Ngữ hệ Tungus (còn gọi là ngữ hệ Mãn-Tungus) là một ngữ hệ miền đông Siberia và Mãn Châu. Hầu hết ngôn ngữ Tungus bị đe dọa, và tương lai của các ngôn ngữ kia cũng không vững vàng. Có chừng 75.000 người bản ngữ trải trên hơn một tá ngôn ngữ Tungus. Một số học giả xếp ngữ hệ Tungus vào ngữ hệ Altai chưa chắc chắn, cùng với ngữ hệ Turk, Mongol, đôi lúc cả Triều Tiên và Nhật Bản.
Từ "Tungus" là một ngoại danh mà người Yakut và người Tatar Siberia gọi người Evenk ("tongus") vào thế kỷ XVII, nghĩa là "heo/lợn". Nó được mượn vào tiếng Nga thành "тунгус", rồi tới tiếng Anh thành "Tungus". Việc dùng "Tungus" cho người Evenk được coi là miệt thị.
Phân loại
Những nhà ngôn ngữ học nghiên cứu ngôn ngữ Tungus đặt ra nhiều hệ thống phân loại, dựa trên "tiêu chí" khác nhau, gồm đặc điểm hình thái, từ vựng, và âm vị. Một số học giả bỏ qua mô hình rẽ nhánh, cho rằng vì lịch sử tiếp xúc lâu dài giữa các tộc nói ngôn ngữ Tungus với nhau, ngữ hệ Tungus nên được coi là một dialect continuum (dãy phương ngữ).
Một phân loại được nhiều người chấp thuận chia ngữ hệ Tungus ra làm nhánh Bắc và nhánh Nam (Georg 2004). Trong khi đó, Hölzl (2018), chia hệ ra làm bốn nhóm con, tên Ewen, Udeghe, Nana, và Jurche.
;Tungus Bắc
- Ewen
Even (Lamut) đông Siberia
Evenk
*Evenk (tên cũ: Tungus), của người Evenk miền trung Siberia và Mãn Châu
***Solon
Oroqen
Negidal
Kili
- Udeghe (Oroch–Udege; ảnh hưởng nặng bởi Tungus Nam)
Oroch
Udege
;Tungus Nam
- Jurchen/Nữ Chân
Mãn: người Mãn gốc gác từ dọc sông Sungari Ula, lập nên nhà Kim và nhà Thanh.
Nữ Chân†: dạng cổ của tiếng Mãn
Xibe/Tích Bá: nói ở Huyện tự trị dân tộc Tích Bá Qapqal, Tân Cương.
Kháp Khách Lạp (Kyakala) 恰喀拉
** Ba Lạp (Bala) 巴拉 ghi nhận rằng tiếng Mãn và tiếng Nữ Chân là những ngôn ngữ dị biệt trong nhánh Tungus Nam; điều này có thể là do ảnh hưởng từ tiếng Khiết Đan, tiếng Triều Tiên cổ, có lẽ cả Chukotka-Kamchatka.
Những ghi chép sớm nhất của phương Tây về ngôn ngữ Tungusic đến từ du khách người Hà Lan Nicolaes Witsen, người đã xuất bản cuốn sách bằng tiếng Hà Lan, Noord en Oost Tartarye (nghĩa đen là 'Bắc và Đông Tartary'). Nó mô tả nhiều dân tộc ở Viễn Đông Nga và bao gồm một số danh sách từ ngắn gọn cho nhiều ngôn ngữ. Sau chuyến du lịch đến Nga, những phát hiện thu thập được của ông đã được xuất bản thành ba lần xuất bản, 1692, 1705 và 1785. Cuốn sách bao gồm một số từ và câu từ ngôn ngữ Evenki, sau đó được gọi là "Tungus".
Nhà ngôn ngữ học người Đức Wilhelm Grube (1855–1908) đã xuất bản một từ điển ban đầu về ngôn ngữ Nanai (hay còn gọi là ngôn ngữ Gold) vào năm 1900, cũng như giải mã ngôn ngữ Nữ Chân cho khán giả hiện đại bằng cách sử dụng một nguồn tiếng Trung Quốc.
