Sông Yenisei (, Yeniséy; , Yenisei mörön; tiếng Buryat: Горлог мүрэн, Gorlog müren; tiếng Tuva: Улуг-Хем, Uluğ-Hem; tiếng Khakas: Ким суғ, Kim suğ) là một trong những hệ thống sông lớn nhất đổ ra Bắc Băng Dương, với chiều dài 3487 km thì nó là con sông dài thứ 5 trên thế giới. Hệ thống sông này có diện tích lưu vực và chiều dài nhỏ hơn của hệ thống Mississippi-Missouri tại Hoa Kỳ nhưng lưu lượng nước trung bình thì cao hơn gấp 1,5 lần. Bắt nguồn từ Mông Cổ, nó chảy theo hướng bắc để đổ ra biển Kara, tưới tiêu cho một phần rộng lớn của Trung Siberia, dòng chảy dài nhất là Enisei-Angara-Selenga-Ider.
Ở thượng nguồn, với nhiều thác ghềnh, sông này chảy qua những vùng dân cư thưa thớt. Ở trung lưu, hệ thống sông này bị kiểm soát bằng một loạt đập thủy điện lớn của Nga. Chảy theo những cánh rừng taiga dân cư thưa thớt, sông Enisei tiếp nhận nước từ một loạt các sông nhánh và cuối cùng đổ ra biển Kara trong một vùng đài nguyên hoang vu, bị đóng băng trong khoảng trên 6 tháng mỗi năm.
Trong thời kỳ băng hà, hành trình tới Bắc cực bị băng ngăn chặn lại. Mặc dù các chi tiết chính xác là chưa rõ ràng, nhưng một số học giả cho rằng khi đó sông Enisei cũng như sông Obi đã chảy vào một hồ lớn chiếm phần lớn phần miền tây Siberi, và cuối cùng đổ ra biển Đen. (Xem bài Hồ sông băng Tây Siberi trong giai đoạn đầu của sự đóng băng Weichsel)
Dòng chảy
Thượng nguồn
Sông Yenisei phát nguồn từ hai nhánh chính là: Bolshoi Yenisei (Yenisei Lớn) hay còn gọi là Bii-Khem (Бии-Хем) phát sinh từ khu vực Tuva bên hông chữ S của dãy núi Sayan phía đông và phía bắc của dãy núi Tannu-Ola tại tọa độ ; và Malyy Yenisei (Yenisei Nhỏ) hay còn gọi là Kaa-Khem (Каа-Хем) phát sinh từ Thung lũng Darkhad tại Mông Cổ. Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng lối chảy hẹp tại Thung lũng Darkhad thường xuyên bị chặn lại bởi băng, sinh ra một hồ lớn như hồ Khövsgöl cận kề. Khi các sông băng rút lui (lần gần đây nhất là khoảng 9300 năm TCN) thì có thể có tới 500 km³ nước được giải phóng ra, và có thể đó sẽ là thảm họa.
Hai nhánh chính này chảy về phía tây để hợp lưu tại Kyzyl, và gặp gỡ với sông Khemchik chảy theo hướng đông thông qua một hẻm núi ở dãy núi Sayan Tây. Tại đây có đập Sayano-Shushenskaya cao 242 m của nhà máy thủy điện lớn nhất Nga, hoàn thành năm 1989 với công suất 6.400 MW phục vụ cho sản xuất nhôm. Nó cao hơn một chút (khoảng 10%) và gần 3 lần dài hơn đập Hoover ở Hoa Kỳ. Có một đập cao 30m tại Mayna, 25 km xuôi theo dòng chảy từ Kyzyl. Tại đây Yenisei thoát ra khỏi khu vực núi để chảy trong khu vực thảo nguyên. Đoạn này dài chừng 700 km.
Khoảng 120 km xuôi theo dòng chảy nữa thì sông Yenisei được mở rộng ra do tiếp nhận nước từ sông Abakan và chảy qua Abakan - thủ phủ của khu vực Khakassia - trên bờ tây và Minusinsk trên bờ đông. Nó chảy gần ngang qua sông Chulym - sông nhánh của Obi - trong phạm vi 10 km trước khi chảy tới Krasnoyarsk cách đó 300 km. Thành phố này là lớn nhất dọc theo sông Yenisei. Krasnoyarsk cũng là một cảng lớn. Chỉ ngay phía trên Krasnoyarsk là đập thủy điện Krasnoyarsk.
