✨Tục thờ hổ

Tục thờ hổ

Tục thờ Hổ hay tín ngưỡng thờ Hổ là sự tôn sùng, thần thánh hóa loài hổ cùng với việc thực hành hoạt động thờ phượng hình tượng con hổ bằng các phương thức khác nhau được phổ biến ở một số quốc gia châu Á, đặc biệt là những quốc gia có hổ sinh sống. Theo quan niệm nhiều nơi ở châu Á, hổ là giống loài dũng mãnh nhất trong muôn thú, là Chúa sơn lâm, là Hùm thiêng ngự trị tối cao trong rừng già, ở các nước phương Đông, hổ còn là một linh vật trong 12 con giáp, tượng trưng cho sức mạnh, nó còn là một trong Tứ Thánh thú cai quản Tây phương. Trong quan niệm và tín lý, hổ với những biểu hiện phẩm chất của nó là một tập hợp thành các tín lý đa nghĩa, tùy theo từng khuôn mẫu văn hóa tín ngưỡng khác nhau, nó biểu thị tốt hoặc xấu, thiện hay ác, chính hay tà. Hổ được tôn thờ cùng chung nhóm với các con vật có sức mạnh như sư tử, đại bàng, chim ưng, sói, gấu, voi. Ở Ấn Độ, hổ (cùng với báo hoa mai) được tôn xưng và hiện diện dưới hình tượng vị thần Waghoba (वाघोबा).

Trong nền văn hóa Đông Á, hổ là chúa tể các loài thú thay cho sư tử. Nó biểu trưng cho vua chúa, sự can đảm và phẫn nộ (cuồng nộ), hổ được người ta tôn lên vị trí Chúa tể của rừng núi và coi hổ là con vật linh thiêng. Đối với nhiều nước châu Á là Châu lục mà loài hổ phân bố thì hổ còn là biểu tượng của sức mạnh, uy quyền và tâm linh. Tại đây, hổ được coi là có vị trí thống trị trong giới động vật nên nhân dân ở một số nước phương Đông đã thần thánh hóa loài này với tập tục thờ hổ hay thờ thần hổ đã đi vào tín ngưỡng dân gian của nhiều dân tộc, cộng đồng, nhất là ở những chốn rừng núi sâu thẳm thì hổ luôn được thờ phụng. Một số dân tộc khác còn tôn thờ hổ như thần giám hộ (như ở Hàn Quốc, hổ đóng vai trò là Thần bảo hộ), thượng đẳng phúc thần, thần hộ mệnh, môn thần.

Tục thờ hổ là một dạng của tín ngưỡng thờ động vật (tục thờ thú) thuộc hệ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tục thờ hổ bắt nguồn từ cuộc sống nguyên thủy, khi con người còn sống trong điều kiện săn bắt, hái lượm hoặc giai đoạn đầu của cuộc sống nông nghiệp thì lúc này hổ chính là sức mạnh thiên nhiên vừa gần gũi và là tai họa đối với con người, chính vì vậy mà con người thờ hổ để cầu an. Ở đây, hổ được con người thờ phụng với vị thế là thần khai tổ, thần giám hộ, thần hộ mệnh, thần hộ môn, thần vệ đạo, với tâm thế này, nó được coi là phúc thần (thần may mắn). Nhưng mặt khác, từ nỗi khiếp sợ, nó cũng được tôn thờ như một ác thú bởi sự phá hoại. Hổ hiện thân và đồng nhất với các thế lực tự nhiên, nhất là chốn rừng thiên nước độc, lam sơn chướng khí, là trở ngại thử thách con người.

Những hình thức thờ phụng loài hổ có sự đa dạng ở các quốc gia, cộng đồng người ở khắp nơi thuộc châu Á và gắn liền với truyền thống văn hóa của từng vùng miền, những dân tộc theo tín ngưỡng bái vật giáo (Totem giáo) thì tôn thờ hổ như tổ tiên của tộc người mình, ở những nơi thịnh hành Shaman giáo thì hổ mang tính chất thánh thiêng và hòa trộn trong các nghi lễ thần bí. Trong khi nhiều nơi khác hổ được thờ phụng trong những không gian vật thể tín ngưỡng như đình, đền, miếu, chùa, ban thờ thông qua những nghi thức cúng tế, tranh thờ, tượng thờ và mỹ thuật tâm linh. Những biểu hiện khác như việc xem các phần cơ thể của hổ (nanh và vuốt) như những bùa hộ mệnh một cách mê tín. Nhưng nhìn chung, dù ở vùng đất nào, cộng đồng nào thì loài hổ cũng ngự trị với một vị thế tâm linh khả kính và hằn sâu trong tâm thức văn hóa từng vùng.

Dẫn luận

nhỏ|phải|Hổ môn bài, di chỉ thẻ mộc triều Lê vào thế kỷ thứ 17, được trưng bày tại Bảo tàng lịch sử Quốc gia Việt Nam Trong tự nhiên, hổ là loài mèo lớn là động vật ăn thịt đầu bảng hung hãn, dũng mãnh, can trường, hiên ngang, từ những đặc chất ấy mà hổ trở thành biểu tượng của sự hùng cường, có sức mạnh vô song, nhắc đến hổ người ta liên tưởng ra loài thú dữ ăn thịt sống, con người, muông thú khi nghe thấy tiếng gầm của hổ là hoảng loạn, nháo nhác tìm nơi trú ẩn. Hình tượng hổ bên cạnh sự quyền uy còn đáng nể, cùng với nhận thức về mỹ thuật và nghệ thuật (vẻ đẹp uyển chuyển, tiềm ẩn nội lực) khiến nó có những phẩm chất để trở thành một linh vật của tôn giáo, tín ngưỡng và được thờ phụng nghiêm cẩn.

Nếu như người châu Âu cho rằng sư tử là vua của muôn loài cầm thú vì trong tâm thức người Âu Mỹ, sư tử ảnh hưởng sâu đậm về văn hóa và biểu tượng, thì trong quan niệm người châu Á, hổ mới là chúa tể của rừng xanh, con người đối mặt với hổ, nghĩa là đối mặt với tử thần, diệt được một con hổ coi như lập được chiến công to lớn, trừ được hiểm họa cho cộng đồng. Từng một thời, con người đành bất lực trước oai quyền của hổ, đưa nó trở thành linh vật được đưa vào các gian thờ, người đời xưa cho tới đời nay, khi thờ hổ, họ đều cảm nhận được sự an toàn bởi được che chở theo quan niệm tâm linh.

Trái ngược với quan niệm của phương Tây, quan niệm dân gian Việt Nam cùg với quan niệm của một số cộng đồng cư dân vùng Đông Á, Bắc Á, Nam Á và Đông Nam Á thì từ trước đến nay luôn xem hổ tượng trưng cho sức mạnh, người dân đã thần thánh hóa hổ, cho nó một sức mạnh thiêng liêng diệt trừ được ma quỷ. Có hình hổ trấn giữ ở ngưỡng cửa là tà ma không dám xâm nhập, hình tượng hổ trở thành phổ biến trong nghệ thuật dân gian Việt Nam, được vẽ thành tranh để thờ cúng ở các đền, điện, coi như "thần tướng gác đền", được khách đi lễ thắp hương, khấn vái. Dù là con vật hoang, rất ít khi được thuần phục nhưng hổ đã có sự gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của người dân, trong đời sống thường nhật và tôn giáo. Nó không chỉ là biểu tượng của sức mạnh mà còn mang quyền uy chi phối hung dữ của kẻ anh hùng

Hổ là loài thú lớn đầy sức mạnh và có vị trí thống trị trong giới động vật, nên nhân dân ở một số nước phương Đông đã thần thánh hóa loài này. Ở Trung Quốc, hổ là biểu tượng của sự dũng mãnh và hoa văn trên trán hổ có hình chữ Vương (王), ngụ ý hổ sinh ra đã có sứ mạng là vị vua của muôn thú. Hổ còn là con vật thượng thủ đối với muôn thú trên cạn, ngược lại, ở thủy giới, rồng chiếm vị trí tối cao này, hổ là con vật có thực được sánh với rồng là một sinh vật truyền thuyết. Trong Đạo giáo và phong thủy thông qua hình tượng Âm-Dương, hổ đối lập với rồng và góp phần kiềm chế rồng, sự tranh đấu giữa rồng và hổ biểu thị cho lời cầu mong âm-dương giao hòa, điềm cát tường: mưa thuận gió hòa, mọi việc phát triển, trong khi đó ở Indonesia, Mã Lai, trong chừng mực nào đó, hổ được coi là nhân từ, ở Việt Nam có tồn tại hai luồng quan điểm trái ngược về hổ, thái độ của người dân đối với cọp vừa kính nể, coi như vị thần nhưng cũng coi thường, nếu cần thì rủ nhau đi săn bắt, giết không nương tay, nhưng quan niệm tôn trọng, sùng bái hổ thường thắng thế.

Đối với Phật giáo, hổ (Phạn văn: Vyaghra) dụ cho vô thường đáng lo sợ. Theo Luận Đại trí độ: "Trí vô lậu thường quán xét biết rõ tất cả pháp đều vô thường nên không sanh các kiết sử như ái" (dịch nghĩa: giống như dê gần hổ, tuy được ăn cỏ xanh tươi, uống nước trong mà không thể mập được. Các bậc thánh, tuy được thọ an lạc vô lậu, nhờ quán không, vô thường nên không sanh nhiễm trước). Trong Phật giáo, hổ tượng trưng cho sức mạnh đức tin, của nỗ lực tinh thần, vượt qua rừng rậm tội lỗi, được biểu thị bằng rừng tre, nó biểu tượng cho sức mạnh của niềm tin, sự chiến thắng mọi trở ngại trên con đường tu chứng, sự tượng trưng cho sự diệt trừ được tham, sân, si và ác nghiệp, tu thành quả Phật của con người.