Mặc cho những nét giống nhau giữa hệ Tungus và nhóm tiếng Triều Tiên, Vovin (2013) cho rằng hai bên không liên quan.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngữ hệ Tungus** (còn gọi là ngữ hệ Mãn-Tungus) là một ngữ hệ miền đông Siberia và Mãn Châu. Hầu hết ngôn ngữ Tungus bị đe dọa, và tương lai của các ngôn ngữ kia
**Ngữ hệ Altai** (**Altaic** /ælˈteɪ.ɪk/, được đặt theo tên của dãy núi Altai ở trung tâm châu Á; có khi còn được gọi là **Transeurasian**, tức là **hệ Liên Á-Âu**) là một _Sprachbund_ (tức một
**Ngữ hệ Triều Tiên** là một ngữ hệ bao gồm tiếng Hàn Quốc hiện đại cùng với họ hàng cổ đại đã biến mất. Ngôn ngữ tại đảo Jeju được một số người coi là
Trung Quốc có tới hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Hán tiêu chuẩn, dựa trên tiếng Quan Thoại là trung tâm, nhưng tiếng Trung Quốc có hàng trăm ngôn
**Tiếng Mãn Châu** hay **Tiếng Mãn**, thuộc ngữ hệ Tungus, là tiếng mẹ đẻ của người Mãn Châu ở vùng Đông Bắc Trung Quốc và từng là một trong những ngôn ngữ chính thức của
**người Oroch** (tiếng Nga _О́рочи_), **Orochon**, hay **Orochi** (tự gọi: _Nani_) là một dân tộc tại Nga nói tiếng Oroch (_Orochon_) thuộc nhóm Nam của Ngữ hệ Tungus. Theo điều tra năm 2002, có 686
Đây là danh sách các nước và vùng lãnh thổ theo **ngôn ngữ sử dụng**, hay ngôn ngữ nói. Do tính phổ biến của các ngôn ngữ khác nhau, nên việc xếp mục lục không
**Tiếng Evenk** trước đây tên **Tungus**, hay **Solon** là ngôn ngữ lớn nhất của nhóm bắc Tungus (gồm tiếng Even, tiếng Negidal, tiếng Evenk và tiếng Oroqen). Ngôn ngữ này được dùng bởi người Evenk
nhỏ|Một người đàn ông Tungus ở Vorogovo, [[Xibia|Siberia, Nga năm 1914.]] **Các dân tộc Tungus** hay **Thông Cổ Tư** (tiếng Hán: 通古斯) là một nhóm khoảng 12 dân tộc sinh sống tại vùng đông bắc
nhỏ|Ảnh Chuonnasuan (1927-2000), pháp sư cuối cùng của người Oroqen, do [[Richard Noll chụp vào tháng 7 năm 1994 ở Mãn Châu gần biên giới trên sông Amur giữa Trung Quốc và Nga. Shaman giáo
**Các ngôn ngữ Đông Á** thuộc về một số ngữ hệ khác biệt với các đặc tính chung hình thành từ quá trình tiếp xúc giữa các ngôn ngữ. Trong vùng ngôn ngữ học Đông
**Người Mãn** hay **Người Mãn Châu** hoặc **Người Nữ Chân** (tiếng Mãn: , _Manju_; tiếng Mông Cổ: Манж, tiếng Nga: Маньчжуры; tiếng Trung giản thể: 满族; tiếng Trung phồn thể: 滿族; bính âm: Mǎnzú;
**Tiếng Xibe** (, chuyển tự: _sibe gisun_, còn gọi là **tiếng Sibe**, **tiếng Sibo** hay **tiếng Tích Bá**) là một ngôn ngữ Tungus, bản ngữ của dân tộc Xibe sống ở Tân Cương miền Tây
**Orok** (_Ороки_ trong tiếng Nga; tên tự gọi: _ульта_, ulta, ulcha) hay **Ngạc La Khắc** (鄂羅克) là một dân tộc sinh sống chủ ở tỉnh Sakhalin tại Nga. Tiếng Orok thuộc nhóm Miền Nam của
**Tiếng Nữ Chân** () là ngôn ngữ Tungus của người Nữ Chân ở miền đông Mãn Châu, những người sáng lập nhà Kim ở phía đông bắc Trung Quốc ngày 12 tháng 12 thế kỉ.
