✨Người Buryat

Người Buryat

Người Buryat (tiếng Buryat: Буряад, Buryaad) hay Người Bố Lí Á Đặc (布里亞特), có dân số khoảng 700.000 người, là nhóm dân tộc bản địa lớn nhất tại vùng Siberia. Vùng cư trú truyền thống của họ nay thuộc Liên bang Nga, Trung Quốc và Mông Cổ.

Tại Liên bang Nga hầu hết tập trung tại quê hương của họ là Cộng hòa Buryatia, một chủ thể liên bang. Theo điều tra dân số 2010 có 461.389 người . Theo Joshua Project thì có 473.000 người được phân nhóm là "Russian Buriat" Theo Joshua Project thì có 57.000 người và được phân nhóm là "Mongolian Buriat"

Lịch sử

Người Buryat có nguồn gốc từ người Eskimo Siberi định cư ở khu vực hồ Baikal. Sau đó, vào thế kỷ 13, người Mông Cổ đến và nô dịch hóa các bộ lạc Buryat quanh hồ Baikal. Tên gọi "Buriyad" được kể đến là một trong những dân tộc sống trong rừng lần đầu trong Mông Cổ bí sử (có thể là năm 1240). Thư tịch này nói rằng Truật Xích, con trai cả của Thành Cát Tư Hãn, đac hành quân lên phía bắc để chinh phục người Buryat vào năm 1207. Người Buryat lúc đó sống dọc theo sông Angara và các chi lưu. Trong ki đó, một bộ phận của họ, Barga, xuất hiện ở cả phía tây Baikal và ở phía bắc thung lũng Barguzin thuộc Buryatia ngày nay. Liên hệ với người Bargas là người Khori-Tumed sống dọc sông Arig ở phía đông Khövsgöl và Angara. Một cuộc nổi dậy nổ ra vào năm 1217, khi Thành Cát Tư Hãn cho phép một người của mình bắt 30 trinh nữ Tumad song đã bị dập tắt. Người Buryat gia nhập vào người Oirat và thách thức quyền cai trị của người Mông Cổ Đông vào thời Bắc Nguyên cuối thế kỷ 14.

trái|thumb|Các [[Chủ thể liên bang của Nga|chủ thể liên bang của người Buryat, bao gồm Cộng hòa Buryatia, Khu tự trị Ust-Orda Buryat, và Khu tự trị Agin-Buryat. ]] Về mặt lịch sử, lãnh thổ quanh hồ Baikal thuộc về người Khalkha và dân tộc bản địa (Eskimo Siberi), người Buryat là thần dân của hai hãn người Khalkha là Tusheet và Setsen. Khi Nga mở rộng kiểm soát đến Ngoại Baikal (miền đông Siberia) vào năm 1609, người Cozack chỉ tìm thấy một nhóm nhỏ cư dân bản địa nói một phương ngữ Mông Cổ gọi là Buryat và phải cống nạp cho người Khalkha. Tuy nhiên, họ đã đủ mạnh để bắt ép người Ket và người Samoyed tại Kan và người Evenk tại Hạ Angara cống nạp cho họ. Tổ tiên của phần lớn người Buryat hiện đại nói một biến thể ngôn ngữ Turk-Tungus vào thời điểm đó. Ngoài ra chính các bộ tộc Buryat-Mông Cổ (Bul(a)gad, Khori, Ekhired, Khongoodor) đã hợp nhất với người Buryat, người Buryat cũng đồng hóa các nhóm khác, bao gồm một số người Oirat, Khalkha, Tungus (người Evenk). Khori-Barga đã thiên di từ Barguzin về phía đông đến vùng đất giữa Đại Hưng An Lĩnh và Argun. Khoảng năm 1594 hầu hết họ quay trở lại Aga và Nerchinsk để thoát khỏi sự chinh phục của người Daur. Lãnh thổ và dân tộc này chính thức bị sáp nhập vào Nga bằng các điều ước vào các năm 1689 và 1727, khi đó các lãnh thổ ở cả hai bên Hồ Baikal bị tách khỏi Mông Cổ của Đại Thanh. Sự hợp nhất các bộ tộc và nhóm Buryat hiện đại đã diễn ra dưới tình trạng là một phần của nước Nga. Từ giữa thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, dân số người Buryat tăng từ 27.700 lên 300.000.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Người Buryat** (tiếng Buryat: Буряад, _Buryaad_) hay **Người Bố Lí Á Đặc** (布里亞特), có dân số khoảng 700.000 người, là nhóm dân tộc bản địa lớn nhất tại vùng Siberia. Vùng cư trú truyền thống
