✨Ngữ hệ Quechua

Ngữ hệ Quechua

Quechua (), hay còn gọi là **** ("ngôn ngữ của nhân dân") trong tiếng Quechua, là một ngữ hệ bản địa của dãy Andes, Peru. Có nguồn gốc từ một ngôn ngữ tổ tiên chung, nó là ngữ hệ tiền Colombia được sử dụng rộng rãi nhất ở châu Mỹ, với tổng số người nói có lẽ vào khoảng 8–10 triệu. Khoảng 25% (7,7 triệu) người Peru nói tiếng Quechua. Nó có lẽ được biết đến rộng rãi nhất vì là ngôn ngữ chính thức của Đế quốc Inca. Thực dân Tây Ban Nha khuyến khích sử dụng ngôn ngữ này cho đến khi người Peru đấu tranh giành độc lập vào những năm 1780. Do đó, các phương ngữ Quechua vẫn được sử dụng rộng rãi ngày nay, trở thành ngôn ngữ đồng chính thức ở nhiều vùng và là ngữ hệ được nói nhiều thứ hai ở Peru.

Lịch sử

Tiếng Quechua lan rộng ở bờ Thái Bình Dương của Nam Mỹ trước cả khi Đế quốc Inca bắt đầu mở rộng. Người Inca là một trong số nhiều dân tộc ở Peru ngày nay nói phương ngữ của tiếng Quechua. Ở Cusco, Quechua bị ảnh hưởng bởi các ngôn ngữ lân cận như tiếng Aymara, khiến nó phát triển thành phương ngữ riêng biệt. Tương tự như vậy, các phương ngữ bắt đầu nổi lên ở những nơi khác nhau do vay mượn từ các ngôn ngữ lân cận cùng lúc với thời gian Đế quốc Inca cai trị và áp đặt Quechua làm ngôn ngữ chính thức.

Sau cuộc chinh phạt Peru của Tây Ban Nha vào thế kỷ 16, tiếng Quechua vẫn tiếp tục được dân bản địa sử dụng. Ngôn ngữ được chính quyền Tây Ban Nha chính thức công nhận và nhiều người Tây Ban Nha đã học thứ tiếng này để giao tiếp với người dân địa phương. Các giáo sĩ của Nhà thờ Công giáo sử dụng tiếng Quechua để truyền giáo. Những ghi chép lâu đời nhất về ngôn ngữ này là của nhà truyền giáo Domingo de Santo Tomás, ông đến Peru vào năm 1538 và học ngôn ngữ này từ năm 1540. Ông xuất bản cuốn Grammatica o arte de la lengua general de los indos de los reynos del Perú (Ngữ pháp hoặc Nghệ thuật ngôn ngữ chung của thổ dân da đỏ ở Peru) vào năm 1560. Tiếng Quechua dưới vai trò truyền giáo giúp nó tiếp tục tồn tại.

Cuối thế kỷ XVII, chính quyền thực dân bãi bỏ vai trò hành chính và truyền giáo của tiếng Quechua sau cuộc khởi nghĩa của Túpac Amaru II. Ecuador công nhận vị thế chính thức của nó trong bản hiến pháp năm 2006, và vào năm 2009, Bolivia công nhận tiếng Quechua và một số ngôn ngữ bản địa khác là ngôn ngữ chính thức.

Trở ngại lớn đối với việc sử dụng và giảng dạy ngôn ngữ Quechua là thiếu tài liệu viết bằng ngôn ngữ này, chẳng hạn như sách, báo, phần mềm và tạp chí. Kinh thánh đã được dịch sang tiếng Quechua và được phân phối bởi một số nhóm truyền giáo. Quechua, cùng với tiếng Aymara và các ngôn ngữ bản địa nhỏ, về cơ bản vẫn là những ngôn ngữ nói.

Trong những năm gần đây, tiếng Quechua đã được đưa vào giáo dục song ngữ liên văn hóa (IBE) tại Peru, Bolivia và Ecuador. Ngay cả ở những khu vực này, các chính phủ cũng chỉ tiếp cận một phần dân số nói tiếng Quechua. Nhiều người bản địa ở các quốc gia này vẫn đang cho con cái của họ học tiếng Tây Ban Nha vì mục đích thăng tiến xã hội.