Với tính cách đại diện cho thế lực hung dữ trong tự nhiên và thời kỳ thô sơ, con người trở nên bất lực trước sự hoành hành của loài hổ, do đó, một giải pháp mang tính tâm linh, tín ngưỡng của con người là đồng nhất với hổ (đồng hoá về tâm thức) hoặc lôi kéo hổ về phía mình (cầu thân với hổ) như là một sự thỏa hiệp trong tâm tưởng để mong hổ không làm hại đến mình và còn phù hộ cho mình. Việc đồng nhất, lôi kéo hổ về phía con người thể hiện qua một số khía cạnh: nhỏ|phải|Hổ được con người đồng nhất, lôi kéo về phía mình bằng các hình thức tâm linh

  • Tôn sùng và xem hổ như là tổ tiên, bậc khai tổ của dân tộc mình, con người là hậu duệ trực tiếp của loài hổ và luôn nhắc nhở phải tôn trọng, không làm hại, hay bất kính đến loài hổ. Điều này dẫn đến tục thờ hổ như một vị tổ thần và được thờ độc tôn (thờ chánh). Như vậy, hổ còn là ông tổ của một số thị tộc, điều này được thấy rõ qua hình thức bái vật tổ của các dân tộc ở vùng Siberia, ở Trung Quốc, cũng như một số dòng họ ở Trung Quốc, Việt Nam.
  • Xem hổ là người đồng hành với con người như hổ là vật cưỡi của các bậc thánh thần, hổ là đồng minh, chiến hữu trong cuộc chiến chống lại các thế lực khác. Trường hợp này hổ đóng vai trò phụng sự thánh thần, được thờ cùng với những thân thánh, tiền nhân và nó cũng được linh thiêng, thần thánh hóa để thờ phụng. Với phương vị này, hổ còn được xem như hộ môn thần và được thờ trong các đình, đền, chùa và đi vào điêu khắc, hội họa, kiến trúc dân gian.
  • Xem hổ như là một thành viên trong cộng đồng dân cư, một người bạn hữu, tiêu biểu như những câu chuyện về Hổ huynh (người anh em hổ) ở Hàn Quốc, xem hổ là thành viên trong gia đình, con người nhận nuôi hổ, hổ nuôi con người, hổ kết bạn với con người (một số sự tích hay câu chuyện ở Việt Nam, ở miền Nam, vị trí "anh Cả" dành cho hổ, người con đầu gọi là anh Hai). Trong mối quan hệ này hổ trở nên thân thiết với con người. Với người Thái, khi được nghe tiếng hổ gầm vang trên đồi cao là niềm hân hoan, sảng khoái nhất của bản mường Tại Thái Lan người ta còn xây Chùa Hổ, nơi đây không phải thờ thần hổ mà là nơi chăm sóc, nuôi nâng những con hổ, đọc kinh cho chúng .
  • Đề cao mối quan hệ của hổ với con người thông qua các sự tích như "nghĩa hổ" (con hổ có nghĩa), hổ trả ơn khi người giúp đỡ hoặc tha mạng cho hổ, hổ nuôi con người, hổ cứu giúp con người khỏi ác thú hoặc những con hổ khác, hổ là thầy dạy võ cho con người (thực tế hổ là biểu tượng cho võ công và con người học được từ hổ những động tác chiến đấu và nâng tầm thành những môn võ có nguồn gốc từ hổ), một điển hình là nhiều truyện kể dân gian, cọp đóng vai thần cứu tinh, trợ giúp thần kỳ như trong Tống Trân-Cúc Hoa, Thoại Khanh-Châu Tuấn được truyền tụng trong giới người Kinh lẫn người Thượng phía Bắc. Ở Việt Nam còn có những câu chuyện về con hổ có tình nghĩa, giúp đỡ con người và khi chết được lập miếu thờ.

Cùng với thời gian, sự phát triển của đời sống và tôn giáo, con hổ đã trở thành một linh thú mang rất nhiều nét tính cách của xã hội Nam Á, có nhiều lý do khiến cư dân Nam Á trân trọng hổ. Hình ảnh con hổ trong đời sống người Nam Á ăn rất sâu, chiếm lĩnh một khoảng lớn. Hổ hiện thân với tư cách là con vật của tôn giáo và thống lĩnh. Không chỉ ở phương Đông, rất nhiều nơi trên thế giới có đại hội sơn lâm. Với tư cách là chúa tể, nó đóng vai trò của quyền uy thống trị, có vai trò điều phối, chia khu vực sơn lâm cho các dã thú khác, đó là vai trò anh hùng. Cho đến nay, vùng văn hóa Đông Á rất chuộng hổ, ngày Tết thích treo tranh hổ, không chỉ để biểu tượng cá tính. Hình tượng hổ còn mang chủ nghĩa nhân đạo, quyền uy, ngay ngắn và đáng nể và trở thành một linh vật của tôn giáo. Đặc tính con giáp của hổ trong vai trò của 12 con giáp, hổ đứng ở phương Đông, cung Dần, góc vuông thứ nhất theo toán học tử vi, gắn với Nam Á nên ở vùng này có rất nhiều dân tộc tôn sùng hổ.

  • Người Oroqen (Ngạc Luân Xuân tộc) có một sự tôn kính đặc biệt đối với động vật, đặc biệt là gấu và hổ, mà họ coi như là anh em ruột của họ. Con hổ này được biết đến với họ như Wutaqi có nghĩa là "ông già" hay "lão phu", trong khi gấu được gọi là Amaha có nghĩa là "bác". Việc thờ cúng tổ tiên vẫn được thi hành đều đặn cho đến ngày nay, dân tộc này tin vào thuyết vạn vật hữu linh (thuyết vật linh).
  • Truyền thống của dân tộc A Khắc Đằng Bộ (Askay) cũng như dân tộc Hách Triết (tức Người Nanai) đều cho rằng: Khai tổ của họ là do một người con gái đã kết hôn với hổ rồi sinh ra, cho nên họ phải thờ cúng hổ, tôn sùng hổ như là một vị thần tối cao, mà không được săn bắt hổ lấy thịt, lấy da như các dân tộc khác. Người Udege và người Nanai gọi hổ Mãn Châu bằng tên gọi Amba với ý nghĩa sùng kính cùng với gấu (Doonta)
  • Người Tungus, một dân tộc ở vùng Siberia gọi giống hổ Mãn Châu bằng tên gọi Amba với ý nghĩa tôn xưng là Ông hay Ông già. Người Tungus còn coi hổ Siberia là vị thần gần gũi và luôn cho rằng hổ là "Tổ phụ", ông cha của mình hay còn gọi là "lão phu".
  • Người Mãn Châu gọi tên hổ với ý nghĩa là vua (Hulin: tức Hổ linh hay Linh Hổ), và coi bộ tộc mình mạnh mẽ như hổ.

Nhiều dân tộc ở vùng Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên cũng có những truyền thuyết về vị thần khai tổ hổ và tinh quân Bạch Hổ thần linh đã kết duyên với người và sinh ra bảy dòng họ lớn như họ Vương, họ Bành, họ Dương, họ Điền, họ Đàm, họ Trướng, họ Nhiễm.

Thần cai quản

nhỏ|phải|Hổ là vị [[Chúa sơn lâm, ngự trị và cai quản cả núi rừng. Thực tế, hổ đóng vai trò là loài bảo trợ đối với hệ sinh thái, duy trì sự cân bằng sinh thái tự nhiên]] Được xem là con vật mạnh nhất trong núi rừng, hổ được tôn xưng là Chúa sơn lâm và cai quản cả khu vực nơi chúng sinh sống ("rừng nào cọp nấy", "một núi không có hai hổ"), người ta còn thần thánh hóa loài hổ như một sinh vật huyền thoại có thể sánh với rồng, và từ một vị vua của chốn sơn tràng, nó còn là khoác lên mình thần thoại vũ trụ. Ở phương vị này, hổ là một vị thần cai quản hay thần giám hộ, sơn thần có năng lực trấn yểm và hiển linh. Từ việc tôn sùng hổ, một số dân tộc đã coi hổ là vị thần may mắn, là phúc thần, đem lại bình an cho cuộc sống, từ đó, con người đã thần thánh hóa vai trò của hổ để tạo biểu tượng sức mạnh cho cộng đồng.

Điều này xuất phát một phần từ vai trò thực tế của loài hổ trong hệ sinh thái. Ở hệ sinh thái nơi có hổ, chúng là động vật ăn thịt đầu bảng và đứng đầu chuỗi thức ăn trong quần thể động vật, nó đóng vai trò là loài chủ chốt (Key spcies), đặc biệt giữ vị trí như là loài bảo trợ (Umberela spcies) bằng sự hiện diện của hổ giúp cho hệ sinh thái được cân bằng thông qua việc kiểm soát số lượng các loài ăn cỏ theo cơ chế thiên địch, không để chúng trở thành loài gây hại khi số lượng chúng quá lớn (nhất là lợn rừng), hổ còn kiềm chế sự phát triển quá mức của các động vật ăn thịt hung dữ khác như chó sói, báo, gấu, cá sấu thông qua việc cạnh tranh sinh tồn.

Điều này gián tiếp con người có thể được hưởng lợi. Trong cuốn sách viết về các nghi lễ có từ khoảng 2.000 năm trước ở Trung Hoa có viết Hổ là loài vật có ích cho con người vì chúng ăn thịt những con lợn lòi đến phá hoại mùa màng, như vậy, hổ được coi là con vật có ích và thay vì phải đối diện với nỗi sợ từ rất nhiều thú dữ, con người chỉ e sợ hổ và đối phó với hổ, còn hổ sẽ chế ngự các dã thú khác. Đối với người dân Cần Thơ thì cọp, đặc biệt là cọp bạch, không phải là con vật gây hại mà trái lại cọp giúp người bảo vệ mùa màng, giữ gìn cuộc sống bình an cho con người.