**Tiếng Buryat** hay **Buriat** (; chữ Buryat: , , ) là một ngôn ngữ Mông Cổ được nói bởi người Buryat mà có khi được phân loại như một nhóm phương ngữ lớn của tiếng
**Người Soyot** là một dân tộc có nguồn gốc Turk sống chủ yếu ở vùng Oka thuộc huyện Okinsky, Buryatia, Nga. Theo điều tra dân số năm 2010, có 3.608 người Soyot ở Nga. Ngôn
**Mông Cổ** (, _Mongolchuud_, ) định nghĩa là một hay một vài dân tộc, hiện nay chủ yếu cư trú tại Trung Quốc, Mông Cổ và Nga. Ước tính có khoảng 11 triệu người Mông
**Cuộc chinh Siberia** (tiếng Nga: Покорение Сибири) diễn ra trong gần 2 thế kỷ, bắt đầu từ năm 1580 đến năm 1778, khi Hãn quốc Sibir trở thành một cơ cấu chính trị lỏng lẻo
**Roman Nikolai Maximilian von Ungern-Sternberg** () (29 tháng 12 năm 1885 – 15 tháng 9 năm 1921) là một trung tướng chống Bolshevik trong Nội chiến Nga và sau đó là một quân phiệt độc
**Trục xuất người Triều Tiên ở Liên Xô** (, ) là việc cưỡng bức di cư gần 172.000 người Triều Tiên từ Viễn Đông Nga sang Trung Á vào năm 1937 theo chỉ thị của
**Chuluunkhoroot** (tiếng Mông Cổ: Чулуунхороот) là một sum của tỉnh Dornod tại miền đông Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 1.609 người. ## Địa lý Sum có diện tích khoảng 6.539 km.
**Siberia** (, ) là vùng đất rộng lớn gần như nằm trọn trong nước Nga, chiếm gần toàn bộ phần Bắc Á và bao gồm phần lớn thảo nguyên Á-Âu. Siberia trong lịch sử là
**Cộng hòa Buryatia** (; tiếng Buryat: Буряад Улас (_Buryaad Ulas_), , tiếng Mông Cổ: Буриад Улс, (_Buriad Uls_)) hay **Cộng hòa Bố Lí Á Đặc** (布里亞特共和國) là một chủ thể liên bang của Nga (một
**Hồ Baikal** (phiên âm tiếng Việt: **Hồ Bai-can**; ; , , _Baygal nuur_, nghĩa là "hồ tự nhiên"; ) là hồ đứt gãy lục địa ở Nga, thuộc phía nam Siberi, giữa tỉnh Irkutsk ở
**Olkhon** (, còn được phiên âm là **Olchon**) là đảo hồ lớn thứ tư trên thế giới. Nó cũng là đảo lớn nhất trong hồ Baikal (hồ nước ngọt lớn nhất thế giới) ở đông
**Xung đột biên giới Nga – Thanh (1652 - 1689)** là một loạt các vụ đụng độ vũ trang giữa nhà Thanh, với sự trợ giúp từ nhà Triều Tiên, và Sa quốc Nga, tranh
**Đại hãn quốc Mông Cổ** () là chính phủ Mông Cổ (Ngoại Mông Cổ) giữa năm 1911 và 1919, và một lần nữa từ 1921 tới 1924. Vào mùa xuân năm 1911, một số quý
thumb|Quốc ca Buryatia (bản tiếng Buryat) thumb|Quốc ca Buryatia (bản tiếng Nga) thumb|Ghi âm nhạc cụ của bài hát **Quốc ca Cộng hòa Buryatia** (Tiếng Buryat: Буряад Уласай түрын дуулал, _Bügede Najramdaka Burjád Ulasaj dúlal_)
**Mông Cổ** là một quốc gia nội lục nằm tại nút giao giữa ba khu vực Trung, Bắc và Đông của châu Á. Lãnh thổ Mông Cổ gần tương ứng với vùng Ngoại Mông trong
**Nội Mông Cổ** (tiếng Mông Cổ: Hình:Oburmonggul.svg, _Öbür Monggol_; ), tên chính thức là **Khu tự trị Nội Mông Cổ,** thường được gọi tắt là **Nội Mông**, là một khu tự trị của Cộng hòa
**Cộng hòa Tyva** (; , _Tyva Respublika_), **Tuva** () hay **Đường Nỗ Ô Lương Hải** (唐努烏梁海 - tên gọi vào thời nhà Thanh), là một nước cộng hòa thuộc chủ thể liên bang của Nga.
