Orkhon (, Orkhon gol) là một sông tại Mông Cổ. Dòng sông khởi nguồn từ dãy núi Khangai thuộc tỉnh Arkhangai và chảy về phía bắc với tổng chiều dài trước khi hợp dòng vào sông Selenga, dòng sông mà sau đó chảy về phía bắc đến Nga rồi đổ vào Hồ Baikal. Orkhon có chiều dài lớn hơn Selenge, và là sông dài nhất tại Mông Cổ. Các phụ lưu chính của sông Orkhon là sông Tuul và sông Tamir.
Có hai bộ di chỉ cổ dọc theo Thung lũng sông: Khar Balgas, kinh đô cổ của vương quốc Hồi Hột và Karakorum (Cáp Lạp Hòa Lâm), kinh đô cổ của Đế quốc Mông Cổ. Pyotr Kuzmich Kozlov đã khai quật được một số ngôi mộ hoàng gia Hung Nô tại khu vực Thung lũng sông.
Rất gần Orkhon là sông Ulaan Tsutgalan với một thác nước đặc trưng, mười mét chiều rộng và hai mươi mét chiều cao. Thác nước là một địa điểm du lịch được biết đến. Các loài cá trên sông Orkhon bao gồm cá chó, cá chép, cá rô, taimen và cá da trơn.
UNESCO đã đưa Thung lũng Orkhon vào trong danh sách Di sản thế giới.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Orkhon** (, _Orkhon gol_) là một sông tại Mông Cổ. Dòng sông khởi nguồn từ dãy núi Khangai thuộc tỉnh Arkhangai và chảy về phía bắc với tổng chiều dài trước khi hợp dòng vào
**Orkhon** () là một trong 21 aimag (tỉnh) của Mông Cổ, nằm tại phía bắc của đất nước. Tỉnh lị là Erdenet. Tên của tỉnh bắt nguồn từ sông Orkhon. Orkhon được tách ra từ
Hẻm núi [[sông Chuluut]] Đây là một danh sách các dòng sông tại Mông Cổ, sắp xếp về mặt địa lý theo lưu vực sông. Trong tiếng Mông Cổ, sông được gọi là "gol" (гол)
**Sông Tuul** (Tiếng Mông Cổ: Туул гол, _tuul_ nghĩa là _"lội qua"_; một số văn bản cũng viết là _Tola_) là một dòng sông thuộc miền trung và miền bắc Mông Cổ và cũng là
**Cảnh quan văn hóa Thung lũng Orkhon** () trải dọc theo bờ sông Orkhon ở miền trung Mông Cổ, cách thủ đô Ulaanbaatar 320 km về phía tây. Nó được UNESCO công nhận là Di sản
**Orkhon** (tiếng Mông Cổ: Орхон) là một sum của tỉnh Selenge ở phía bắc Mông Cổ. Vào năm 2008, dân số của sum là 2.165 người. ## Địa lý Orkhon có diện tích khoảng 1306,27 km.