**Tiếng Mông Cổ** (chữ Mông Cổ truyền thống:; chữ Kirin Mông Cổ:) là ngôn ngữ chính thức của Mông Cổ, và là thành viên nổi bật hơn cả của ngữ hệ Mông Cổ. Số người
**Tiếng Nivkh** hoặc **tiếng Gilyak** (tự gọi: Нивхгу диф _Nivxgu dif_) là một ngôn ngữ được sử dụng tại Priamurye (Ngoại Mãn Châu), ở lưu vực sông Amgun (một phụ lưu của sông Amur), vài
**Tiếng Yakut**, còn gọi là **tiếng Sakha**, là một ngôn ngữ Turk với khoảng 450.000 người nói tập trung tại Cộng hòa Sakha của Liên Bang Nga. Như đa số ngôn ngữ Turk khác và
**Tiếng Nanai** (còn gọi là Gold hoặc Hezhen) là ngôn ngữ của người Nanai ở Siberia, và một thiểu số ở tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc, nơi được gọi là _Hezhe_. Có khoảng 1.400
**Người Yakut** hay **người Sakha** (tiếng Yakut: саха, _sakha_, số nhiều: сахалар, _sakhalar_), là một dân tộc thuộc nhóm sắc tộc Turk, cư trú chủ yếu ở vùng Yakutia (hay Cộng hòa Sakha) thuộc Liên
**Tiếng Khamnigan** ( hay Хамниган кэлэ, chuyển tự: _Khamnigan kele_) là một ngôn ngữ Mông Cổ được nói ở phía đông hồ Baikal, trên lãnh thổ Nga, Mông Cổ và Trung Quốc. Việc sử dụng
**Người Nanai** (tên tự gọi нани/Nani nghĩa là người bản địa; tên tự gọi **Hách Triết** nghĩa là người phương Đông; tiếng Nga: нанайцы, "nanaitsy"; tiếng Trung: 赫哲族, "Hèzhézú"; Hán-Việt: Hách Triết tộc, trước đây
**Cao Câu Ly** (; tiếng Hàn trung đại: 고ᇢ롕〮 Gowoyeliᴇ), (năm thành lập theo truyền thống là năm 37 trước Công nguyên, có lẽ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên – 668) là một
**Trung Á** là một vùng của châu Á không tiếp giáp với đại dương. Có nhiều định nghĩa về Trung Á, nhưng không có định nghĩa nào được chấp nhận rộng rãi. Các tính chất
**Tiếng Chukchi**, còn gọi là **tiếng Chukot** hay **tiếng Chuuk**, là một ngôn ngữ Chukotka-Kamchatka. Đây là ngôn ngữ của người Chukchi miền viễn đông Xibia, sống chủ yếu ở Khu tự trị Chukotka. Theo
**Người Mạt Hạt** (**Malgal** hay **Mohe**; tiếng Hán: 靺鞨) là một dân tộc cổ sinh sống ở vùng Mãn Châu. Đôi khi họ được xem là tổ tiên của người Nữ Chân (_Jurchen_), dân tộc
**Hulunbuir** ( _Kölün buyir_, tiếng Mông Cổ viết bằng chữ Kirin: Хөлөнбуйр, _Khölönbuir_; chữ Hán giản thể: 呼伦贝尔, bính âm: Hūlúnbèi'ěr, âm Hán Việt: **Hô Luân Bối Nhĩ**) là một địa cấp thị nằm phía
**Quỷ Lực Xích** (Örüg Temür Khan) (tiếng Trung: 兀雷帖木兒汗; 1379-1408) hoặc **Gulichi** (tiếng Trung: 鬼 力赤) là một Khả hãn của nhà Bắc Nguyên tại Mông Cổ vào đầu thế kỷ XV. Ông cũng có
**Xung đột biên giới Nga – Thanh (1652 - 1689)** là một loạt các vụ đụng độ vũ trang giữa nhà Thanh, với sự trợ giúp từ nhà Triều Tiên, và Sa quốc Nga, tranh
**Người Evenk** (**Ewent** hay **Event**) (tên tự gọi: **Эвэнкил** _Evenkil_; tiếng Nga: Эвенки, _Evenki_; tiếng Trung:鄂温克族 Bính âm: _Èwēnkè Zú_, Hán Việt: **Ngạc Ôn Khắc** tộc; trước đây gọi là **Tungus** hay **Tunguz**; tiếng Mông
**Người Xibe**, **Sibo** hay **người Tích Bá** (Hình:sibe.png _Sibe_; ) là một dân tộc Tungus sinh sống chủ yếu ở khu vực đông bắc Trung Quốc và Tân Cương. Họ là một trong 56 dân
**Negidal** (_негидальцы_ trong Tiếng Nga; tên tự gọi: _элькан бэйэнин_, hay elkan bayenin nghĩa là "người bản xứ." Tên Negidal là