Thành phố bí mật Zheleznogorsk, 70 km xuôi theo dòng chảy từ Krasnoyarsk, là nơi thử nghiệm vũ khí hạt nhân bí mật của Liên Xô và không thể hiện trên phần lớn các bản đồ. Tình trạng chính xác của các loại rác thải hạt nhân là không rõ, nhưng một số nguồn thải ra vẫn tiếp tục gây ô nhiễm sông Yenisei. Xa hơn nữa khoảng 200 km xuôi dòng là nơi hợp lưu với sông Angara (đoạn cuối cùng của nó gọi là Verkhnyaya Tunguska).
[[Tập tin:khuvsgul.jpg|nhỏ|Hình ảnh từ vệ tinh này rộng 800 km. Khu vực màu xanh lục về phía trên mé trái, chứa vài hồ nhỏ và có ranh giới bởi các đỉnh núi đầy băng tuyết của dãy núi Sayan Đông ở phía bắc, là đầu nguồn của Bolshoi Yenisei (Yenisei Lớn) ở Tuva. Thung lũng Darhat khô cằn ở phía tây hồ Khövsgöl ở trung tâm của hình là nguồn của Malyy Yenisei (Yenisei Nhỏ). Hai nhánh sông này chảy tới chỗ hợp lưu tại Kyzyl ở mé trái của hình.
Hồ Baikal ở bên phải hình và sông Angara chảy theo hướng bắc từ Irkutsk có thể thấy rõ. Nó được mở rộng do đập nước tại Bratsk 200 km xa hơn nữa về phía bắc. Sông Selenga, đầu nguồn của nó bao gồm hồ Khövsgöl, chảy vào hồ Baikal trong châu thổ ở rìa của hình. Sông Lena có đầu nguồn ở mé trên bên phải của hình.]]
Hồ Baikal
Đoạn thượng nguồn dài 320 km (một phần có thể thích hợp cho tàu bè qua lại) của sông Angara nối vào phần phía bắc của hồ Baikal từ Cộng hòa Buryat nhưng dòng vào lớn nhất là từ sông Selenga, tạo thành một vùng đồng bằng châu thổ ở phía đông nam. Các sông nhánh dài nhất của nó phát nguồn từ sườn dốc phía đông của dãy núi Khangai ở miền trung Mông Cổ. Một sông nhánh khác, Tuul chảy qua thủ đô của Mông Cổ, thành phố Ulan Bator trong khi sông Egiin Gol lấy nước từ hồ Khövsgöl.
Sông Angara
Sông Angara (Ангара) lấy nước từ hồ Baikal và chảy trên khoảng cách dài gần 1.800 km từ thủ phủ của tỉnh Irkutsk là thành phố cùng tên tới chỗ hợp lưu với sông Yenisei tại Strelka (). Nó bị ngăn bằng 4 đập nước để phát điện. Đập thủy điện cao 44 m tại Irkutsk sản sinh ra công suất 650 MW. Bratsk nằm cách đó 500 km xuôi theo dòng chảy, tại đây một con đập cao 124 m, xây dựng trong thập niên 1960 của nhà máy thủy điện Bratsk sản sinh công suất 4.500 MW. Hồ chứa nước nhân tạo được tạo ra do ngăn sông bởi con đập này còn được gọi là Hồ Rồng do bề ngoài của nó. Các sông nhánh của nó là sông Oka và Iya, phát sinh từ sườn phía bắc của dãy núi Sayan Đông, tạo ra 'miệng' và 400 km của sông Angara tạo thành 'đuôi'. Còn có các đập ngăn nước mới gần to lớn như vậy tại Ust-Ilimsk 250 km xuôi dòng (cũng ngăn sông nhánh Ilim) và tại Boguchany xa hơn nữa khoảng 400 km xuôi dòng (chưa hoạt động). Các đập nước khác cũng đã được lên kế hoạch nhưng các hậu quả môi trường của sông Angara khi bị chế ngự hoàn toàn đã dẫn tới phản đối và điều đó có thể ngăn cản việc cấp vốn tiếp theo.
