** hay **ngữ hệ Jarawa–Önge**, là một ngữ hệ nhỏ, chỉ gồm hai ngôn ngữ là tiếng Önge và Jarawa, được nói ở miền nam quần
**Ngữ hệ Kartvelia** () (cũng được gọi là **ngữ hệ Iberia** và trước đây là **ngữ hệ Nam Kavkaz**) là một ngữ hệ bản địa vùng Kavkaz và được nói chủ yếu tại Gruzia, với
**Ngữ hệ Arawak**, còn gọi là **ngữ hệ Maipure**, là một ngữ hệ thổ dân Nam Mỹ. Hiện nay ở Nam Mỹ, chỉ Ecuador, Uruguay, và Chile là không có thành phần dân cư nói
**Ngữ hệ Dravida** là một ngữ hệ được nói chủ yếu ở Nam Ấn Độ, một số phần tại Đông và Trung Ấn Độ, cũng như tại miền Bắc Sri Lanka và vài khu vực
**Ngữ hệ Nadahup**, còn gọi là **Makú** (Macú) hay _Vaupés–Japurá_, là một ngữ hệ nhỏ, có mặt ở Brasil, Colombia, và Venezuela. _Makú_ là một ngoại danh, bắt nguồn từ tiếng Arawak; nó được coi
**Ngữ hệ Algic** (còn gọi là Ngữ hệ Algonquin–Wiyot–Yurok hay Algonquin–Ritwan) là một ngữ hệ bản địa Bắc Mỹ. Đa số ngôn ngữ Algic thuộc ngữ tộc Algonquin, phân bố rải rác trên một khu
**Ngữ hệ Na-Dené** (cũng được gọi là **Nadene**, **Na-Dene**, **Athabaska–Eyak–Tlingit**, **Tlina–Dene**) là một ngữ hệ thổ dân châu Mỹ bao gồm nhóm ngôn ngữ Athabaska, tiếng Eyak, và tiếng Tlingit. Một giả thuyết cũ rằng
**Ngữ hệ Andaman Lớn** là một ngữ hệ gần tuyệt chủng, được nói bởi người Andaman Lớn sống ở quần đảo Andaman (Ấn Độ). ## Lịch sử Vào cuối thế kỷ XVIII, khi người Anh
**Ngữ hệ Fas** là một hệ ngôn ngữ nhỏ ở Papua New Guinea. ## Phân loại Dù ngữ hệ này chỉ có đúng hai ngôn ngữ với quan hệ gần, tiếng Baibai và tiếng Fas
**Ngữ hệ Kxʼa**, còn gọi là **ngữ hệ Ju–ǂHoan**, là một ngữ hệ xác lập năm 2010, thiết lập mối quan hệ giữa Tiếng ǂʼAmkoe (ǂHoan) với cụm phương ngữ ǃKung (Juu). Người ta đã
**Ngữ hệ Niger–Congo** là một trong những ngữ hệ lớn nhất thế giới, và lớn nhất châu Phi, về phân bố địa lý, số người nói, và số lượng ngôn ngữ. Một vài ước lượng
**Ngữ hệ Mông Cổ** hay **ngữ hệ Mongolic** () là một nhóm các ngôn ngữ được nói ở Đông và Trung Á, chủ yếu ở Mông Cổ và các khu vực xung quanh, và ở
**Ngữ hệ Nin-Sahara** hay _Ngữ hệ Nin-Sahara_ là một ngữ hệ được đề xuất, được nói bởi khoảng 50–60 triệu người thuộc các dân tộc Nin, cư ngụ chủ yếu tại thượng nguồn sông Chari
**Ngữ hệ Iwaidja** hay **ngữ hệ Yiwaidja** là một ngữ hệ bản địa Úc phi Pama-Nyangar, hiện diện trên vùng bán đảo Cobourg ở tây Arnhem Land. Nicholas Evans (1997) đặt ngữ hệ Iwaidja vào
**Ngữ hệ Oto-Mangue** là một ngữ hệ bản địa châu Mỹ lớn. Mọi ngôn ngữ Oto-Mangue ngày nay đều là ngôn ngữ bản địa của México, tuy có nhánh Mangue (đã tuyệt chủng) từng được
[[Tập tin:Uralic-Yukaghir.png|Phân loại **ngữ hệ Yukaghir**, Phần Lan-Ugra và Samoyed ở vùng Siberi ]] Đây là ngữ hệ bản địa của người Yukaghir, tuy nhiên hiện nay đã bị mai một chỉ với 200 người