một từ Nga hóa của thuật ngữ tiếng Evenk là "ngegida", nghĩa là "người
**Người Even** (từng được gọi là **người Lamut** nghĩa là "người đại dương" trong tiếng Even) (_Эвены_ trong tiếng Nga) là một dân tộc sống ở Siberia và Viễn Đông Nga. Họ sống ở một
**Mãn Châu** là một tên gọi ngoại lai cho một số vùng đất lịch sử và địa lý lớn của Trung Quốc và Nga chồng lấn lên nhau ở Đông Bắc Á. Tùy thuộc vào
**Hắc Long Giang** () là một tỉnh phía đông bắc của Trung Quốc. Năm 2018, Hắc Long Giang là tỉnh đông thứ mười bảy về số dân, đứng thứ hai mươi ba về kinh tế
**Người Buryat** (tiếng Buryat: Буряад, _Buryaad_) hay **Người Bố Lí Á Đặc** (布里亞特), có dân số khoảng 700.000 người, là nhóm dân tộc bản địa lớn nhất tại vùng Siberia. Vùng cư trú truyền thống
**Mông Cổ** (, _Mongolchuud_, ) định nghĩa là một hay một vài dân tộc, hiện nay chủ yếu cư trú tại Trung Quốc, Mông Cổ và Nga. Ước tính có khoảng 11 triệu người Mông
**Udege** (_Удэгейцы_ trong tiếng Nga; tên tự gọi: _удээ_ và _удэхе_, phiên âm latinh: udee và udehe) là một dân tộc sống ở các vùng Primorsky Krai và Khabarovsk Krai tại Nga. Họ sinh sống
**Ô Hoàn** (, còn viết là 乌丸) hay **Cổ Hoàn** (古丸) là tên gọi của một nhóm sắc tộc du cư cổ đại tại miền bắc Trung Quốc trong thời kỳ cổ đại, trong khu
nhỏ|Người làm nghề shaman ở [[Khövsgöl (tỉnh)|Khovsgol, Mông Cổ.]] **Shaman giáo** hay **Saman giáo** là một hình thức tín ngưỡng cổ xưa thông qua những người trung gian để giao tiếp với Thần linh, qua
phải|[[sông Amur|lưu vực sông Amur. Nerchinsk là phần phía trên Shilka. Dãy núi Stanovoy dọc theo rìa phía bắc của lưu vực Amur.]] **Điều ước Nerchinsk** năm 1689 (tiếng Nga: Нерчинский договор) hay **điều ước
**Gia Luật Bội** (, 899 – 7 tháng 1 năm 937), cũng được biết đến với tên **Gia Luật Đột Dục** (耶律突欲) hay **Gia Luật Đồ Dục** (耶律圖欲), hiệu **Nhân Hoàng vương** (人皇王), và sau
**Mông Cổ** là một quốc gia nội lục nằm tại nút giao giữa ba khu vực Trung, Bắc và Đông của châu Á. Lãnh thổ Mông Cổ gần tương ứng với vùng Ngoại Mông trong
**Bột Hải Cao Vương** (645 - 719) là người sáng lập của Vương quốc Bột Hải vào năm 698. Ông vốn tên là **Dae Jo-Young** (대조영, Hán-Việt: Đại Tộ Vinh), con trai của Dae Jung-sang
**Tục thờ Hổ** hay **tín ngưỡng thờ Hổ** là sự tôn sùng, thần thánh hóa **loài hổ** cùng với việc thực hành hoạt động thờ phượng hình tượng con hổ bằng các phương thức khác
**Primorsky Krai** (tiếng Nga:Примо́рский край), không chính thức được gọi là **Primorye** (Приморье), hay **Tân Hải** (濱海), là một chủ thể liên bang của Nga (một vùng, _krai_). Trung tâm hành chính là thành phố
**Hồ Baikal** (phiên âm tiếng Việt: **Hồ Bai-can**; ; , , _Baygal nuur_, nghĩa là "hồ tự nhiên"; ) là hồ đứt gãy lục địa ở Nga, thuộc phía nam Siberi, giữa tỉnh Irkutsk ở
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
phải|nhỏ|300x300px|Hổ là con vật được nhắc đến rất nhiều trong tín ngưỡng dân gian **Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của
**Iosif Vissarionovich Stalin**, hay **Joseph Stalin** (tên khai sinh: **Ioseb Besarionis dze Jughashvili**; – 5 tháng 3 năm 1953), là một nhà cách mạng, nhà chính trị và lý luận chính trị người Gruzia. Ông