Tiếng Quechua và tiếng Tây Ban Nha hiện đang bị trộn lẫn ở phần lớn vùng Andes, với hàng trăm từ mượn tiếng Tây Ban Nha được đưa vào vốn từ vựng Quechua. Tương tự, các cụm từ và từ tiếng Quechua thường được người nói tiếng Tây Ban Nha sử dụng. Ví dụ, ở vùng nông thôn phía nam Bolivia, nhiều từ tiếng Quechua như wawa (trẻ sơ sinh), misi (mèo), waska (dây đeo hoặc đập mạnh), được sử dụng phổ biến như các từ tiếng Tây Ban Nha, ngay cả ở những khu vực nói tiếng Tây Ban Nha hoàn toàn. Tiếng Quechua cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến các ngôn ngữ bản địa khác của châu Mỹ, chẳng hạn như tiếng Mapuche.

Số lượng người nói

Số lượng người nói thường tùy theo các nguồn khác nhau. Tổng số người nói theo Ethnologue 16 là 10 triệu, chủ yếu dựa trên các số liệu được công bố từ năm 1987–2002, nhưng với một số ít có niên đại từ những năm 1960. Ví dụ, con số của Imbabura Highland Quechua trong Ethnologue là 300.000, ước tính từ năm 1977.

Mặt khác, tổ chức truyền giáo FEDEPI ước tính một triệu người nói phương ngữ Imbabura (xuất bản năm 2006). Số liệu điều tra dân số cũng có vấn đề, do báo cáo không đầy đủ. Điều tra dân số ở Ecuador năm 2001 báo cáo chỉ có 500.000 người nói tiếng Quechua, so với ước tính ở hầu hết các nguồn ngôn ngữ là hơn 2 triệu người. Các cuộc điều tra dân số của Peru (2007) và Bolivia (2001) được cho là đáng tin cậy hơn. Argentina: 900,000 (1971) Bolivia: 2,100,000 (số liệu năm 2001); 2,800,000 người Nam Bolivia (1987) Chile: ít, nếu có; 8200 theo nhóm sắc tộc (số liệu năm 2002) Colombia: 4,402 tới 16,000 Ecuador: 2,300,000 (Adelaar 1991) Peru: 3,800,000 (số liệu năm 2017); 3,500,000 tới 4,400,000 (Adelaar 2000)

Ngoài ra, có một số lượng người nói chưa xác định trong các cộng đồng di cư, bao gồm ở Queens, New York và Paterson, New Jersey, ở Hoa Kỳ.

Phân loại

thumb|Bốn nhánh Quechua: I (miền trung), II-A (Bắc Peru), II-B (miền bắc), II-C (miền nam) Có sự khác biệt đáng kể giữa các phương ngữ Quechua được nói ở vùng cao nguyên miền trung Peru và các phương ngữ ngoại vi của Ecuador, cũng như các phương ngữ miền nam Peru và Bolivia. Chúng có thể được gọi là Quechua I (hoặc Quechua B, trung tâm) và Quechua II (hoặc Quechua A, ngoại vi). Trong hai nhóm, có rất ít ranh giới rõ ràng gọi là dãy phương ngữ.

Tuy nhiên, có sự phân chia thứ cấp ở Quechua II giữa các phương ngữ phía bắc được đơn giản hóa về mặt ngữ pháp của Ecuador, Quechua II-B hay tiếng Kichwa, và các phương ngữ nói bảo thủ hơn của vùng cao phía nam, Quechua II-C ở quanh cố đô Cusco của đế quốc Inca. Sự gần gũi này một phần là do ảnh hưởng của tiếng Quechua Cusco lên người dân phía bắc Đế quốc Inca. Các quý tộc phương Bắc thời xưa phải đưa con cái xuống Cusco để được giáo dục đường lối đế quốc, do vậy nó đã được duy trì như một phương ngữ uy tín ở phía bắc.