Người xưa tin rằng trong 7 ngày tết, Thần Bạch Hổ hiển linh để bảo vệ dân làng, giữ gìn bờ cõi, không cho heo, nai phá hoại mùa màng. Nhớ ơn ân huệ ấy, dân làng thường cất miễu sơn quân thờ thần Bạch Hổ. Nhiều phong tục sùng bái và thờ cúng hổ của các dân tộc châu Á thường được tổ chức vào lúc nông nhàn trong năm hoặc sau khi thu hoạch mùa màng thể hiện được đời sống tinh thần phong phú và phản ánh mong muốn, ước vọng về một cuộc sống yên bình, có sự che chở, bảo hộ của một loài vật dữ tợn có sức mạnh phi phàm.

Từ quan niệm đó, cho nên vì thế ngày Kinh Trập cũng là ngày mọi người cúng tế thần Bạch Hổ để cầu mong giảm thiểu các tác hại của côn trùng phá hoại mùa màng. Vào ngày này, mọi người thường đem theo trứng vịt, thịt heo sống đến các chùa miếu để dâng hương cho thần Bạch Hổ (thường được thờ chung với Thanh Long và Thạch Đảm Đương tại các chùa miếu người Hoa) cầu bình an, may mắn, dâng hương cho thần Bạch Hổ. Song song với phong tục cúng tế thần Bạch Hổ, và hổ trong trường hợp này như là một vị thần trấn yểm, bảo vệ cho con người. Đồng thời, vào ngày Kinh Trập, còn có một tục lệ "đánh tiểu nhân", vì theo quan niệm người xưa, thần Bạch Hổ cũng chính là khắc tinh của "tiểu nhân", cho nên phong tục này được thực hiện trong ngày Kinh Trập-vía thần Bạch Hổ

Bạch hổ là một trong tứ linh của Trung Hoa, được biết đến với tên Bạch hổ Tây phương (西方白虎) đại diện cho hướng Tây và mùa Thu. Hổ trắng tuy là loài động vật có thật nhưng lại được xem là vật biểu mang tính ước lệ. Hổ (bạch hổ) đại diện cho quyền lực và thần linh ở phương Tây, là vị thần chủ quản phương Tây. Trong thần thoại Trung Hoa cổ, có chòm "thất tinh" (Khuê, Lâu, Vị, Mão, Chủy, Sâm, Tất) cấu thành hình con hổ trên bầu trời phía Tây, hổ ở phương Tây ứng với hành kim nên có màu trắng tức Bạch Hổ. Về sau Tứ phương thần được nhân cách hóa thì Bạch hổ được gọi là "Giám danh thần quân" hay Bạch hổ thần quân. Chức trách của Bạch hổ là canh gác các sơn môn đạo quán như Hộ pháp của chùa.

Trên cờ Lungta/rlung-rta (cờ cầu nguyện ở Tây Tạng) thường có sự hiện diện của bốn linh vật ở mỗi góc, được gọi là Tứ linh (Shambhala Terma) bao gồm là Sư Tử Tuyết trắng (seng) ở phương Đông, Hổ (tak) là con Hổ vàng trụ ở phương Tây, Rồng Xanh (druk) ở phương Nam, Mệnh lệnh điểu (kyung) ở phương Bắc Hổ vàng tượng trưng cho niềm kiêu hãnh vô điều kiện, sự tỉnh thức và lòng khiêm hạ, Hổ vàng an trụ trong tư thế thư giãn tự nhiên của sự hài lòng và viên mãn mọi tâm nguyện, thế đứng của hổ vàng đẹp nhất trong các loài vật và hổ cũng là loài có bộ lông đẹp nhất trong tất cả các loài vật. Răng Nanh và móng vuốt của nó nêu biểu sức mạnh và nghệ thuật. Hổ tượng trưng cho vị thần hộ trì chống trộm cắp và hỏa hoạn. Sự hiện diện của Hổ vàng ở phương Tây nêu biểu cho thành công nhiều phương diện, Hổ vàng bảo hộ chúng sinh trong khu vực lân cận khỏi những ảnh hưởng của năng lượng tiêu cực từ phương Tây.

Theo tín ngưỡng dân gian thì hổ tượng trưng cho vị thần bảo vệ, trấn giữ các phương chống lại tà ma, đảm bảo cho cuộc sống phát triển. Theo quan niệm dân gian Á Đông, đặc biệt là Việt Nam và Trung Quốc, hổ là hình ảnh uy nghi, đầy ấn tượng, hổ tượng trưng cho sức mạnh và dân gian cũng đã thần thánh hóa hổ, cho hổ sứ mạng thiêng liêng có khả năng diệt trừ được ma quỷ. Có hình hổ trấn giữ ở cửa thì tà ma không dám thâm nhập. Đạo mẫu đã lấy con hổ làm biểu tượng cho quyền uy. Ngũ hổ là chủ thể quyền uy 5 phương, có một sức mạnh lớn và nhờ sức mạnh có tính chi phối đó, vạn vật có trật tự. Người ta thờ Ngũ hổ để tượng trưng cho 5 phương. Tất cả đều mang ý nghĩa cầu mưa và cầu cho mọi sự sinh sôi, phát triển. nhỏ|phải|Tượng hổ còn sử dụng trong phong thủy, đại diện cho quyền lực và cầu thăng tiến Ở góc độ phong thủy, tượng hổ mạ vàng được coi là đại diện cho quyền lực do Hổ là con vật linh thiêng và đầy uy quyền thường được thờ phụng, đại diện cho chư vị tướng quân chuyên phù trợ chính pháp và từ đó nó là biểu tượng cho quyền lực, cho công danh và sự tăng tiến trong kinh doanh, Là pháp khí của công danh, tài lộc và quyền lực,chống lại tiểu nhân. Hổ dùng tiếp khí cho các cát tinh Lục Bạch, Bát Bạch và cũng có thể bổ trợ cho bản mệnh người tuổi Dần và cũng có thể dùng để trấn yểm khi nhà bị phạm vào cấm kỵ hoặc bị Sát tinh chiếu hướng do vậy tượng hổ mạ vàng được đặt ở nơi phòng khách, trên bàn làm việc. Trong nhân tướng học, hổ là con vật linh thiêng và đầy uy quyền thường được thờ phụng, chính vì thế nó là biểu tượng cho quyền lực, cho công danh học hành và sự tăng tiến trong kinh doanh.

Khi giành được giang san, nhà Nguyễn lựa chọn việc đặt kinh đô. Và nhà Nguyễn đã chọn Kinh thành Huế với địa thế Tả Thanh long, Hữu Bạch hổ. Thanh long, Bạch hổ là hai trong bốn thánh thú hợp thành tứ tượng hay tứ thánh thú. Bạch Hổ còn được xem là linh vật thiêng liêng thuộc về hành Kim ở phía Tây, tương ứng với mùa thu. Từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa, đã có tám lần các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ rồi cuối cùng trở về lại Phú Xuân. Tương truyền, khi cầu Bạch Hổ (lúc đó chưa được đặt tên) đang được xây cất, có một con hổ trắng đến ngồi ở giữa cầu khiến mọi người đều hoảng hốt bỏ chạy. Cũng chính vì thế mà cây cầu này được gọi là cầu Bạch Hổ trong tư tưởng phong thủy của các nhà địa lý thì nó được xem như Bạch Hổ chầu bên hữu của Kinh thành.

Một vùng

nhỏ|phải|Hổ còn là nỗi khiếp sợ của cư dân miền sơn cước khi vào rừng khai thác sản vật tự nhiên Hổ từ lâu đã được người dân Việt Nam xem là chúa tể của núi rừng, với sức mạnh vô biên kết hợp hài hòa với vẻ đẹp hình thể uyển chuyển và sự mềm mại, khéo léo. Chính vì vậy người dân vẫn gọi loại vật này bằng những đại từ nhân xưng thể hiện sự kính trọng: "Ngài", "Ông" hay "Cậu". Việc thờ thần Hổ cũng dựa trên truyền thuyết dân gian rằng ở mỗi cụm rừng đều có một vị chúa tể chốn sơn lâm, được coi là thần Hổ. Vị thần Hổ này thống lĩnh các loài thú trong rừng, góp phần phù trợ và bảo vệ mùa màng cho dân làng có được cuộc sống được ấm no hạnh phúc, nhà nhà yên ổn người người an vui (hổ cứ sơn lâm phù xã tắc) và cũng còn có chức năng hộ vệ cho vị Thành hoàng Bổn cảnh.

Hổ được coi là vị chúa sơn lâm và được thờ phụng ở các miền sơn cước, núi rừng, nhất là ở những chốn rừng núi sâu thẳm thì hổ luôn được thờ phụng.

Những bản làng người Mường ở miền tây Thanh Hóa, kéo dài từ vùng Thạch Thành lên đến Quan Hóa, Mường Lát, ngoài việc thờ cúng tổ tiên, thần rừng, thần núi, thì họ còn cúng Ông Hổ tượng trưng cho thần rừng. Tại Quảng Ngãi có câu chuyện bạch hổ và đôi rắn khổng lồ, một người già nằm mơ thấy một con hổ trắng đến bảo rằng "Ta là bạch hổ coi ngó xứ này nay ta giao giấy tờ trông coi đình lại rồi từ nayvào núi tu hành, không coi đình và xứ này nữa". Từ đó dân làng cúng đầu heo không bị mất như ngày trước. Người Tà Ôi cũng có tục thờ Thần hổ (Giàng avó). Trong hệ thống thú rừng của người Tà Ôi, con hổ được coi là con vật có sức mạnh nhất. Hổ được người Tà Ôi coi như vị thần bảo hộ cho làng, việc bắt được hổ theo quan niệm của người Tà Ôi được ví như món quà tặng của thần rừng.

