Người Nanai (tên tự gọi нани/Nani nghĩa là người bản địa; tên tự gọi Hách Triết nghĩa là người phương Đông; tiếng Nga: нанайцы, "nanaitsy"; tiếng Trung: 赫哲族, "Hèzhézú"; Hán-Việt: Hách Triết tộc, trước đây còn gọi là Goldy và Samagir) là một sắc tộc trong các dân tộc Tungus ở vùng Viễn Đông, theo dòng lịch sử từng sinh sống dọc theo vùng bờ sông Hắc Long Giang (sông Amur), sông Tùng Hoa (Sunggari) và sông Ussuri trên lưu vực Trung Amur. Tổ tiên của người Nanai có lẽ là người Nữ Chân tại vùng xa nhất về phía bắc của Mãn Châu.
Tiếng Nanai thuộc về nhánh Mãn-Tungus của ngữ hệ Altai.
Tên tự gọi
Người Nanai tự gọi bằng các tên gọi , , .
Nhà ngôn ngữ học Nga L.I. Sem viết tên tự gọi bằng các ký tự Cyril, хэǯэ най (Hezhe nai) hoặc хэǯэны (Hezheni), và giải thích đó là tên tự gọi của người Nanai tại hạ du sông Amur, có nghĩa là "người sống ở vùng hạ du con sông".. Đó là nguồn gốc cho tên gọi trong tiếng Trung đối với người Nanai, trước đây là "黑斤" (Heijin, Hắc Cân), "赫哲哈喇" (Hezhehala, Hách Triết Cáp Lạt), và hiện nay là "赫哲" (Hezhe, Hách Triết).
Lối sống và văn hóa truyền thống
nhỏ|Bản đồ năm 1734 của người Pháp chỉ ra người Yupi (Ngư bì, "da cá") trên cả hai bờ sông Ussuri và Amur ở phía nam cửa Dondon (Tondon), và người Ketching xa hơn nữa xuôi theo dòng sông Amur (nơi người Nanai, [[người Ulch|Ulch và Nivkh hiện nay sinh sống)]]
Một trong số những mô tả đầu tiên về người Nanai trong các ngôn ngữ châu Âu là thuộc về các nhà địa lý kiêm tu sĩ dòng Tên người Pháp đã du hành dọc theo sông Ussury và Amur năm 1709. Theo các mô tả này, người bản địa sống dọc sông Ussury và dọc sông Amur phía trên cửa sông Dondon (đổ vào sông Amur tại nơi giữa Khabarovsk và Komsomolsk-on-Amur ngày nay) được biết đến như là Yupi Tartar (người Tartar da cá, xem đoạn kinh tế dưới đây), trong khi tên gọi của dân tộc sinh sống ven sông Dondon và đoạn sông Amur phía dưới Dondon được các tu sĩ dòng tên phiên âm sang tiếng Pháp thành Ketching..
Tên gọi sau có thể là phiên âm tiếng Pháp của tên tự gọi đã nêu (xem #Tên tự gọi trên đây) của người Nanai vùng hạ du sông Amur, , cũng dược dùng để chỉ dân tộc Ulch có quan hệ họ hàng gần.
Theo các tu sĩ dòng Tên, ngôn ngữ của người "Yupi" dường như ở vị trí trung gian giữa tiếng Mãn và ngôn ngữ của người "Ketching"; giao tiếp ở một mức độ nào đó giữa người Yupi và người Ketching là có thể.