phải|nhỏ|[[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily ở Moskva]] **Tôn giáo tại Nga** là một tập hợp các tôn giáo được thành lập trên lãnh thổ Liên bang Nga. Hiến pháp Liên bang Nga hiện hành
**Cách mạng Mông Cổ 1921** (), còn gọi là Cách mạng Dân chủ 1921, Cách mạng Ngoại Mông 1921, là một sự kiện quân sự và chính trị do những nhà cách mạng Mông Cổ
**Irkutsk** (tiếng Nga: **Ирку́тск**) là một thành phố nằm Đông Nam nước Nga, trung tâm hành chính của tỉnh Irkutsk với dân số khoảng 606.000 (năm 2024). Đây là thành phố lớn thứ năm ở
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Tây Tạng** (, tiếng Tạng tiêu chuẩn: /pʰøː˨˧˩/; (_Tây Tạng_) hay (_Tạng khu_)), được gọi là **Tibet** trong một số ngôn ngữ, là một khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal,
**Sakha**, còn được gọi là **Yakutia** (; ), tên chính thức **Cộng hòa Sakha** (; , _Saxa Öröspüübülükete_, ) là một chủ thể liên bang của Nga (một nước Cộng hòa). Nước này có dân
Lịch sử thời kỳ đầu của Siberia mang ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn minh Pazyryk mang tính du mục của người Scythia ở bờ tây của dãy núi Ural và người Hung Nô
**Đại Mông Cổ** là một khu vực địa lý, bao gồm các vùng lãnh thổ tiếp giáp nhau, chủ yếu là các sắc tộc người Mông Cổ sinh sống. Nó bao gồm gần đúng nhà
**Tiếng Evenk** trước đây tên **Tungus**, hay **Solon** là ngôn ngữ lớn nhất của nhóm bắc Tungus (gồm tiếng Even, tiếng Negidal, tiếng Evenk và tiếng Oroqen). Ngôn ngữ này được dùng bởi người Evenk
**Sergei Vladimirovich Bodrov** (; sinh ngày 28 tháng 6 năm 1948) là một đạo diễn, nhà biên kịch, và nhà sản xuất phim người Nga. Năm 2003, ông là chủ tịch hội dồng giám khảo
**Reinhold Moritzevich (Moritsevich) Glière (Glier)** (tiếng Nga: **Рейнгольд Морицевич Глиэр**)(1875-1956) là nhà soạn nhạc, nhạc trưởng người Nga. ## Cuộc đời và sự nghiệp Reinhold Glière học âm nhạc tại nhà ở Kiev, học sáng
thumb|Bơ Yak được bày bán tại một khu chợ đường phố ở [[Lhasa]] **Bơ Yak** (hay còn được gọi là **Bơ dri** hoặc **su oil**; , ) là một loại bơ được làm từ sữa
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** ( ) hoặc gọi tắt là **Nga Xô viết** là nước cộng hòa Xô viết lớn nhất và đông dân nhất trong số mười
**Tiếng Khamnigan** ( hay Хамниган кэлэ, chuyển tự: _Khamnigan kele_) là một ngôn ngữ Mông Cổ được nói ở phía đông hồ Baikal, trên lãnh thổ Nga, Mông Cổ và Trung Quốc. Việc sử dụng
**Ulaanbaatar** (phiên âm: _U-lan-ba-ta_, , chữ Mông Cổ: , chuyển tự: _Ulaghanbaghator_; phiên âm IPA: , nghĩa là "Anh Hùng Đỏ") là thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất của Mông Cổ. Với
**Sông Yenisei** (, _Yeniséy_; , _Yenisei mörön_; tiếng Buryat: Горлог мүрэн, _Gorlog müren_; tiếng Tuva: Улуг-Хем, _Uluğ-Hem_; tiếng Khakas: Ким суғ, _Kim suğ_) là một trong những hệ thống sông lớn nhất đổ ra Bắc
**Valentin Ivanovich Rassadin** (; 12 tháng 11 năm 1939 – 15 tháng 8 năm 2017) là một nhà ngôn ngữ học Liên Xô và Nga. Ông nổi tiếng với các tài liệu và nghiên cứu
thumb|Soyombo trên cổng [[Cung điện Chính phủ tại Ulaanbaatar]] **Soyombo** (Tiếng Mông Cổ: Соёмбо, từ tiếng Phạn: _svayambhu_) là một chữ đặc biệt trong bảng chữ cái Soyombo, được phát minh bởi Zanabazar vào 1686.