Thần hộ môn

nhỏ|phải|Tượng hổ tại [[Đền Kagurazaka Zenkoku, Nhật Bản]] nhỏ|phải|Tượng Hổ đá ở sân Đền IA, [[Hiệp Hòa, Bắc Giang]] nhỏ|phải|Tượng hổ tại Chùa Long Hổ ở [[Đài Loan]] nhỏ|phải|[[Đình thần An Châu ở huyện Châu Thành, An Giang, trước đình có tượng hổ]] nhỏ|phải|[[Đình thần Tấn Mỹ ở Cù lao Giêng, huyện Chợ Mới, An Giang có bố trí cặp mãnh hổ gác đình]] Trong tín ngưỡng dân gian, Hổ là loài vật linh thiêng, là kẻ thù của các tà thần, nên thường được hiện diện như những vị thần linh canh cửa các ngôi đền. Hình tượng hổ tượng trưng cho sức mạnh của trần gian, đại diện cho các thần linh ở dưới mặt đất. Chúng được tôn thờ, sùng bái và gọi một cách trân trọng là ông, ngài, cậu, chúa. Thần hổ uy linh và đầy huyền bí đã đi vào đời sống tâm linh của người Việt, trở thành nhân vật được thờ cúng ở rất nhiều điện, đền, phủ.

Thời hậu Lê con hổ xuất hiện ở lăng mộ Lê Lợi (Lam Kinh), đó là con hổ ngồi dưới dạng rụt cổ, vai u, làm nhiệm vụ canh gác và giữ của cho người chết. Tượng Hổ liên quan đến câu chuyện trước khi sinh Lê Lợi ở khu vực Thọ Xuân có con Hổ đen thường quanh quẩn trong các xóm làng, không bắt lợn và cũng không dọa nạt ai cả. Sau khi Lê Lợi chào đời thì Hổ đen biến mất. Hổ đen ấy tượng trưng cho "bản mệnh" phi thường và quyền lực của một đế vương có công cứu nhân độ thế thoát cảnh bạo tàn của quân Minh ở thế kỷ XV.

Người dân đã thần thánh hóa hổ, cho nó một sức mạnh thiêng liêng diệt trừ được ma quỷ, trong quan niệm dân gian hổ là vị chúa cai quản rừng núi, hình tượng hổ biểu tượng cho sức mạnh thiêng liêng, diệt trừ tà ma, trấn giữ các phương, là thần linh canh cửa ở các ngôi đền. Có hình hổ trấn giữ ở ngưỡng cửa là tà ma không dám xâm nhập. Trên bức bình phong tại cổng các đền chùa, người ta thường đắp con hổ đang bước xuống những bậc đá gập ghềnh. Với tư thế đó, hổ là hiện thân của âm cung, biểu hiện cho sức mạnh thế giới Diêm Vương và kiểm soát linh hồn khách hành hương. Trong đạo Mẫu, Quan Ngũ hổ được thờ ở hạ ban, Ngũ Hổ là tất cả các thần linh thuộc năm phương của thế nhân.

Ở Trung Quốc và Việt Nam, vai trò thần hộ môn của hổ được thể hiện qua hình tượng Hắc Hổ huyền đàn trong Đạo giáo được thờ trong các đền thờ Đạo giáo, và tiêu biểu là người ta có bức tranh Huyền đàn trấn môn để thờ giữa cửa ngỏ. Người Nam Bộ còn có tục lệ vào ngày mồng ba Tết Nguyên đán phải dán trước cửa nhà một mảnh giấy đỏ có vẽ hình cọp để trấn giữ tà ma, yêu quái, điều xui rủi xảy đến trong gia đình mình, vào ngày mồng ba Tết Nguyên đán, sau khi cúng xong, người ta thường dán trước cửa nhà một mảnh giấy hồng điều có vẽ hình cọp với dòng chữ Hán "Sơn Lâm đại tướng quân" với lòng mong muốn là hổ sẽ trấn giữ không cho những thứ nhiễm độc vào nhà.

Trong dân gian Việt Nam không có tục thờ Môn Thần, nhưng dùng linh vật và linh phù để trợ giúp, chó là con vật thân thuộc hằng ngày chuyên canh giữ nhà cửa, cho nên con chó đá là một linh vật ngày xưa được người Việt đặt nơi chùa miếu. Ở Trung Hoa không dùng chó đá mà dùng sư tử đá Trung Quốc, nơi điện, miếu thường đặt một cặp sư tử hai bên cửa ra vào, còn ở Việt Nam ngoài chó đá, người dân cũng sử dụng một linh vật khác là con hổ chứ không phải sư tử, những vị thần thường cưỡi trên lưng hổ, nơi những ngôi đình làng ngày xưa trên tấm bình phong đặt phía trước hay đắp nổi hình con hổ để đuổi tà ma, tranh dân gian Đông Hồ cũng có loại vẽ hình một con hổ (độc hổ) hoặc năm con hổ (ngũ hổ), để người dân dán trước cửa nhà trừ tà, tương tự như bức tranh Huyền Đàn Trấn Môn.

Theo dấu chân Nam tiến của những người đi trước, những linh vật mới cũng xuất hiện như một thế lực trong tín ngưỡng của người dân tại vùng đất mới. Cọp trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam là thế lực nguy hiểm của thiên nhiên, đe dọa con người trong quá trình mở đất. Tuy nhiên, cọp cũng là con vật có nghĩa, có tình như trường hợp con hổ báo ơn người đã nuôi dưỡng mình, hình tượng con cọp xuất hiện nhiều tại các ngôi đình, các điểm thờ cúng. Trong tín ngưỡng thờ cúng linh vật, người Việt luôn chú trọng giữ gìn những yếu tố thuần Việt để đời sau tiếp nối, đó là nét đẹp nhân văn, thể hiện tinh thần dân tộc để những linh vật thuần Việt trở thành niềm tự hào của văn hóa, là cơ sở, là niềm tin để tìm về với những linh vật đại diện cho văn hóa Việt Nam. nhỏ|trái|Bức bình phong hổ ở [[Văn Miếu Hà Nội năm 2014]] Thông thường trong kiến trúc thờ cúng ở Việt Nam và những chốn linh thiêng, thường sẽ có tấm bình phong, hình thức của bình phong cũng ngày càng cầu kỳ, phong phú và thường được trang trí cả hai mặt bằng kỹ thuật đắp khảm sành sứ hoặc tô vẽ những chủ đề như cá hóa rồng, hình hổ, long tàng vân, phượng hoàng xòe cánh và Long Mã tải đồ nhưng thường thì trước tấm bình phong thường có con hổ. Bình phong có, ý nghĩa như là vật che chắn phong thủy, giá trị nghệ thuật của bức bình phong là con hổ và nó là thần linh cai quản mặt đất có khả năng trừ tà sát quỷ cho nên nó ngồi chồm hỗm, mặt quay ra để chống quỷ con hổ để trấn yểm mặt trước, ngăn các loại quỷ dữ, ám khí xâm nhập. Tại các đình làng, các am miếu dân gian, hình tượng long mã hay hổ cũng được sử dụng rất nhiều trên bình phong.

Đơn giản hơn ở khu vực phía Bắc, thần Hổ là một trong các thần linh dân dã được tích hợp vào đình Nam bộ. Bình phong được người dân quen gọi là "Bia ông Hổ" vì nhất thiết trên mặt tấm bình phong ấy phải vẽ hoặc tạo hình "ông" hổ vàng, bởi màu này gắn với trung ương, có thể thay thế cho cả ngũ phương. Trước bình phong ông Hổ, một chiếc bàn thờ nhỏ. Vì cọp là con vật có trang sử thứ nhất của vùng đất Nam bộ thuở khai hoang họ còn gặp khá nhiều thú dữ, cọp là mối đe dọa thường xuyên và thực tế lịch sử ấy đã tạo ra trong tâm thức con người cả hai thái cực vừa sợ hổ, vừa sẵn sàng chinh phục hổ, tâm lý đó tạo ra việc thờ cúng ông Hổ trong đình làng thế nên trên bình phong hướng từ cổng vào có vẽ hay đắp nổi hình hổ để canh giữ bảo vệ đình miếu, hoặc cảnh rồng cọp vờn nhau tượng trưng cho âm dương hòa hợp, mưa thuận gió hòa.

Bia Ông Hổ còn gọi là tấm bình phong là một trong những đơn nguyên kiến trúc tiêu biểu của đình Nam bộ. Mục đích chính của bình phong là ngăn chặn xui xẻo bằng cách dùng tấm bình phong này ngăn chặn mọi cái nhìn trực diện từ ngoài vào, mục đích của bình phong là để chống luồng khí độc (đồng nhất với ma quỷ) thổi vào nơi của thần, thánh. Mặt chính ở phía trước phải đắp hổ vàng (có nơi đắp phù điêu 5 hổ, tượng cho 5 phương, gần đây có nơi thay bằng tượng 5 hổ), bởi màu này gắn với trung ương, có thể thay thế cho cả ngũ phương. Hổ được xem là thần cai quản mặt đất, có khả năng trừ tà sát quỷ nên được đặt ở ngoài để giữ bình yên cho mảnh đất thiêng của thần. Dọc hai bên bình phong thường có câu đối: Hổ cứ sơn lâm phù xã tắc/Long du nguyệt điện tráng sơn hà (Cọp chiếm núi rừng giữ đất nước/Rồng dạo cung trăng giúp non sông).

Thường thì mặt sau của bức bình phong ở Nam bộ luôn có bệ thờ Thần Nông với ý nghĩa vừa trừ tà, vừa để thờ Thần Nông và Thần Hổ. Các ông Hổ trong bình phong ở Nam bộ có dáng hình dũng mãnh và uyển chuyển với những đường lượn cong ở lưng và đuôi, gương mặt đầy biểu cảm với răng nhe, mũi lớn như phập phồng, tai vểnh, hai mắt đen tròn xoe như đang chiếu ra một ánh nhìn mê hoặc, nhưng cũng chỉ là những bức vẽ khá sơ sài, chưa toát lên vẻ dũng mãnh của chúa sơn lâm như trên thực tế Trong tranh tượng đạo Hinđu, da hổ khoác trên thần Siva là chiến quả của vị thần này. Một tích truyện thần thoại về Shiva khi đến thăm các Rishi, họ bèn thả ra một con hổ dữ để xé xác Shiva nhưng ông dễ dàng dùng móng tay lột lấy tấm da con cọp và choàng lên cổ mình làm tấm khăn choàng.