Kinh tế
Theo miêu tả của các lữ khách ban đầu (như các nhà địa lý dòng Tên trên sông Ussury năm 1709), kinh tế của người dân sống tại đây (ngày nay có thể phân loại như người Nanai, hoặc cũng có thể là người Udegeits) dựa trên đánh bắt cá. Người dân sống trong các làng dọc hai bờ sông Ussuri, và dành toàn bộ thời gian mùa hè của mình vào đánh bắt cá, ăn cá tươi trong mùa hè (cụ thể họ đặc biệt thích cá tầm), và phơi cá khô để ăn trong mùa đông. Cá cũng có thể sử dụng làm thức ăn cho một vài loại gia súc mà họ có (làm cho mùi vị thịt lợn của họ trở thành khó ăn đối với các lữ khách với khẩu vị châu Âu).
nhỏ|trái|Bản đồ năm 1682 của người Ý, chỉ ra "regno di Nivche/regno di Nivchan" (vương quốc Nivche/Nivchan, nghĩa là Nữ Chân) hoặc "Kin (Kim) Tartar", cũng như vùng đất của "Tartari di Yupy" - nghĩa là "Tartar da cá" (Nanai và các bộ lạc liên quan) xa hơn về phía đông.
Quần áo truyền thống của họ làm từ da cá. Các tấm da cá này được phơi khô. Khi khô, chúng được người ta đập nện nhiều lần bằng vồ để cho bề mặt hoàn toàn nhẵn nhụi. Cuối cùng người ta khâu các tấm da này lại với nhau. Trong quá khứ, thực tiễn khác lạ này đã làm cho người ta gọi người Nanai là "Tartar da cá" (, Yupi Dazi, Hán-Việt: Ngư bì Thát tử). Tên gọi này cũng áp dụng, tổng quát hơn, cho các nhóm thổ dân khác tại lưu vực hạ du sông Sungari và Amur.
Nông nghiệp đến với vùng đất của người Nanai một cách chậm chạp. Trên thực tế loại cây trồng duy nhất do các làng của người Yupi trên bờ sông Ussuri gieo trồng vào năm 1709 chỉ là thuốc lá. Phương ngữ này không có hệ thống chữ viết riêng tại Trung Quốc và người Hách Triết thường viết bằng chữ Hán. (Sự biết đọc, biết viết ngôn ngữ thứ hai này đạt 84%.) Tuy nhiên, vào năm 2005, người ta đã hoàn thành có lẽ là bộ sách giáo khoa bằng ngôn ngữ Hách Triết đầu tiên.
Các khu vực tự trị của người Nanai
Người Nanai nổi tiếng
nhỏ|[[Dersu Uzala]]
Bộ phim năm 1975 của đạo diễn người Nhật Kurosawa Akira về Dersu Uzala, dựa trên cuốn sách của nhà thám hiểm Nga Vladimir Arsenyev, thuật lại quan hệ bằng hữu của nhà thám hiểm Nga và người dẫn đường của ông là người Nanai có tên gọi là Dersu Uzala.
Nữ pháp sư Nanai là Tchotghtguerele Chalchin đã biểu diễn phần niệm chú được ghi tại Siberi cho bài hát "The Lighthouse" (phỏng theo bài thơ "Flannan Isle" (đảo Flannan) của nhà thơ người Anh là Wilfred Wilson Gibson) trong album năm 1994 của nhà sản xuất người Pháp Hector Zazou là Chansons des mers froides (Các bài hát từ vùng biển lạnh). Ca sĩ chính là Siouxsie Sioux và nhạc nền do Sakharine Percussion Group và Sissimut Dance Drummers thể hiện.
Kola Beldy (1929-1993) ca sĩ nổi tiếng tại Liên Xô và Nga, đặc biệt được biết đến nhiều nhất từ việc thể hiện bài hát "Увезу тебя я в тундру" (Anh đưa em vào lãnh nguyên).