Angarsk, trung tâm của vùng công nghiệp dầu khí Đông Siberi đang trải rộng và là nơi có nhà máy lọc dầu khổng lồ do Yukos sở hữu, nằm cách Irkutsk 50 km theo xuôi dòng. Đường ống chính dẫn dầu về phía tây, và một đường ống mới đang được xây dựng để chở dầu về phía đông nhằm cung cấp cho Nhật Bản, thông qua cảng Nakhodka. Tiềm năng chính xác của Đông Siberi là không rõ, nhưng hai mỏ dầu lớn mới là Kovyktinskoye gần Zhigalovo 200 km về phía bắc Irkutsk và mỏ Verkhnechonskoye ở khu vực cực kỳ hoang vắng, 500 km về phía bắc Irkutsk trên cao nguyên Trung Sibir.
Sông Yenisei, nhìn từ đường sắt xuyên Siberi gần Krasnoyarsk.
Hạ lưu
Sông Kaz Lớn nối với Yenisei 300 km xuôi theo dòng chảy tính từ Strelka. Nó đáng chú ý vì sự kết nối với Obi thông qua kênh đào Obi-Yenisei và sông Ket. Lòng sông bắt đầu mở rộng ra với nhiều hòn đảo trên sông và hàng loạt các sông nhánh làm tăng lưu lượng dòng chảy của nó, cụ thể là sông Podkamennaya Tunguska dài 1.865 km, và sông Nizhnyaya Tunguska dài 2.989 km tại Turukhansk tưới tiêu cho khu vực cao nguyên Trung Siberi hoang vu từ phía đông. Khu vực hoang vắng Tunguska đáng chú ý vì va chạm thiên thạch năm 1908, hiện nay được sử dụng trong khai thác dầu khí. Qua khỏi Turukhansk, sông Yenisei chảy vào vùng đài nguyên.
Sông Yenisei bị đóng băng trên 6 tháng mỗi năm, và các tảng băng không bị kiềm chế có thể ngăn cản lòng sông gây ra ngập lụt lớn. Các loại thuốc nổ được sử dụng để duy trì dòng chảy của nước. Thị trấn cuối cùng là Dudinka, được nối với Krasnoyarsk bằng tàu khách. Lòng sông mở rộng tới 50 km tại khu vực cửa sông trong 250 km cuối cùng và đường thủy dành cho tàu bè được duy trì nhờ tàu phá băng.
Giao thông thủy
Đoàn người đầu tiên có thể đi lại trên toàn bộ chiều dài sông Yenisei, bao gồm cả các sông nhánh hung dữ trên thượng nguồn tại Mông Cổ, là nhóm người Australia-Canada, chuyến đi hoàn thành vào tháng 9 năm 2001. Ben Kozel, Tim Cope, Colin Angus và Remy Quinter là những người trong đoàn này. Cả Kozel và Angus đã viết các cuốn sách miêu tả chi tiết cuộc thám hiểm này, và phim tài liệu đã được sản xuất cho National Geographic Television.
Cư dân bản địa
Các bộ lạc du cư cổ đại như người Ket và người Yugh đã sống dọc theo hai bờ sông này. Người Ket, với số lượng khoảng 1.000, là những người còn sống sót tới ngày nay trong số các dân tộc ban đầu sống trong khu vực trung nam Siberi gần hai bờ sông Yenisei. Các họ hàng đã tuyệt chủng của họ bao gồm người Kott, người Assan, người Arin, người Baikot, người Pumpokol- những bộ lạc sống xa hơn về phía nam nơi thượng nguồn con sông. Người Ket ngày nay sống tại các khu vực giữa phía đông sông trước khi bị đồng hóa về mặt chính trị vào Nga trong thế kỷ 17-19.