Trong Phật giáo, hổ còn là vật cưỡi của Văn Thù Bồ Tát. Vị Quan Âm Diệu Thiện cũng từng được một con cọp trắng xông ra giải cứu và cõng mang đến chùa Hương. Hổ cũng là vật cưỡi của các thần Đạo giáo như Trương Thiên Sư, Triệu Nguyên Soái (tranh bộ Tứ Đại nguyên sư: Tranh thờ các dân tộc phía Bắc Việt Nam), Huyền Đàn trấn môn (tranh Đông Hồ), Thổ Địa (trong bộ Tứ trực Công tào: Tranh thờ các dân tộc phía Bắc Việt Nam, và tranh tượng Ông Địa Nam bộ).

Cọp đen còn là vật cưỡi của Thần Tài, người ta thường vẽ ông cưỡi cọp đen. Người Hàn Quốc có bức họa thần núi (Sansindo) vẽ cảnh thần núi ngồi tựa hổ hay cưỡi trên lưng hổ, trong những bức tranh của hội họa Hàn Quốc, hổ lại xuất hiện bên cạnh một cụ già đó chính là thần núi và hổ là loài hầu cận. Ở đây, hổ là phương tiện chuyên chở của các thần, đặc biệt ở bộ Tứ trực Công tào cho thấy hổ là phương tiện chuyên chở trên mặt đất của Thổ Địa và cũng là thần hộ vệ, hộ pháp.

Người dân địa phương ở Trà Bồng có tục lập am thờ con hổ, họ thờ Bạch Hổ sơn quân hay còn gọi là ông hổ đi tu, đây là tùy tướng thân cận nhất của Thiên Y A Na, theo truyền khẩu, vào dịp lễ cúng Thiên Y A Na, cứ đến khoảng 2 đến 3 giờ sáng, cũng là lúc Bạch Hổ sơn quân xuất hiện, hay mỗi lần khấn xin hiện hình là đêm đó Bạch Hổ sẽ xuất hiện. Hổ cũng là thần hộ pháp trong Đạo Cao Đài vì biểu tượng con cọp tượng trưng năm Bính Dần (1926) là năm Khai Đạo Cao Đài, với kiến trúc trên cao có tượng Phật Di Lặc ngồi trên lưng cọp và tòa sen, cụ thể trong các Thánh thất như: Tòa Thánh Tây Ninh, Thánh thất Sài Gòn, Thánh thất Đa Phước hay Thánh thất Đà Lạt nằm ở Phường 11 của Đà Lạt. Đôi Bạch Hổ–Hắc Hổ vốn được coi là vệ sĩ, đệ tử của Thầy Thím và được thờ tại Miếu ông Hổ trong Dinh Thầy Thím.

Ác thần hung thú

nhỏ|phải|Sự thờ phượng hổ còn xuất phát từ nỗi [[sợ của con người]] Tín ngưỡng thờ hổ còn xuất phá từ nỗi sợ hãi loài hổ, sự ghê sợ những gì do hổ gây ra cho con người vì hổ bản chất là một dã thú hung dữ và là loài thú ăn thịt, săn mồi. Nhiều sự kiện đã đi vào văn hóa dân gian của các nước như một nỗi ám ảnh khiếp đảm đến mức nhiều vùng miền có tục thờ hổ vì sợ bị hổ dữ làm hại. Về mặt tự nhiên, hổ là động vật chuyên ăn thịt, do đó con người không tránh khỏi sẽ trở thành con mồi của chúng khi nguồn thức ăn khan hiếm hoặc khi con hổ bị thương không thể săn mồi. Thực tế hổ là một trong những loài động vật tấn công con người nhiều nhất.

Trong các loài thú dữ, hổ là loài thú được con người sợ hãi, thờ cúng, kỵ húy nhiều nhất. Xuất phát từ việc sợ hãi nên nhiều người không dám gọi thẳng tên mà gọi chệch đi vì sợ ngài hổ giận và tìm cách trả thù Từ tính chất này người ta cho loài hổ là một mãnh thú có sức mạnh kinh khủng và theo quan niệm dân gian thời ấy thì nó có cả những khả năng diệt trừ ma quỷ, yêu quái vì vậy, loài hổ được người dân tôn thờ.

Paul Giran, một quan chức của chính quyền Đông Dương thuộc địa khi nghiên cứu về tâm lý-văn hóa của người dân Việt Nam đã viết trong tác phẩm của mình có tên Tâm lý người An Nam đã đề cập đến tâm lý sùng bái hổ một cách mãnh liệt của người bản xứ: "Còn hơn thế nữa, các loài vật được phú bẩm cho đời sống và sự vận động mà người ta coi như những hữu thể có lý trí. Những tín ngưỡng dân gian còn thịnh hành ở An Nam đối với các loài vật: rùa, cọp, voi, vân vân, đủ để chúng ta có thể xác quyết, nếu chúng ta còn chưa xác tín về mức độ tinh thần chưa cao của người An Nam. Họ theo một cách nào đó còn có sự đồng hóa về tâm thức với các loài vật và gán cho chúng một linh hồn. Kính trọng những loài vật phải nói là ghê gớm, họ đã gọi chúng là "Ông; họ nói "ông Cọp"; họ dựng cho cọp các đền thờ và đốt nhang cúng bái"

Những bản làng người Mường ở miền tây Thanh Hóa, kéo dài từ vùng Thạch Thành lên đến Quan Hóa, Mường Lát, ngoài việc thờ cúng tổ tiên, thần rừng, thần núi, thì họ còn cúng Ông Hổ, họ sợ thần hổ, không dám vào rừng lấy que củi, và không chặt phá rừng. Rừng là chốn hổ thần ở, nên không ai dám kinh động. Chỉ có thợ săn, bất chấp tính mạng mới dám mò vào rừng. Nhưng những người vào rừng ăn cắp của rừng nếu không nghèo đói thì cũng gặp tai họa là do thần hổ trừng phạt. Dù có quan điểm coi hổ là kẻ thù truyền kiếp vì đã có nhiều người trong dòng họ bị hổ ăn thịt, nhiều người dù có mối thâm thù với hổ, nhưng vẫn phải thờ hổ trong miếu, những mong loài hổ sẽ tha mạng cho con cháu hay bị hổ ăn thịt. Những câu chuyện kinh dị về hổ thần đã ám ảnh cuộc sống của người dân đến mức họ chẳng dám đặt chân vào rừng, hoặc có đi vào thì cũng rón rén.

Ngay cả trước khi săn hổ người ta hay tổ chức cúng tế vì sợ hổ hóa thành ma sẽ trả thù cho gia đình, dòng họ của người nào đã giết hổ, đây là một cách cúng thế để giúp con hổ bị chết siêu thoát và không còn trả thù vì hổ được biết đến là hay trả thù và thính tai. Kể cả đến nay, đối với những người hành nghề giết mổ hổ, lóc xương, nấu cao hổ cốt thì họ vẫn duy trì tập tục cúng bái trước mỗi lần hành sự (không như việc mổ trâu, bò, gà, lợn). Những người thợ trước khi nấu cao hổ thì người ta thường có nghi lễ cúng bái, có người còn mời thầy cúng về cúng vì nếu không sẽ bị lừa lọc, vỡ nợ, tán gia bại sản hoặc rơi vào vòng lao lý, đi tù vì ông hổ sẽ không cho sống đàng hoàng.

Về việc bài trí tranh hổ trong nhà, theo phong thủy, thì những vật phẩm hình hổ chỉ nên đặt ở những không gian công cộng để phát huy công lực trấn yểm cho cả cộng đồng mà không nên bài trí trong gia đình. Hổ là con vật có uy lực, không thể bị thuần hóa và coi như vật nuôi vì nuôi hổ trong nhà sẽ có nguy cơ rất lớn ("dưỡng hổ di họa"), đồng thời nó còn bị coi là hung thú nên khi hổ xuống núi vào nhà thì sẽ hại người. Do đó không nên bài trí hổ trong phòng ngủ, nhất là phòng ngủ vợ chồng, nếu trong nhà treo bức tranh con hổ mà đầu hổ hướng vào trong được coi là đại hung, treo tranh thêu hình con hổ cũng sẽ khiến những người sống trong nhà có tâm trạng bất an và nhà thường có chuyện buồn, những người làm kinh doanh nên kiêng kỵ không nên treo tranh hổ vì khiến việc kinh doanh không thuận lợi.

Mộc Tinh

Con hổ luôn đe doạ đến đời sống con người nên một số địa phương đã có tục thờ thần hổ. Tục này xuất xứ từ làng Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Hổ là ác thú được người kinh sợ đến độ lập đền thờ, hy sinh nhân mạng để tế lễ mỗi cuối năm, như tục thờ Thần Hổ, làng Ngọc Cục, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương. Theo Phạm Đình Hổ thì qua tục giết người tế Thần Hổ nhắc đến thần Xương Cuồng có ghi vào sử sách như Mộc Tinh trong Lĩnh Nam Chích Quái. Tục tế Thần Hổ này có từ xa xưa trước Tây Lịch, khi quân nhà Tần của Nhâm Ngao và Triệu Đà mới lấn chiếm và đô hộ đất Văn Lang và mãi đến Từ năm Canh Thân 1800 trở về sau thói ấy mới bỏ.