**Ngữ hệ Enisei** (còn được gọi là **Enisei-Ostyak**) là một ngữ hệ hiện diện tại khu vực sông Enisei thuộc Siberia. ## Phân loại * **_Tiền Enisei_** ** _Bắc Enisei_ (chia tách vào khoảng năm
**Ngữ hệ Iroquois** là một ngữ hệ bản địa châu Mỹ hiện diện tại Bắc Mỹ. Nhiều ngôn ngữ trong hệ thiếu phụ âm môi, và tất cả chúng đều có tính hỗn nhập. Hiện
**Ngữ hệ Turk** là một ngữ hệ gồm ít nhất 35 ngôn ngữ, được nói bởi các dân tộc Turk trên một khu vực rộng lớn từ Đông Âu và Địa Trung Hải tới Siberia
**Ngữ hệ Tupi** hay **ngữ hệ Tupí** là một ngữ hệ gồm khoảng 70 ngôn ngữ hiện diện tại Nam Mỹ, trong đó nổi tiếng nhất là tiếng Tupi và Guarani. ## Nơi bắt nguồn
**Ngữ hệ Khoisan** hay _Họ ngôn ngữ Khoisan_ (còn gọi là Khoesan hoặc Khoesaan) là một thuật ngữ để chỉ các ngôn ngữ ở châu Phi có phụ âm "click" (tặc lưỡi), và không thuộc
**Ngữ hệ Khoe–Kwadi** là ngữ hệ bao gồm các ngôn ngữ Khoe ở miền nam châu Phi và tiếng Kwadi hầu như biến mất của Angola. Mối quan hệ đã được Tom Güldemann, Edward Elderkin
thumb|Khu vực phân bố chính của các ngôn ngữ Đông Bắc Kavkaz. ** Ngữ hệ Đông Bắc Kavkaz** hay **ngữ hệ Nakh-Dagestan** là một ngữ hệ được nói tại các nước cộng hòa thuộc Nga
**Ngữ hệ Tây Bắc Kavkaz**, còn gọi là **ngữ hệ Abazgi–Adyghe** là một ngữ hệ bản địa khu vực lịch sử Circassia (ngày nay là các nước cộng hòa Adygea, Kabardino-Balkaria, Karachay-Cherkessia cũng như Krasnodar
**Ngữ hệ Chukotka-Kamchatka** hay **Ngữ hệ Chukchi–Kamchatka** là một ngữ hệ tại miền Viễn Đông Nga. Người nói các ngôn ngữ này về truyền thống là dân săn bắt-hái lượm và chăn tuần lộc. Toàn
Đây là một ngữ hệ nhỏ, được phân loại bởi Helmut Rix vào năm 1998. Đây là một ngữ hệ dùng ở vùng Trung Đông, gần với nhóm Anatolian, thuộc ngữ hệ Ấn Âu. Đây
**Quechua** (), hay còn gọi là **** ("ngôn ngữ của nhân dân") trong tiếng Quechua, là một ngữ hệ bản địa của dãy Andes, Peru. Có nguồn gốc từ một ngôn ngữ tổ tiên chung,
thumb|Phân bố các ngôn ngữ Papua, màu đỏ. Còn lại là vùng [[ngữ hệ Nam Đảo và vùng lịch sử của ngữ hệ thổ dân Úc.]] **Các ngôn ngữ Papua** là tập hợp địa lý