👁️
3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngữ hệ Enisei** (còn được gọi là **Enisei-Ostyak**) là một ngữ hệ hiện diện tại khu vực sông Enisei thuộc Siberia. ## Phân loại * **_Tiền Enisei_** ** _Bắc Enisei_ (chia tách vào khoảng năm
**Dené-Enisei** là một ngữ hệ được đề xuất bao gồm ngữ hệ Enisei (đại diện sống duy nhất là tiếng Ket) tại miền trung Xibia và ngữ hệ Na-Dené ở tây bắc Bắc Mỹ. Sự
**Sông Yenisei** (, _Yeniséy_; , _Yenisei mörön_; tiếng Buryat: Горлог мүрэн, _Gorlog müren_; tiếng Tuva: Улуг-Хем, _Uluğ-Hem_; tiếng Khakas: Ким суғ, _Kim suğ_) là một trong những hệ thống sông lớn nhất đổ ra Bắc
**Sông Enisei nhỏ** () chảy tại miền bắc Mông Cổ và Tuva. Sông là một phần của lưu vực sông Enisei. Sông chảy qua Dthung lũng Darkhad ở tây bắc của tỉnh Khövsgöl, Mông Cổ
**Hung Nô** () là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ III TCN họ đã kiểm soát
**Tiếng Yết** () là một ngôn ngữ thất truyền chưa được phân loại, từng được sử dụng ở đông bắc Trung Quốc dưới triều Hậu Triệu do người Yết, trước là một phần của liên
nhỏ|phải|Những [[chiến binh người Hung]] **Nguồn gốc người Hung** (_Origin of the Huns_) và mối quan hệ của tộc người Hung này với những giống dân khác được nhắc đến trong các nguồn sử liệu
**Cộng hòa Tyva** (; , _Tyva Respublika_), **Tuva** () hay **Đường Nỗ Ô Lương Hải** (唐努烏梁海 - tên gọi vào thời nhà Thanh), là một nước cộng hòa thuộc chủ thể liên bang của Nga.
phải|Đồng bằng Tây Siberia trên ảnh vệ tinh của [[Bắc Á]] **Đồng bằng Tây Siberia** () là một đồng bằng lớn chiếm phần phía tây của Siberia, giữa dãy núi Ural ở phía Tây và
**Tiếng Ket** hay cụ thể hơn là _Imbak_ và trước đây gọi là **tiếng Enisei Ostyak**, Một ngôn ngữ khác của ngữ hệ Enisei, tiếng Yugh, được cho là đã biến mất gần đây. ##
Các dãy núi tại Nga, Mông Cổ, Kazakhstan và Trung Quốc nhỏ|Đá Treo cổ, Tây Sayan **Dãy núi Sayan** (; ; _dãy núi Kokmen_ vào thời Đột Quyết) nằm giữa tây bắc Mông Cổ và
**Sông Yenisei** (tiếng Nga: Енисей) là một trong những hệ thống sông lớn nhất đổ ra Bắc Băng Dương, với chiều dài 4.539 km (3.445 dặm) thì nó là con sông dài thứ 5 trên thế
**Sông Ket** (tiếng Nga: Кеть), tại đoạn thượng nguồn còn gọi là **sông Ket lớn** (Большая Кеть), là một con sông tại Krasnoyarsk krai và tỉnh Tomsk của Nga, chi lưu bên phải của sông
**Nizhnyaya Tunguska** (, **Hạ Tunguska**) — là một sông tại Siberia, Nga, chảy qua tỉnh Irkutsk và vùng Krasnoyarsk. Sông là chi lưu hữu ngạn của Enisei và hợp lưu tại Turukhansk. Các điểm định
Lịch sử thời kỳ đầu của Siberia mang ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn minh Pazyryk mang tính du mục của người Scythia ở bờ tây của dãy núi Ural và người Hung Nô
**Ngữ hệ Na-Dené** (cũng được gọi là **Nadene**, **Na-Dene**, **Athabaska–Eyak–Tlingit**, **Tlina–Dene**) là một ngữ hệ thổ dân châu Mỹ bao gồm nhóm ngôn ngữ Athabaska, tiếng Eyak, và tiếng Tlingit. Một giả thuyết cũ rằng
**Tiếng Burushaski** (, ) là một ngôn ngữ tách biệt hiện diện tại Gilgit-Baltistan, Pakistan, và là ngôn ngữ của người Burusho. Thời điểm năm 2000, tiếng Burushaski có khoảng 87.000 người nói, sinh sống
**Sông Obi** (tiếng Nga: Обь), là một con sông chính ở miền tây Siberi, Nga, đồng thời là con sông dài thứ tư tại quốc gia này. Người Khanty gọi con sông này là _As_
**Sông Angara** (, _Angar_, "kẽ nứt"; , _Angará_) là một con sông dài 1.779 km (1.105 dặm) chảy trong tỉnh Irkutsk và Krasnoyarsk krai ở miền đông nam Siberia, Nga. Nó là con sông duy nhất
nhỏ|phải|Dưới chân núi rặng Altai **Dãy núi Altay** hay **dãy núi Altai** hay **rặng Altai** là một dãy núi ở trung tâm châu Á, nằm trên khu vực biên giới Nga, Trung Quốc, Mông Cổ