Tục lệ tế thần Xương Cuồng hằng năm vào ngày Ba Mươi Tết được cho là có từ thời Văn Lang. Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái, người Văn Lang gọi Mộc Tinh là Xương Cuồng ám chỉ loài thú dữ là cọp và Mộc Tinh là thú dữ, ám chỉ hổ, Thần Xương Cuồng có nghĩa là hành động một cách bạo ngược, tàn ác, không thể trấn áp được, đó chính là Thần Hổ. Dân phải lập đền thờ, hàng năm đến ngày 30 tháng chạp, theo lệ phải mang người sống tới nộp, mới được yên ổn. Mộc Tinh là hình ảnh cọp, cọp được đồng hóa với rừng núi, là tai họa của rừng núi, cọp là hình ảnh bí hiểm của rừng núi, hòa mình với cỏ cây, xuất hiện bất thường về đêm, có nhiều linh khiếu, khiến con người đồng hóa rừng thiêng với hùm thiêng, là ẩn dụ một thiên nhiên chưa được chế ngự.

Các nhà nghiên cứu dân gian cho rằng Thần Xương Cuồng là thần Hổ mà người Văn Lang sợ hãi và trọng vọng, làm lễ tế hàng năm vào ngày ba mươi Tết, từ phong tục cổ sơ này, đã có từ thời các vua Hùng, mà con hổ được gọi là Ông Ba mươi và có sự tương hợp giữa truyện Mộc Tinh trong Lĩnh Nam chích quái của người Việt với chương Chặt cây Chu trong sử thi thần thoại Mường với chi tiết đánh Quỷ Xương Cuồng chính là mô típ săn Moong Lồ (săn Hổ lớn) của người Mường. Trong Huyền học Kỳ môn độn giáp có vị hung thần là Bạch Hổ Xương Cuồng (白虎猖狂) là mối liên hệ giữa lốt hổ và thần hổ Xương Cuồng. Những chuyện kể về hổ dữ thường gắn với những cây cổ thụ to lớn, nơi hổ rình ăn thịt người, vì lý do đó mà người xưa cho rằng hổ là thành tinh của cây gỗ lớn lâu năm.

Lĩnh Nam Chích Quái còn thuật chuyện Nhâm Ngao bị thần Xương Cuồng tức giận vật chết, Đại Việt sử ký toàn thư cho rằng Nhâm Ngao phạm thổ thần bị bệnh chết, còn Lĩnh Nam Chích Quái cho rằng bị thần Xương Cuồng tức giận vật chết. Lời lẽ tuy có khác, nhưng nội dung chính yếu thì giống nhau, điều này cho thấy thần Xương Cuồng là thổ thần có nhiều quyền năng, có thể vật chết người, kể cả là những vị tướng soái cầm quyền phương Bắc. Thần Xương Cuồng là Thần Hổ mà người Văn Lang sợ hãi và trọng vọng, làm lễ tế hằng năm vào ngày Ba Mươi Tết, từ phong tục cổ sơ này, đã có vào thời các vua Hùng, mà con hổ được lý giải có tên gọi là Ông Ba Mươi cho đến ngày nay.

Ma trành còn được thể hiện qua chuyện thần Bạch Hổ hiển linh trên núi Cấm ở An Giang. Trên núi Cấm xuất hiện bầy hổ trắng hung dữ đã làm hại hàng trăm người dân vào rừng kiếm củi, lấy gỗ, làm nương sinh sống. Một vị tu sĩ lập am thờ trên núi Cấm thì đàn hổ trắng chỉ còn một con hổ lớn sinh sống trên núi, được thu phục, vào con đường tu hành, mất hết thú tính, trở nên một con vật hiền lành. Nhưng những oan hồn bị đàn hổ trắng giết hại không được siêu thoát, cứ vất vưởng trên chốn trần gian biến thành lũ ma xó, ma trành. Bọn ma quỷ này giữ thù cũ, âm mưu hại Bạch Hổ. Một ngày, bên ngoài am xuất hiện hàng chục người lạ mặt từ bên kia biên giới sang, lăm lăm vũ khí gầm gào đòi giết Bạch Hổ

Từ trong hang, Bạch Hổ vụt xuất hiện trước mắt mọi người, chúng ào tới kẻ chém người bắn tên độc vào mình Bạch Hổ, con thú bị thương trở nên hung dữ giơ cao móng vuốt vồ tới tấp đám người lạ mặt, làm hàng chục người chết và bị thương nhưng con thú cũng đã bị thương nặng vì tên độc và chết ngay sau đó. Tuy vậy, những oan hồn ma quỷ đang trỗi dậy, kích động lòng hận thù giữa những gia đình bị hổ trắng giết hại từ xưa tới nay vùng lên, trút mối hận lên đầu Bạch Hổ, dù Bạch Hổ đã chết nhưng bọn ma quỷ kia còn mượn hồn nó để nhập vào những con thú khác mà tiếp tục quấy nhiễu mọi người trong số đó, hổ là loài vật nguy hiểm nhất,hay trả thù con người, những con cọp ba chân cũng là hình tượng thường xuất hiện trong các giai thoại mãnh thú thành tinh lúc xa xưa, đặc biệt là những con hổ trắng khi đã ăn thịt người thì sẽ hung hãn và hung tợn hơn bất cứ loài thú nào.

Người dân Mường Mõ bao đời nay thờ hổ, tôn kính hổ như thần linh, ở đây núi cao vực sâu thêm huyền bí vì những truyền kỳ về hổ Ở vùng Sơn La, đồng bào dân tộc ở đây họ rất sợ hổ và họ gọi là ông hổ, chứ không dám gọi là con hổ. Người dân ở bản Nà Tông đồn rằng, hổ là loài nhớ dai, biết trả thù, người Tày ở đây đều tin điều đó, nên phải lập ngôi đền thờ cúng sơn thần, thờ cúng cả loài hổ, để chúng không phá phách, trả thù, từ khi lập đền thờ, tuyệt nhiên không có con hổ nào về bắt người, giết thú nữa.

Tại vùng vùng núi Tiên Cảnh và các vùng xung quanh đó như Tiên Hiệp, Tiên Lộc, Tiên Châu, ngày xưa gọi chung là trấn Thăng Bình, tại đây, hổ không chỉ kiếm ăn trên rừng mà còn về tận thôn làng, gây nên bao tai họa và cả nỗi khiếp đảm. Nỗi sợ hổ từ đó trong dân chúng khắp vùng ngày càng tăng lên và vì ám ảnh bị hổ dữ giết hại, gọi là hổ chúa thành tinh nên nhiều gia đình đã phải lũ lượt kéo nhau bỏ xứ ra đi. Nỗi sợ hãi đã khiến người dân Tiên Cảnh tôn sùng loài ác thú này như thần thánh, họ có phong tục cúng thần rừng, vị thần họ tin rằng nắm giữ bổn mạng của cả vùng đất này, đại diện cho thần rừng, không phải loài nào khác mà chính là hổ dữ là vị chúa sơn lâm đầy quyền uy. Ở Kon Tum có thờ hổ vì khi bạch hổ đã ăn thịt người thì nó càng hung tợn, càng dữ hơn bất cứ loài thú ác nào.

Thần hổ xám

nhỏ|phải|Ở một số nơi trên lãnh thổ Việt Nam, [[hùm xám được coi là Thần Hổ, là những con vật đã thành tinh do ăn thịt quá nhiều người, chúng là nỗi ám ảnh của cư dân bản địa]] Ở vùng Thanh Hóa, người địa phương và người Mường còn lưu truyền câu chuyện Thần hổ xám ăn thịt người ở Thanh Hóa là một huyền thoại về oai linh thần hổ ở vùng vùng Thạch Thành Với người dân ở vùng đất này, thần hổ vẫn là một thứ gì đó ám ảnh khủng khiếp với cuộc sống của họ. Người dân Mường ở miền Tây Thanh Hóa ở Thạch Thành đặc biệt người dân còn lập miếu thờ một con hổ gọi là Thần hổ xám khổng lồ hung dữ, chuyên ăn thịt người, người dân còn đồn rằng, năm nào không cúng hổ thần, mùa màng sẽ thất bát, lúa trồng chẳng thành hạt, cây cối chẳng chịu trổ hoa.

Người Mường còn tin rằng nó sống lâu ngàn tuổi và có thể biến hóa khôn lường, hổ thành tinh có thể sống vài trăm tuổi, những con hổ đã ăn thịt trên 100 người, thì nó đã thành tinh và người Mường gọi nó là hổ thần. Hổ hễ ăn thịt một người, thì trên tai hổ sẽ có một vết đỏ, tượng trưng cho một linh hồn. Những linh hồn bị con hổ ăn thịt sẽ đi theo nó, chịu sự sai khiến của nó. Khi trên tai loài hổ đã có 100 vết đỏ, thì con hổ đó đã thành tinh. Khi hổ đã thành tinh, thì màu lông vàng sặc sỡ đặc trưng của loài hổ sẽ biến thành màu xám xịt, nhìn rất hung dữ, ghê rợn đó cũng chính là lúc nó trở thành chúa các loài hổ trong rừng Một thần hổ thường có số lượng nốt đỏ trên tai ứng với số người mà nó ăn thịt và màu lông của nó xám hơn, mắt đỏ hơn, thân thể lực lưỡng hơn.

Người ta cho rằng con cọp thành tinh ở cánh rừng Thạch Thành là loài "thiên lý nhĩ", tức là nó có thể nghe được ngàn dặm, nên cúng tế ở đâu nó cũng biết để tìm đến thưởng thức đồ dâng, vì sợ "thiên lý nhĩ" của con cọp thành tinh này, mà chẳng ai dám mạo phạm, nói xấu hổ thần, bởi người bản xứ tin rằng, hễ nói xấu, thì hổ thần ắt xuất hiện ăn thịt. Ở vùng rừng thẳm, người ta cho rằng con hổ bị thương sẽ biến thành con hổ dữ, hay bắt người. Hổ thương càng nặng thì càng dữ dằn. Đặc biệt, nếu hổ bị thương bởi con người, thì cả đời nó sẽ tìm cách ăn thịt người. Khi đã ăn thịt người quen mùi, nó không ăn thứ gì khác ngoài con người. Hổ là loài nhớ dai, thù lâu, nên nó sẽ trả thù đến tận cùng, đến tàn khốc.