Hàn Canh, ca sĩ Trung Quốc, thành viên của nhóm nam ca sĩ Hàn Quốc Super Junior.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Người Nanai** (tên tự gọi нани/Nani nghĩa là người bản địa; tên tự gọi **Hách Triết** nghĩa là người phương Đông; tiếng Nga: нанайцы, "nanaitsy"; tiếng Trung: 赫哲族, "Hèzhézú"; Hán-Việt: Hách Triết tộc, trước đây
MÔ TẢ SẢN PHẨMSữa rửa mặt tạo bọt sạch sâu lỗ chân lông Nanai NATURA SIBERICA từ tinh chất Trái Mọng Đỏ được bộ lạc thổ dân người Nanai của miền Đông lạnh giá nước
**Negidal** (_негидальцы_ trong Tiếng Nga; tên tự gọi: _элькан бэйэнин_, hay elkan bayenin nghĩa là "người bản xứ." Tên Negidal là một từ Nga hóa của thuật ngữ tiếng Evenk là "ngegida", nghĩa là "người
**Tiếng Nanai** (còn gọi là Gold hoặc Hezhen) là ngôn ngữ của người Nanai ở Siberia, và một thiểu số ở tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc, nơi được gọi là _Hezhe_. Có khoảng 1.400
**Người Taz** (tiếng Nga: Тазы, phiên âm là Tazy) chủ yếu sống ở Nga. Họ hình thành vào những năm 1890, từ các cuộc hôn nhân giữa người Udege, người Nanai và người Trung Quốc.
nhỏ|Ảnh Chuonnasuan (1927-2000), pháp sư cuối cùng của người Oroqen, do [[Richard Noll chụp vào tháng 7 năm 1994 ở Mãn Châu gần biên giới trên sông Amur giữa Trung Quốc và Nga. Shaman giáo
Lấy cảm hứng từ những dải tuyết trắng trải dài vô tận và vẻ đẹp nguyên sơ của thiên nhiên Siberia, năng lượng sống động và đặc tính độc đáo của sả Nanai, Alena Akhmadullina
**Hàn Canh** (, sinh ngày 9 tháng 2 năm 1984), cũng được biết tới tại Hàn Quốc với tên âm Hán-Hàn là **Hankyung** (한경, _Han Gyeong_), là một nam ca sĩ, vũ công, diễn viên
nhỏ|Một người đàn ông Tungus ở Vorogovo, [[Xibia|Siberia, Nga năm 1914.]] **Các dân tộc Tungus** hay **Thông Cổ Tư** (tiếng Hán: 通古斯) là một nhóm khoảng 12 dân tộc sinh sống tại vùng đông bắc
**Xung đột biên giới Nga – Thanh (1652 - 1689)** là một loạt các vụ đụng độ vũ trang giữa nhà Thanh, với sự trợ giúp từ nhà Triều Tiên, và Sa quốc Nga, tranh
**Sông Amur** hay **Hắc Long Giang** (tiếng Nga: Амур; tiếng Trung giản thể: 黑龙江, phồn thể: 黑龍江. bính âm: Hēilóng Jiāng), tức "Hắc Long Giang" hay là "sông Rồng đen"; tiếng Mông Cổ: Хара-Мурэн, _Khara-Muren_
**Tục thờ Hổ** hay **tín ngưỡng thờ Hổ** là sự tôn sùng, thần thánh hóa **loài hổ** cùng với việc thực hành hoạt động thờ phượng hình tượng con hổ bằng các phương thức khác
THUỘC TÍNH SẢN PHẨM Loại da: Mọi loại da. Nhãn hiệu: Khác. Xuất xứ: Nga. Hạn sử dụng: .. Dung tích: 100. Ngày sản xuất: .. CHI TIẾT SẢN PHẨM Serum vitamin tươi dưỡng da
**Tên gọi loài vật** (_Animal name_) chỉ về cách mà người ta gọi một loài động vật cụ thể. Đối với nhiều loài động vật, đặc biệt là những con đã được thuần hóa (động
**Thẩm Dương** (tiếng Trung giản thể: 沈阳市, _Shenyang_) là một thành phố ở Đông Bắc Trung Quốc. Đây là tỉnh lỵ của tỉnh Liêu Ninh, nằm ở phía trung-bắc của tỉnh. Thẩm Dương là thành
**Bột Hải Cao Vương** (645 - 719) là người sáng lập của Vương quốc Bột Hải vào năm 698. Ông vốn tên là **Dae Jo-Young** (대조영, Hán-Việt: Đại Tộ Vinh), con trai của Dae Jung-sang
phải|nhỏ|300x300px|Hổ là con vật được nhắc đến rất nhiều trong tín ngưỡng dân gian **Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của
