✨Sông Selenga

Sông Selenga

Sông Selenga () hay sông Selenge (, ) là một con sông chảy qua Mông Cổ và Nga. Các sông đầu nguồn của nó là Ideriin gol (sơ cấp) và Delgermoron (thứ cấp). Nó chảy vào hồ Baikal, tạo thành vùng đồng bằng châu thổ có diện tích khoảng 680 km². Sông Selenge có chiều dài 992 km, trong đó khoảng 409 km chảy trong lãnh thổ Nga.

Đặc điểm

Sông Selenge nói chung là một con sông đồng bằng; đối với nó đặc trưng là sự xen kẽ của các chỗ với thung lũng hẹp (tới 1–2 km) và các chỗ mở rộng dạng trũng (tới 20–25 km), tại đó nó thường chia ra thành các sông nhánh. Chế độ thủy văn của nó thường là các trận lũ băng thấp về mùa xuân, nước lớn do mưa về mùa hè và mùa thu và mực nước thấp về mùa đông.

Sông Selenge là thượng nguồn của hệ thống sông Enisei-Angara. Lưu lượng trung bình đo tại Ust-Kyakhta (Buryatia, Nga) là 284 m³/s (10.029 ft³/s), lưu lượng tối đa trong tháng 8 là 601 m³/s (21.224 ft³/s), lưu lượng tối thiểu trong tháng 2 là 23 m³/s (812 ft³/s). Đóng băng từ tháng 11 năm trước tới tháng 4 năm sau. Tại cửa sông là 935 m³/s (33.019 ft³/s).

Vận tải đường thủy có thể thực hiện được tới thành phố Sukhbaatar, thủ phủ tỉnh Selenge của Mông Cổ. Trên hai bờ sông Selenge có các thành phố và thị trấn như Sukhbaatar, Ulan-Ude và Selenginsk (Nga).

Các chi lưu

  • Tại Mông Cổ Egiin Gol bên tả ngạn sông Orkhol bên hữu ngạn
  • Tại Nga: Sông Dzhida bên tả ngạn Sông Chikoi bên hữu ngạn Sông Khilok bên hữu ngạn Sông Uda bên hữu ngạn

Nguồn gốc tên gọi

Tồn tại các phiên bản khác nhau về nguồn gốc tên gọi con sông này:

  • Từ gốc từ tiếng Buryat "сэл", nghĩa là "nước lũ, hồ";
  • Từ gốc từ tiếng Tungus "sele" hay "сэлэ", nghĩa là "sắt", và сэлэнга nghĩa là "có tính chất sắt".