Khái hạm

Khi lưu dân đến khai phá đất Nam Bộ, việc thờ hổ được xem như một nhu cầu thiết thực đối với đời sống tâm linh, nên thời bấy giờ ở Nam Bộ có rất nhiều miếu thờ hổ. Có nơi thì đúc thành tượng hổ uy nghi, có nơi thì thờ tranh ngũ hổ, quanh năm khói hương nghi ngút. Đối với người miền Tây thì những câu chuyện về hùm beo, rắn khổng lồ vẫn luôn là đề tài hấp dẫn, loài cọp dữ, loài vật hấp dẫn chỉ đứng sau rắn hổ mây khổng lồ trong những câu chuyện đường rừng, nhằm khắc họa lại một phần cuộc sống sông nước miền Tây thời xưa. nhỏ|phải|Ở miền Nam Việt Nam, người ta chia hổ thành hai hạng là cọp bạch (tức cọp hiền) và hạm hay khái là những con cọp dữ chuyên hại người Một quan niệm phổ biến nơi dân gian Nam bộ là người ta phân biệt hổ ra hai loại "cọp" và "hạm". Cọp là loại hổ trên trán nó có chữ "Nhâm" đó là "hổ thần", không bao giờ ăn thịt người, hổ thần được thờ là bạch hổ (cọp trắng). Còn Hạm là từ dùng để chỉ những con hổ ăn thịt người, đó là thứ cọp đã thành ma quỷ, thành tinh. Trong tâm niệm người dân quá sợ cọp nên dân Cà Mau không khi nào dám gọi thẳng là con cọp hay con hổ mà phải cung kính gọi là "ông Thầy", "ông Hổ", hoặc "hai Cọp", "khái", hoặc "Hương quản cọp".

Người ta cũng cho rằng, cọp là chúa sơn lâm với khả năng nghe được tất cả những lời nói của dân chúng trong vùng, bất cứ ai nói lời xúc phạm đến cọp thì đều bị cọp trừng trị, dân gian đã gán cho cọp những thuộc tính "siêu đẳng" hoặc thần thánh, hoặc ma quỷ. Trong dân gian, nhiều nơi lập am, miếu thờ những con hổ hung dữ hại người hoặc những con hổ được truyền miệng là linh thiêng. Theo họ, nếu cung kính thì cọp sẽ để cho yên ổn làm ăn, còn nếu bất kính thì sẽ bị cọp trừng trị ngay.

Ở vùng sông nước miền Tây, lại có đình, đền, miếu thờ ông cọp hay ông cả cọp và thay vì thờ thần thánh, người ta lại khói hương nghi ngút, khấn vái thành kính loài vật được cho là thú dữ, sợ hãi và tôn kính cọp, nên người dân lập đình, miếu thờ cọp hằng năm làm heo cống nạp, cầu được bình an, không bị loài hổ trả thù một số dòng họ còn đổi cả họ vì kinh sợ hổ bắt người để trả thù mà lập miếu thờ phụng cầu an. Ở miền Tây Nam Bộ, việc phải "nhờ đến ông Hổ chọn Hương Cả" của Đình đã phản ánh một ký ức kinh hoàng về sự tác oai tác quái của hổ đối với đời sống những cư dân thời bấy giờ.

Cơ sở của tín ngưỡng thờ Hổ ở Nam bộ nói chung và miền Tây Nam bộ nói riêng gắn với buổi ban đầu đi mở đất, mở cõi của những cư dân người Việt đầu tiên trên vùng đất này, một trong những lực lượng thiên nhiên hoang dã, rùng rợn nhất là mà con người phải đối chọi là hổ. Với các đặc điểm về sinh học (bộ mặt hung dữ gớm guốc, lưỡi thè lè đỏ lòm, mắt tròn to sắc lạnh, móng vuốt sắc lại ăn thịt người), hổ trở thành một nổi ám ảnh của người dân mỗi khi phải đối mặt. Trong điều kiện thời bấy giờ con người gần như bất lực, bó tay trước sức mạnh của hổ. Họ sợ hãi, kiêng dè và phải gọi chúng bằng Ông và thờ cúng chúng trong các đình miếu.

Vùng đất Bình Phước trước còn hoang vu, rừng rậm có nhiều thú dữ, đặc biệt là cọp. Chúng thường xuyên xâm phạm đến con người và phá hoại vật nuôi của cư dân trong xóm làng. Từ đó, tín ngưỡng thờ thần Hổ xuất hiện, nhằm tạo niềm tin bình an yên ổn cho cư dân buổi đầu khai hoang lập ấp và biểu hiện qua hình thức cúng hổ, nếu ai vi phạm lệ tục này thì bị cọp về móc họng chết.

Hình thức thờ phượng

Hổ được cộng đồng hay cá nhân, hộ gia đình nhiều nơi thờ phượng thông qua nhiều hình thức đa dạng như: dành một không gian tín ngưỡng để thờ cúng như đền, miếu, đình, chùa, bàn thờ tại tư gia. Hổ còn được thờ thông qua hình thức cúng tế các lễ vật dâng lên cho hổ, được vẽ tranh để thờ; gắn liền với thờ Mẫu, cổ tục bầu Ông và người ta còn mê tín sử dụng các bộ phận của hổ làm bùa chú để hộ thể (bùa hộ mệnh). Những hình thức này biểu hiện như:

Không gian thờ

nhỏ|phải|Bàn thờ Thần Hổ ở [[Đình Chí Hòa tại Thành phố Hồ Chí Minh]]

nhỏ|phải|[[Bàn thờ hổ trong tư gia của người Hoa]] Tín ngưỡng dân gian thờ cúng tự nhiên có một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân, trong đó, phải kể đến tín ngưỡng thờ động vật, cụ thể là tín ngưỡng thờ Hổ. Theo quan niệm dân gian, hổ là vị "chúa tể sơn lâm", cai quản vùng rừng núi. Rải rác trên khắp Việt Nam đều có bàn thờ hoặc miếu thờ thần Bạch Hổ, với các tên gọi: "Sơn quân chi thần", "Sơn quân mãnh hổ", "Sơn lâm chúa xứ" hay "Sơn lâm đại tướng quân". Trong tiềm thức dân gian, "ông ba mươi" là tên gọi đầy uy linh, quyền kính trong những gian thờ, đình, chùa, miếu mạo. Miếu Sơn quân là một mô thức nhất định trong cơ cấu kiến trúc cổ, được dựng lập ngay trong khuôn viên các ngôi đền, đình, miếu, mộ. Ở Nam bộ còn có dạng tồn tại khác về cọp là miếu thờ cọp. Phần lớn các đình làng ở Nam bộ đều có miếu thờ, tượng thờ ông Hổ. Các đình làng, chùa, miếu ở Nam Bộ đều có ban thờ thần Hổ.

Các đình làng ở Nam bộ phần lớn đều có miễu thờ thần hổ, ở về phía trái sân đình, với tước "Sơn Lâm chúa tể". Trên bức bình phong tại cổng các đền chùa, người ta thường đắp một con hổ đang bước xuống những bậc đá gập ghềnh. Với tư thế đó, hổ biểu hiện cho sức mạnh của thế giới Diêm Vương. Người ta còn thờ Ngũ hổ để tượng trưng cho năm phương: Hoàng hổ ở giữa gọi là Trung tâm, Xích hổ là phương Nam, Lục hổ là phương Đông, Bạch hổ là phương Tây và Hắc hổ là phương Bắc. Tất cả đều mang ý nghĩa cầu mưa và cầu cho mọi sự sinh sôi, phát triển.

Trong kiến trúc Đình làng Nam Bộ thì có Bình phong nằm chính giữa phía trước sân đình, mặt bình phong thường đắp nổi hoặc vẽ cảnh cọp vàng (hoàng hổ) đứng bên gộp đá lởm chởm, có một cây cổ thụ gie cành lá; hoặc cảnh long mã chở cái phù đồ, hoặc cảnh long hổ hội (cọp dưới đất ngước lên nhìn rồng đang bay ẩn trong mây nhìn xuống); cốt để biểu thị âm dương hòa hợp. Sân đình Hai bên đàn thường là các miễu thờ cọp (Chúa xứ Sơn quân). Hay còn có bàn thờ Hội đồng ngoại (gồm các vị thần sau: Mục đồng, Hậu thổ, Bà chúa Ngọc, chúa Ngung, Chúa Xứ, Ngũ hành nương nương, Táo quân, Cọp, Cá Voi).