**Vladivostok** (tiếng Nga: Владивосто́к) là thủ phủ và là trung tâm hành chính của Vùng liên bang Viễn Đông và Primorsky Krai thuộc Nga, nằm quanh vịnh Zolotoy Rog (tiếng Nga: Золотой Рог), gần biên
nhỏ|[[Vùng liên bang Viễn Đông|Quận Viễn Đông Liên bang (màu đỏ)|thế=|300x300px]] **Viễn Đông Nga** (; ) hay **Transbaikalia** là một thuật ngữ chỉ những vùng của Nga ở Viễn Đông, ví dụ, những vùng cực
**Bản** hay **Ban**, **Muban** khi ghi bằng chữ Latinh, là đơn vị cư trú, đồng thời là đơn vị xã hội cơ sở thấp nhất ở vùng cư trú truyền thống của các dân tộc
nhỏ|1851 map of [[Tây Tạng, Mông Cổ and Manchuria. Manchuria is delimited by the Yablonoi range in the north, the Greater Khingan in the west, and the Pacific coast in the east. In the south
**Vùng Khabarovsk** () là một chủ thể liên bang của Nga (một krai), nằm ở Viễn Đông Nga. Vùng Khabarovsk bao gồm đồng bằng hạ lưu sông Amur, cũng như các khu vực đồi núi
**Tranh cãi về Cao Câu Ly** là vấn đề tranh cãi lịch sử dai dẳng giữa Trung Quốc và Triều Tiên về vấn đề lịch sử Cao Câu Ly, một vương quốc cổ đại (37
**Tiếng Evenk** trước đây tên **Tungus**, hay **Solon** là ngôn ngữ lớn nhất của nhóm bắc Tungus (gồm tiếng Even, tiếng Negidal, tiếng Evenk và tiếng Oroqen). Ngôn ngữ này được dùng bởi người Evenk
**Mãn Châu** là một tên gọi ngoại lai cho một số vùng đất lịch sử và địa lý lớn của Trung Quốc và Nga chồng lấn lên nhau ở Đông Bắc Á. Tùy thuộc vào
**Hổ Siberia**, **hổ Amur**, **hổ Triều Tiên**, **hổ Ussuri** hay **hổ Mãn Châu** hoang dã; biệt danh: "Chúa tể rừng Taiga", là một phân loài hổ sinh sống chủ yếu ở vùng núi Sikhote-Alin ở
**Mãn Châu dưới sự cai trị của nhà Minh** đề cập đến sự thống trị của nhà Minh trên lãnh thổ Mãn Châu, kể cả vùng Đông Bắc Trung Quốc và Priamurye hiện nay. Sự
**Primorsky Krai** (tiếng Nga:Примо́рский край), không chính thức được gọi là **Primorye** (Приморье), hay **Tân Hải** (濱海), là một chủ thể liên bang của Nga (một vùng, _krai_). Trung tâm hành chính là thành phố
Trung Quốc có tới hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Hán tiêu chuẩn, dựa trên tiếng Quan Thoại là trung tâm, nhưng tiếng Trung Quốc có hàng trăm ngôn
**Tiếng Mãn Châu** hay **Tiếng Mãn**, thuộc ngữ hệ Tungus, là tiếng mẹ đẻ của người Mãn Châu ở vùng Đông Bắc Trung Quốc và từng là một trong những ngôn ngữ chính thức của
**Ngữ hệ Tungus** (còn gọi là ngữ hệ Mãn-Tungus) là một ngữ hệ miền đông Siberia và Mãn Châu. Hầu hết ngôn ngữ Tungus bị đe dọa, và tương lai của các ngôn ngữ kia
**Vườn quốc gia Bikin** () là một vườn quốc gia được thành lập vào ngày 3 tháng 11 năm 2015 để bảo vệ khu vực rừng hỗn giao lớn nhất còn lại ở Bắc bán