**Orkhon** (tiếng Mông Cổ: Орхон, thế=|không_khung) là một sum của tỉnh Darkhan-Uul, Mông Cổ. Sum này cách tỉnh lị Darkhan khoảng 45 km, cách thủ đô Mông Cổ Ulaanbaatar khoảng 275 km ## Kinh tế Đất đai
**Kharkhorin** () là một thành phố và một trung tâm sum của tỉnh Övörkhangai tại Mông Cổ. Sum có tổng dân số là 13.828 người (1994), 13.964 người (2000), 13.496 người (2003). Thành phố Kharkhorin
**Erdenet** (/ᠡᠷᠳᠡᠨᠢᠲᠦ, nghĩa là "với kho báu") là thành phố đông dân thứ nhì tại Mông Cổ và đồng thời là tỉnh lị của tỉnh Orkhon. Dân số thành phố vào năm 2017 là 97.814
**Karakorum** (tiếng Mông Cổ Khalkha: Хархорум _Kharkhorum_, tiếng Trung: 哈拉和林) là thủ đô của Đế chế Mông Cổ (1235-1260), và của nhà Bắc Nguyên (Thế kỷ 14–15). Di tích của nó nằm ở góc tây
phải|phong cảnh [[Tariat]] phải|Toàn cảnh [[Terkhiin Tsagaan Nuur.]] **Arkhangai** (, nghĩa là _Bắc Khangai_) là một trong 21 aimag (tỉnh) của Mông Cổ. Tỉnh nằm hơi lệch về phía tây của đất nước và nằm
nhỏ|Các bức tường xung quanh [[tu viện Erdene Zuu, nằm gần Karakorum.]] Đây là **danh sách các thành phố trong lịch sử Mông Cổ**. Mông Cổ là một quốc gia nội lục ở Đông và
**Sükhbaatar** (, , ) là tỉnh lị của tỉnh Selenge tại miền bắc Mông Cổ. Thành phố nằm bên dòng sông Orkhon. Dân số thành phố vào cuối năm 2007 là 19.224 người. Thành phố
**Ölziit** (tiếng Mông Cổ: Өлзийт, _hạnh phúc_) là một sum của tỉnh Arkhangai tại miền trung Mông Cổ. Vào năm 2010, dân số của sum là 2.831 người. Có một cây cầu bắc qua sông
**Khotont** (tiếng Mông Cổ: Хотонт) là một sum của tỉnh Arkhangai tại miền trung Mông Cổ. Vào năm 2010, dân số của sum là 3.884 người. ## Địa lý Trung tâm sum, Khotont, nằm cách
phải|nhỏ|453x453px|Cảnh quan Mông Cổ **Nông nghiệp ở Mông Cổ** chiếm trên 10% tổng sản phẩm quốc nội hàng năm của Mông Cổ và sử dụng một phần ba lực lượng lao động. Tuy nhiên, địa
**Töv** (, _, nghĩa là. "trung tâm"_) là một trong 21 aimag (tỉnh) của Mông Cổ. Thủ đô Ulaanbaatar nằm ở gần trung tâm của tỉnh song là một thực thể hành chính độc lập.
**Khujirt** (tiếng Mông Cổ: Хужирт) là một sum của tỉnh Övörkhangai tại miền trung Mông Cổ. Vào năm 2008, dân số của sum là 6.649 người. ## Địa lý Sum có diện tích khoảng 1.700 km²
**Khairkhan** (tiếng Mông Cổ: Хайрхан, _núi_) là một sum của tỉnh Arkhangai tại Mông Cổ. Vào năm 2010, dân số của sum là 3.343 người. ## Lịch sử Sau khi tỉnh Sain Noyon Khan được
**Tsenkher** (tiếng Mông Cổ: Цэнхэр, _xanh lam_) là một sum của tỉnh Arkhangai, miền trung Mông Cổ. ## Dân số Vào năm 2009, dân số ước tính của sum là 5.414 người, và đến năm
**Salkhit** (tiếng Mông Cổ: Салхит, _nhiều gió_) là một khu dân cư ở sum Khongor của tỉnh Darkhan-Uul ở miền bắc Mông Cổ. ## Địa lý Salkhit nằm trên sông Kharaa (một nhánh của sông
nhỏ|320x320px|Khu nghỉ dưỡng Khujirt **Khu nghỉ dưỡng Khujirt** (tiếng Mông Cổ: Хужиртын рашаан сувилал) là một khu nghỉ dưỡng tại sum Khujirt, tỉnh Övörkhangai, Mông Cổ. ## Lịch sử Vào năm 1600, một thợ săn