**Kyzyl** (; , _Kьzьl/Kızıl_, ) hay **Khắc Tư Lặc** là thủ phủ của Cộng hoà Tuva, Nga. Tên của thành phố có nghĩa là "đỏ" trong tiếng Tuva (cũng như trong nhiều ngôn ngữ Turk
**Dudinka** là một thành phố tại Liên bang Nga, trung tâm hành chính của Vùng tự trị Taymyr và từ ngày 1 tháng 1 năm 2007 trở đi là của huyện Taymyr. Nó được thành
Bản đồ vùng Bắc cực của Nga nhỏ|Vị trí của bán đảo Taymyr **Bán đảo Taymyr** () là một bán đảo tại Siberi tạo thành phần xa nhất về phía bắc của châu Á đại
**Nhóm ngôn ngữ Samoyed** hay **ngữ chi Samoyed** là nhóm ngôn ngữ được nói ở cả hai bên dãy núi Ural, tại vùng cực bắc của lục địa Á Âu. Có 25.000 người sử dụng
**Podkamennaya Tunguska** (, nghĩa là _Tunguska dưới những cục đá_, **Trung Tunguska** hay **Tunguska đầy đá**) là một sông tại vùng Krasnoyarsk, Nga; đây là một chi lưu phía đông của sông Enisei và có
**Thiền vu** (tiếng Hung Nô: sanok / tsanak; theo _Hán thư,_ nghĩa là thiên tử) là tước hiệu của các lãnh đạo tối cao của dân du mục ở Trung Á trong 8 thế kỷ,
**Tengri giáo**, còn được gọi là **Tengrii giáo**, **Tenggeri giáo**, **Tenger giáo**, là một tôn giáo cổ xưa bắt nguồn từ Trung Á và vùng thảo nguyên Á-Âu với trung tâm là thần bầu trời
thumb|Bản đồ Tây Siberia **Tây Sibir** hay **Tây Xibia** (tiếng Nga: Западная Сибирь; _Zapadnaja Sibir_) là một phần của Sibir rộng lớn hơn thuộc Liên bang Nga và Kazakhstan. Nó nằm giữa các khu vực
**Châu Á** phần lớn nằm ở Bắc bán cầu, là châu lục có diện tích lớn nhất trên thế giới. Thiên nhiên của châu Á rất đa dạng. Diện tích châu lục này bao phủ
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Vladimir Ilyich Lenin** (tên khai sinh: **Vladimir Ilyich Ulyanov**; – 21 tháng 1 năm 1924) là một nhà cách mạng, nhà chính trị và lý luận chính trị người Nga. Ông là người sáng lập
nhỏ|250x250px|[[Sông Tamakoshi và thác Bhorley ở Nepal nhìn từ trên cao]] nhỏ|phải|251x251px|[[Murray (sông)|Sông Murray tại Úc]] **Sông** là dòng nước chảy thường xuyên tương đối ổn định trên bề mặt lục địa, các dòng sông
**Kyrgyzstan** (phiên âm tiếng Việt_: "Cư-rơ-gư-xtan"_, tiếng Kyrgyz: Кыргызстан; tiếng Nga: Киргизия, tuỳ từng trường hợp còn được chuyển tự thành Kirgizia hay Kirghizia, đọc như _"Ki-rơ-ghi-zi-a"_) (đánh vần theo IPA: ), tên chính thức
**Truật Xích** (; – ) là một hoàng tử của Đế quốc Mông Cổ. Tuy cuộc đời gắn liền với những tranh cãi và đồn thổi xung quanh hoàn cảnh sinh đẻ và thân thế
Trong địa chất học, **khiên** thường được sử dụng để chỉ một vùng rộng lớn lộ ra các loại đá mácma kết tinh niên đại tiền Cambri và đá biến chất mức độ cao, tạo
**Sông Selenga** () hay **sông Selenge** (, ) là một con sông chảy qua Mông Cổ và Nga. Các sông đầu nguồn của nó là Ideriin gol (sơ cấp) và Delgermoron (thứ cấp). Nó chảy
**Sông Pyasina** (tiếng Nga: Пясина река) là một con sông chảy trong vùng Krasnoyarsk của Liên bang Nga. ## Mô tả Con sông này bắt nguồn từ hồ Pyasino ở phía tây bắc cao nguyên
**Thông Siberi** (danh pháp hai phần: **_Pinus sibirica_**) là một loài thông trong họ Thông (_Pinaceae_) có tại khu vực Siberi từ kinh độ 58° đông trong khu vực dãy núi Ural kéo dài về
(14 tháng 9 năm 1769 - 6 tháng 5 năm 1859), thường được biết đến với tên **Alexander von Humboldt** là một nhà khoa học và nhà thám hiểm nổi tiếng của Vương quốc Phổ.