    Thư viện ảnh

    Hình:Selenga2.jpg|Sông Selenge đoạn chảy qua Nga Hình:Mongol cable ferry.jpg|Phà qua sông Selenge tại Mông Cổ Hình:Selenga River bridge.jpg|Cầu đường sắt qua sông Selenge (gần Ulan-Ude) Hình:Selenga delta.jpg|Châu thổ sông Selenge
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sông Selenga** () hay **sông Selenge** (, ) là một con sông chảy qua Mông Cổ và Nga. Các sông đầu nguồn của nó là Ideriin gol (sơ cấp) và Delgermoron (thứ cấp). Nó chảy
**Orkhon** (, _Orkhon gol_) là một sông tại Mông Cổ. Dòng sông khởi nguồn từ dãy núi Khangai thuộc tỉnh Arkhangai và chảy về phía bắc với tổng chiều dài trước khi hợp dòng vào
**Sông Khanui** (tiếng Mông Cổ: Хануй гол) là một dòng sông chảy qua các thung lũng của dãy núi Khangai ở miền trung Mông Cổ. Nó bắt đầu từ sum Chuluut của tỉnh Arkhangai ở
Nước Nga bao gồm 2 phần đất ở châu Âu và châu Á, bị chia cắt bởi dãy Ural và biển Caspi. Phần châu Âu giáp với Bắc Băng Dương, biển Baltic, biển Đen, biển
**Sông Yenisei** (tiếng Nga: Енисей) là một trong những hệ thống sông lớn nhất đổ ra Bắc Băng Dương, với chiều dài 4.539 km (3.445 dặm) thì nó là con sông dài thứ 5 trên thế
**Sông Yenisei** (, _Yeniséy_; , _Yenisei mörön_; tiếng Buryat: Горлог мүрэн, _Gorlog müren_; tiếng Tuva: Улуг-Хем, _Uluğ-Hem_; tiếng Khakas: Ким суғ, _Kim suğ_) là một trong những hệ thống sông lớn nhất đổ ra Bắc
**Hồ Baikal** (phiên âm tiếng Việt: **Hồ Bai-can**; ; , , _Baygal nuur_, nghĩa là "hồ tự nhiên"; ) là hồ đứt gãy lục địa ở Nga, thuộc phía nam Siberi, giữa tỉnh Irkutsk ở
**Ulan-Ude** (tiếng Nga: Улан-Удэ; tiếng Buryat: Улаан-Үдэ (Ulaan-Üde); tiếng Mông Cổ: Улаан-Үд (Ulaan-Üd)) là thủ phủ của Cộng hòa Buryat, Nga, thành phố này năm cách khoảng 100 km về phía đông nam hồ Baikal trên
**Xung đột biên giới Nga – Thanh (1652 - 1689)** là một loạt các vụ đụng độ vũ trang giữa nhà Thanh, với sự trợ giúp từ nhà Triều Tiên, và Sa quốc Nga, tranh
**Cá tầm Siberi** (**_Acipenser baerii_**) là một loài cá tầm trong họ Acipenseridae. Nó hiện diện khắp các lưu vực sông lớn Xibia chảy hướng bắc vào biển Kara, biển Laptev và biển Đông Xibia,
Là một phần của Mông Cổ xâm lược Châu Âu, Đế chế Mông Cổ đã xâm chiếm Rus Kiev vào thế kỷ XIII, phá hủy nhiều thành phố, bao gồm Ryazan, Kolomna, Moskva, Vladimir và
**Cộng hòa Buryatia** (; tiếng Buryat: Буряад Улас (_Buryaad Ulas_), , tiếng Mông Cổ: Буриад Улс, (_Buriad Uls_)) hay **Cộng hòa Bố Lí Á Đặc** (布里亞特共和國) là một chủ thể liên bang của Nga (một
**Burkhan Khaldun** (Cyrillic: Бурхан Халдун; ) là một ngọn núi thuộc dãy núi Khentii, tại Khentii, đông bắc Mông Cổ. Dãy núi và khu vực liên quan của nó được đồn đại là nơi sinh
**Istok** (tiếng Nga: Исток) là một vi quận của quận Xô Viết, Ulan-Ude, Buryatia, Nga. ## Lịch sử Vào ngày 17 tháng 4 năm 1992, các khu dân cư Istok và Stepnoy đã được tách
**Xô Viết** (tiếng Nga: Советский, _Sovetskii_, tiếng Buryat: Соведэй, _Sovedei_) là một quận của Ulan-Ude, thủ đô của Cộng hòa Buryatia, Nga. Đây là quận có diện tích nhỏ nhất và ít dân nhất của
**Soldatsky** (tiếng Nga: Солдатский) là một vi quận (microraion) của quận Xô Viết, Ulan-Ude, Buryatia, Nga. Vào năm 2009, dân số của khu vực là 3.454 người. ## Lịch sử Vào ngày 22 tháng 3
**Cá hồi trắng Omul** hay **cá hồi trắng Baikal** (danh pháp hai phần: **_Coregonus migratorius_**), là một loài cá hồi trắng, chỉ có tại khu vực hồ Baikal ở Siberi, Nga cũng như một số
Các dãy núi tại Nga, Mông Cổ, Kazakhstan và Trung Quốc nhỏ|Đá Treo cổ, Tây Sayan **Dãy núi Sayan** (; ; _dãy núi Kokmen_ vào thời Đột Quyết) nằm giữa tây bắc Mông Cổ và
**Tiếng Buryat** hay **Buriat** (; chữ Buryat: , , ) là một ngôn ngữ Mông Cổ được nói bởi người Buryat mà có khi được phân loại như một nhóm phương ngữ lớn của tiếng