Miếu thờ Cả Cọp

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tục thờ Hổ** hay **tín ngưỡng thờ Hổ** là sự tôn sùng, thần thánh hóa **loài hổ** cùng với việc thực hành hoạt động thờ phượng hình tượng con hổ bằng các phương thức khác
nhỏ|phải|Phù điêu ông Cọp ở đình Bình Đông nhỏ|phải|Phù điêu Bạch Hổ ở đình Cô Giang nhỏ|phải|Hoàng Hổ tướng quân trong ban thờ ở Đền thờ Đức Thánh Trần **Hổ được tôn thờ** và là
nhỏ|phải|Tượng hổ trong một ngôi chùa Phật giáo Trung Hoa Tại Trung Quốc, tập tục **sùng bái và thờ cúng hổ** cũng bắt nguồn từ khu vực hổ thường xuyên hoạt động, sau đó lan
Việc **thờ hổ**, sùng bái loài hổ được ghi nhận một cách đa dạng trên khắp các vùng miền của Việt Nam, từ vùng rừng núi sơn cước cho đến vùng đồng bằng và đến
nhỏ|phải|Tượng thần bò trong bảo tàng văn hóa Lưỡng Hà **Tục thờ Bò** hay **tín ngưỡng thờ Bò** hay còn gọi là **thờ Thần Bò** hay **đạo thờ Bò** là việc thực hành các tín
nhỏ|phải|Đền thờ rắn ở Thái Lan **Tục thờ rắn** hay **tín ngưỡng thờ rắn** là các hoạt động thờ phụng loài rắn. Rắn là loài vật được nhiều dân tộc trên thế giới tôn thờ.
thumb|Bộ xương [[cá voi trong Lăng Ông Nam Hải, thuộc Khu du lịch Hòn Đá Bạc ở xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.]] **Tục thờ cá Ông** (tức cá voi,
**Tục thờ ngựa** hay **tín ngưỡng thờ ngựa** là việc thực hành hoạt động thờ phượng, cúng bái hình tượng con ngựa bằng các phương thức khác nhau, xuất phát từ việc tồn sùng loài
**Tục thờ chó** hay một số nơi biến thể là **tục thờ chó đá** là các hình thức tín ngưỡng thờ cúng loài chó (thông thường là chó nhà). Tục thờ chó khá phổ biến
nhỏ|296x296px|Tranh vẽ minh hoạ Tục Thờ gấu của người Ainu **Tục thờ gấu** (còn được gọi là **_sùng bái gấu_**, tiếng Anh: **_bear workship_ hoặc _arctolatry_**) là tập tục tôn giáo thờ gấu được tìm
nhỏ|Ếch **Tục thờ ếch** hay **tín ngưỡng thờ ếch** là hình thức thờ cúng con ếch được cho xuất phát từ nền văn hoá của người Bách Việt. Theo sử sách ghi lại thì người
**Tục thờ rắn** là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Các vùng miền ở Việt Nam đều có ghi nhận tục thờ rắn. ## Miền Bắc ### Tuyên Quang Tại Đền Cấm ở thuộc
**Tín ngưỡng thờ động vật** hay **tục thờ cúng động vật** hay còn gọi **thờ phượng động vật** hay còn gọi đơn giản là **thờ thú** là thuật ngữ đề cập đến các nghi thức
phải|nhỏ|300x300px|Hổ là con vật được nhắc đến rất nhiều trong tín ngưỡng dân gian **Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của
**Tục thờ rắn** là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Trong nền văn hóa của nhiều dân tộc trên thế giới cũng như Việt Nam, rắn là con vật có sức ảnh hưởng mạnh
nhỏ|phải|Lễ hội cúng thủy thần ở Bali **Tục thờ nước** hay **tín ngưỡng thờ nước** là việc cúng bái, phụng thờ các yếu tố biểu tượng nước (_thủy_) vốn là một dạng tín ngưỡng sùng
nhỏ|phải|Một con hổ dữ nhỏ|phải|Một con [[hổ Sumatra, chúng là phân loài hổ có thể hình nhỏ nhất nhưng lại hung hăng và tích cực tấn công con người]] **Hổ vồ người** (hay **hổ vồ
**Tục thờ chó** là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. ## Vị thế tâm linh ### Thú giữ cửa Con chó nhà được thờ cúng ở một số nơi ở Việt Nam với tư
**Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau thế giới, hình ảnh con
nhỏ|phải|Tượng Phù Đổng Thiên Vương **Tục thờ ngựa** là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Ở Việt Nam, hình ảnh con ngựa đã in sâu vào tâm trí của nghệ sĩ dân gian, họ
nhỏ|phải|Một nghi lễ thờ lửa trong lễ hội [[Gromada Mir (Lễ hội đốt lửa) ở Ba Lan]] nhỏ|phải|Một nghi lễ dâng cúng thần lửa **Tục thờ lửa** (_Fire worship_) là việc thờ cúng lửa hoặc
Cổng chính của đền thờ họ Mạc với ba chữ 鄚公廟 _Mạc Công miếu_ **Đền thờ họ Mạc** có các tên chữ là **Trung Nghĩa từ**, **Mạc Công từ** hay **Mạc Công miếu**; còn dân
**Nhà thờ họ Đào Bá** là một di tích Lịch sử Văn hoá cấp Quốc gia, có địa chỉ tại thôn Lưu Khê, Quảng Yên, Quảng Ninh. Thủy tổ là cụ Đào Bá Lệ là
Đền thờ họ Đặng Việt Nam tại Miền Trung – thuộc thôn Trung Lý, xã Nhơn Phong, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định, kể từ ngày triển khai khởi công xây dựng vào tháng
Nhà thờ họ Hồ Khánh Hòa tọa lạc dưới chân núi Hòn Ngang, thôn Lễ Thạnh, huyện Diên Khánh, là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng và văn hóa của hơn 15.000 bà con dòng
Ngày 17/11/2024, một sự kiện đầy ý nghĩa đã diễn ra tại tỉnh Quảng Trị khi Hội Đồng Họ Hồ Quảng Trị tổ chức lễ khánh thành nhà thờ tổ họ Hồ tỉnh. Buổi lễ
**Hổ Đông Dương** hay **hổ Corbett** (danh pháp khoa học: **_Panthera tigris corbetti_**) là một phân loài hổ sống chủ yếu ở bán đảo Đông Dương, được tìm thấy tại Campuchia, Lào, Myanma, Thái Lan
Tìm Hiểu Phong Tục Thờ Cúng Của Người Việt Ứng Dụng Trong Cuộc Sống Và Kinh Doanh Cộng đồng dân tộc Việt Nam trong từng hoàn cảnh, tình huống cụ thể, ở trong tâm thể
Tìm Hiểu Phong Tục Thờ Cúng Của Người Việt Ứng Dụng Trong Cuộc Sống Và Kinh Doanh Cộng đồng dân tộc Việt Nam trong từng hoàn cảnh, tình huống cụ thể, ở trong tâm thể
nhỏ|phải|Người Ai Cập cổ đại tôn sùng loài bọ hung **Thờ côn trùng** là tín ngưỡng thờ động vật được thực hành dưới dạng thờ cúng hoặc tôn sùng các loài côn trùng. Côn trùng
Một người thợ hồ ở [[Paoua, Cộng hòa Trung Phi]] **Thợ hồ** hay **thợ nề** những người lao động phổ thông hay lao động tay chân mang tính tự do trong lĩnh vực xây dựng,
Nhà Thờ Họ Hồ Quỳnh Đôi là một di tích Lịch sử – Văn hóa Quốc gia tiêu biểu của huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, được Nhà nước công nhận ngày 22/01/1992, tọa lạc trên
Nhà thờ họ Hồ Đại tộc Tam Công là một di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia, gắn liền với lịch sử hình thành, phát triển của dòng họ Hồ tại Việt
nhỏ|phải|Một nghi lễ hóa trang hổ ở Pulikkali của [[Ấn Độ]] **Múa hổ** hay **điệu nhảy hổ** (_Tiger dance_) là một nghệ thuật biểu diễn truyền thống, trong đó những người mặc trang phục hóa
phải|nhỏ|Một bàn thờ gia tiên của [[người Việt.]] Cúng Giao thừa ngoài trời **Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên** (hay còn được gọi là **đạo ông bà**) là tục lệ thờ cúng tổ tiên và
Việt Nam là quốc gia thịnh hành **tục thờ cúng động vật** xuất phát từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Tín ngưỡng thờ linh thú trong các đình, đền, miếu là một trong những
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
nhỏ|phải|Họa phẩm về một cảnh săn hổ trên lưng voi **Săn hổ** là việc bắt giữ hay giết hại hổ. Ngày nay, với các quy định pháp luật về bảo vệ loài hổ thì phạm
**Thơ** là hình thức nghệ thuật dùng từ trong ngôn ngữ làm chất liệu và sự chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới hình thức logic nhất định tạo
Họ **Đồng (同)** là một họ của người Việt Nam. Biểu tượng của dòng họ Đồng tại Việt Nam ## Nguồn gốc họ Đồng Việt Nam Các triều đại phong kiến ở Việt Nam có
**Lãnh thổ Indiana** (tiếng Anh: _Indiana Territory_) từng là một Lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại từ ngày 4 tháng 7 năm 1800 cho đến 7 tháng 11 năm
phải|nhỏ|300x300px|Hổ phân bố ở Việt Nam là [[Hổ Đông Dương, hiện loài này đang thuộc nhóm nguy cấp]] **Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó
nhỏ|phải|Tượng thờ Quốc mẫu Âu Cơ tại Đền Hùng trong Công viên Tao Đàn nhỏ|phải|Ban thờ Tam Tòa Thánh mẫu trong Phật điện của Tu viện Vĩnh Nghiêm thuộc Quận 12 Điện thờ [[Liễu Hạnh
nhỏ|upright=1.3|Hai [[Mái vòm của Nhà thờ Mộ Thánh, Mái vòm bên trên Rotunda ở trên nóc có lá cờ Thập Tự Thánh Georges và mái vòm nhỏ hơn ở phía trên Catholicon, Tháp giáo đường
**Người Thổ** hay còn gọi là **người Cuối** hay **người Mọn** là một nhóm dân tộc Việt-Mường có vùng cư trú chính ở phần phía tây tỉnh Nghệ An, Việt Nam; được công nhận là
**Trương** (giản thể: 张 ; phồn thể: 張) là một họ của người Việt Nam. Họ Trương cũng có tại Trung Quốc (Zhang), Triều Tiên / Hàn Quốc (Jang), Đài Loan (Chang), và Singapore (Chong).
**Địa đạo Phú Thọ Hòa** là một công trình quân sự dưới lòng đất đặt tại phường Phú Thọ Hòa cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh chưa đầy 10km về hướng Tây. Hệ
**Hồ Xuân Hương** (cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX) (chữ Hán: 胡春香) là một thi sĩ người Việt Nam sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà
**Nhà Hồ** (chữ Nôm: 茹胡, chữ Hán: 胡朝, Hán Việt: _Hồ triều_) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Hồ Quý Ly lên ngôi năm 1400 sau khi
**Trường Thơ Loạn** (1937 (?)- 1946) do Hàn Mặc Tử chủ xướng thành lập tại Bình Định. Đây là một tập hợp của một số thi sĩ trong phong trào Thơ mới, có chung một