**Đường sắt xuyên Siberia** (tiếng Nga: _Транссибирская железнодорожная магистраль_) là đường sắt xuyên lục địa Á-Âu, đi từ Moskva đến Vladivostok. ## Lịch sử Tháng 3 năm 1891, Nikolai II, người sau này trở thành
**Irkutsk** (tiếng Nga: **Ирку́тск**) là một thành phố nằm Đông Nam nước Nga, trung tâm hành chính của tỉnh Irkutsk với dân số khoảng 606.000 (năm 2024). Đây là thành phố lớn thứ năm ở
**Khâu Xứ Cơ** hay **Khưu Xứ Cơ** (phồn thể:丘處機, giản thể:丘处机, 10/2/1148 - 21/8/1227), nguyên danh của ông vẫn chưa được biết , tự Thông Mật (通密), đạo hiệu là **Trường Xuân Tử** là đạo
**Abakan** (tiếng Nga: Абакан; tiếng Khakas: Ағбан) là thủ phủ của Cộng hòa Khakassia, Nga. Nó nằm ở trung tâm của thung lũng lòng trảo Minusinsk, tại hợp lưu của sông Enisei và sông Abakan,
phải|_[[Những người Zaporozhe (tranh)|Người Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ_. Tranh của Ilya Repin từ năm 1880 tới năm 1891.]] phải|Một gia đình cossaks người mỹ vào những năm 1950 phải|Một binh đoàn
**Sông Kama** (từ tiếng Udmurt: _кам_: sông, dòng chảy); một con sông tại phần châu Âu của Nga, sông nhánh phía tả ngạn và lớn nhất của sông Volga. Trước khi có sự đổ vào
**Samarkand** (, ; ; ; ) là thành phố lớn thứ hai của Uzbekistan và là thủ phủ của tỉnh Samarqand, cách thủ đô Tashkent khoảng 350 km. Đây là một thành phố du lịch nổi
**Cá chép nhớt**, **cá tinca** hay **cá hanh** (danh pháp hai phần: **_Tinca tinca_**) là loài cá nước ngọt và nước lợ duy nhất của chi **_Tinca_**, trước đây là phân họ **Tincinae** hoặc thuộc
**Tiếng Enets** là một ngôn ngữ Samoyed sắp biến mất của miền bắc Xibia, tại vùng hạ lưu sông Enisei dọc biên giới huyện Taimyr, một địa giới hành chính của Krasnoyarsk Krai, Liên bang
thumb **Dãy núi Tannu-Ola** (tiếng Tuva: **dãy núi Tangdy-Uula**; tiếng Mông Cổ: Тагны уулс, Тagny Uuls) nằm ở miền nam Siberia, tại Cộng hòa Tuva thuộc Nga. Dãy núi trải dài theo chiều đông-tây và
Bản đồ địa hình Nga **Cao nguyên Trung Siberia** () vùng đất có độ cao khác nhau giữa hai con sông Enisei và Lena tại Siberia. Cao nguyên có tổng diện tích trên 3,5 triệu