**Ulan-Ude** (tiếng Nga: Улан-Удэ; tiếng Buryat: Улаан-Үдэ (Ulaan-Üde); tiếng Mông Cổ: Улаан-Үд (Ulaan-Üd)) là thủ phủ của Cộng hòa Buryat, Nga, thành phố này năm cách khoảng 100 km về phía đông nam hồ Baikal trên
Trung Quốc có tới hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Hán tiêu chuẩn, dựa trên tiếng Quan Thoại là trung tâm, nhưng tiếng Trung Quốc có hàng trăm ngôn
**Sông Yenisei** (tiếng Nga: Енисей) là một trong những hệ thống sông lớn nhất đổ ra Bắc Băng Dương, với chiều dài 4.539 km (3.445 dặm) thì nó là con sông dài thứ 5 trên thế
**Sông Angara** (, _Angar_,  "kẽ nứt"; , _Angará_) là một con sông dài 1.779 km (1.105 dặm) chảy trong tỉnh Irkutsk và Krasnoyarsk krai ở miền đông nam Siberia, Nga. Nó là con sông duy nhất
**Tiếng Mông Cổ** (chữ Mông Cổ truyền thống:; chữ Kirin Mông Cổ:) là ngôn ngữ chính thức của Mông Cổ, và là thành viên nổi bật hơn cả của ngữ hệ Mông Cổ. Số người
**Buuz** (tiếng Mông Cổ: _Бууз_; tiếng Buryat: _Бууза_/ buuza, đọc âm tiếng Việt như là _bô-zừ_, âm hơi gió xuất phát từ từ "baozi" trong tiếng Trung nghĩa là "bánh bao") là một loại bánh
**Datsan Gunzechoinei** là một ngôi chùa Phật giáo ở Saint Petersburg, Nga. Đây là ngôi chùa Phật giáo duy nhất ở cực bắc ở Nga. ## Lịch sử Trong năm 1909, Agvan Dorzhiev có sự
**Altanbulag** (, "suối nước nóng vàng") là một sum của tỉnh Selenge ở miền bắc Mông Cổ. Nó nằm cách tỉnh lỵ Sükhbaatar khoảng 25 km, giáp với Nga. Thị trấn phía bên kia biên giới
**Hulunbuir** ( _Kölün buyir_, tiếng Mông Cổ viết bằng chữ Kirin: Хөлөнбуйр, _Khölönbuir_; chữ Hán giản thể: 呼伦贝尔, bính âm: Hūlúnbèi'ěr, âm Hán Việt: **Hô Luân Bối Nhĩ**) là một địa cấp thị nằm phía
**Choibalsan** (tiếng Mông Cổ: ) là thành phố lớn thứ tư ở Mông Cổ. Tên gọi của thành phố này đã là **Bayan Tümen** () cho đến năm 1941, khi nó được đổi theo tên
Đại học nghiên cứu tổng hợp kỹ thuật quốc gia Irkutsk, (Tiếng nga: Иркутский национальный исследовательский технический университет, viết tắt tiếng Nga: ИpНИТУ, viết tắt tiếng Anh: IrNITU) - một trong những trường đại học
**Ngữ hệ Mông Cổ** hay **ngữ hệ Mongolic** () là một nhóm các ngôn ngữ được nói ở Đông và Trung Á, chủ yếu ở Mông Cổ và các khu vực xung quanh, và ở
**Chita Oblast** (), _Chitinskaya oblast_) là một tỉnh của Nga. Tỉnh này có diện tích 431500 ki-lô-mét vuông, dân số 1.155.346 người. Từ ngày 1 tháng 3 năm 2008, tỉnh Chita sáp nhập với Khu
**Dornod** (, có nghĩa là _"Đông"_) là tỉnh cực đông trong số 21 tỉnh của Mông Cổ. Có tỉnh lỵ là Choibalsan. Phía bắc giáp vùng Zabaykalsky của Nga, phía nam giáp tỉnh Sükhbaatar, phía