**Nhu Nhiên** () hay **Nhuyễn Nhuyễn/Như Như/Nhuế Nhuế** () hoặc **Đàn Đàn** (), tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: **Hun**, là một liên minh các bộ lạc du mục trên biên giới phía bắc Trung Quốc bản
**Övörkhangai** (, nghĩa là _nam Khangai_) là một trong 21 aimag (tỉnh) của Mông Cổ, nằm tại phía nam của đất nước. Tỉnh lị là Arvaikheer. Tu viện Shankh, một trong những tu viện cổ
**Dãy núi Khangai** (tiếng Mông Cổ: Хангайн нуруу) nằm ở miền trung Mông Cổ, cách khoảng 400 km về phía tây của thủ đô Ulaanbaatar. Ngọn núi cao nhất của dãy núi là Otgontenger (_nghĩa_ _"bầu
**Khashaat** (tiếng Mông Cổ: Хашаат, _có rào chắn_) là một sum của tỉnh Arkhangai ở miền trung Mông Cổ. Vào năm 2010. dân số của sum là 2.820 người. ## Lịch sử Khashaat chủ yếu
**Hãn quốc Hậu Đột Quyết** (, , được biết đến là _đất nước Turk Bilge Qaghan_ () trên văn bia Bain Tsokto) là một hãn quốc ở Trung và Đông Á được thành lập bởi
nhỏ|phải|Một con cừu Mông Cổ **Cừu Mông Cổ** là các giống cừu hiện đang được chăn nuôi ở Mông Cổ, kể cả vùng Nội Mông. Cừu Mông Cổ là một trong những gia súc quan
Dưới đây là danh sách các Di sản thế giới do UNESCO công nhận tại châu Á và châu Đại Dương. ## Afghanistan (2) nhỏ|[[Minaret ở Jam|trái]] * Tháp giáo đường ở Jam và các
**Bulgan** () là một trong 21 aimag (tỉnh) của Mông Cổ. Tỉnh nằm tại phía bắc đất nước và có thủ phủ cùng tên, Bulgan. ## Địa lý Bulgan giáp với tỉnh Khövsgöl ở phía
**Ögii nuur** (tiếng Mông Cổ: Өгий нуур, _hồ Ogii_) là một sum của tỉnh Arkhangai tại miền trung Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 3.086 người. ## Lịch sử Sum Ögii
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Ulaanbaatar** (phiên âm: _U-lan-ba-ta_, , chữ Mông Cổ: , chuyển tự: _Ulaghanbaghator_; phiên âm IPA: , nghĩa là "Anh Hùng Đỏ") là thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất của Mông Cổ. Với
Các dãy núi tại Nga, Mông Cổ, Kazakhstan và Trung Quốc nhỏ|Đá Treo cổ, Tây Sayan **Dãy núi Sayan** (; ; _dãy núi Kokmen_ vào thời Đột Quyết) nằm giữa tây bắc Mông Cổ và
**Mông Cổ** là một quốc gia nội lục ở Đông Á, nằm giữa Trung Quốc và Nga. Địa hình là núi và cao nguyên nhấp nhô, với độ cao lớn. Tổng diện tích đất liền
**Nguyên Chiêu Tông** (tiếng Hán: 元昭宗; 1340 – 1378; tiếng Mông Cổ: _Biligtü Khan_), tên thật **Ái Du Thức Lý Đạt Lạp** (愛猷識理答臘; _Ayusiridara_), là vị hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Nguyên
nhỏ|phải|Cảnh quan thảo nguyên Mông Cổ **Du lịch Mông Cổ** là hoạt động du lịch ở đất nước Mông Cổ, cũng là ngành quan trọng nhất định trong nền kinh tế Mông Cổ. Với những
**Bảng chữ cái Duy Ngô Nhĩ** là một ký tự chữ cái của tiếng Duy Ngô Nhĩ, một trong số ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Turk và được nói tại Tân Cương, một khu vực
**Tu viện Erdene Zuu** (, tiếng Hán:光顯寺, tiếng Tây Tạng:ལྷུན་གྲུབ་བདེ་ཆེན་གླིང་) có lẽ là tu viện Phật giáo xưa nhất còn tồn tại ở Mông Cổ. Nằm ở tỉnh Öörkhangai, cách trung tâm của Kharkhorin khoảng