Những người nói từ ba vùng miền khác nhau có thể hiểu nhau. Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể ở cấp địa phương giữa mỗi phương ngữ. (Đặc biệt, tiếng Quechua Wanka có một số đặc điểm rất khác biệt khiến cho giọng miền này trở nên khó hiểu hơn, ngay cả đối với những người nói tiếng Quechua miền Trung khác).

Sự thiếu tính dễ hiểu lẫn nhau giữa các phương ngữ là tiêu chí cơ bản xác định tiếng Quechua không phải là một ngôn ngữ duy nhất, mà là một họ ngôn ngữ. Bản chất phức tạp và tiến bộ của cách nói khác nhau giữa các phương ngữ khiến việc phân biệt các loại rời rạc gần như không thể; Ethnologue liệt kê 45 thứ tiếng sau đó được chia thành hai nhóm; Trung tâm và Ngoại vi. Do sự không hiểu lẫn nhau giữa hai nhóm, chúng đều được phân loại là các ngôn ngữ riêng biệt.

Mức độ đa dạng tổng thể trong họ ngôn ngữ này kém hơn một chút so với Ngữ hệ Roman hoặc Ngữ hệ German, và có thể ví như Ngữ hệ Slav hoặc tiếng Ả Rập. Tiếng Quechua Trung tâm hay Quechua I đa dạng nhất, được cho là nằm gần quê hương của ngôn ngữ Quechua nguyên thủy.

Cây phát sinh của ngữ hệ

Alfredo Torero đưa ra kiểu phân loại truyền thống, ba nhánh ở trên, cộng với một nhánh thứ tư là nhánh phía bắc hoặc Peru. Tuy nhiên, kiểu phân loại này phức tạp hóa việc phân loại, vì các phương ngữ phía bắc (Cajamarca – Cañaris, Pacaraos và Yauyos – Chincha) có cả đặc điểm của Quechua I lẫn II, và do đó rất khó để gán cho cả hai.

Willem Adelaar tuân theo sự phân đôi Quechua I/Quechua II (trung tâm/ngoại vi). Tuy nhiên, khi xem xét các sửa đổi sau này của Torero, ông đã xếp lại một phần của Quechua II-A thành Quechua I:

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quechua** (), hay còn gọi là **** ("ngôn ngữ của nhân dân") trong tiếng Quechua, là một ngữ hệ bản địa của dãy Andes, Peru. Có nguồn gốc từ một ngôn ngữ tổ tiên chung,
**Ngôn ngữ bản địa của châu Mỹ** được nói bởi những người bản địa từ Alaska, Nunavut và Greenland đến mũi phía nam của Nam Mỹ, bao gồm các khối đất tạo thành châu Mỹ.
**Các dân tộc bản địa châu Mỹ** (**thổ dân châu Mỹ** hay **người Anh-điêng**, ở Việt Nam còn gọi là **người da đỏ** để chỉ dân bản địa ở Hoa Kỳ mà bắt nguồn từ
**Hệ thập phân** (**hệ đếm cơ số 10**) là hệ đếm dùng số 10 làm cơ số. Đây là hệ đếm được sử dụng rộng rãi nhất trong các nền văn minh thời hiện đại.
Một **ngôn ngữ chắp dính** là một loại ngôn ngữ tổng hợp có hình thái chủ yếu sử dụng sự chắp dính (kết tụ). Các từ có thể chứa các hình thái khác nhau để
**Thung lũng Thiêng của người Inca** (; ) hoặc **Thung lũng Urumbamba** là một thung lũng trong dãy núi Andes của Peru, cách về phía bắc của thành phố Cuzco, thủ đô của Đế quốc
Trong ngôn ngữ học, **biến cách** () là sự biến đổi hình thái thường dùng để làm chức năng cú pháp trong câu và có thể áp dụng cho danh từ, động từ, tính từ,
**Andahuaylas** (ngữ hệ Quechua: _Antawaylla_, nghĩa là "đồng cỏ") là một thành phố của Peru. Đây là thủ phủ của tỉnh Andahuaylas thuộc vùng Apurímac. Nó còn được biết đến với cái tên _pradera de
**Tiếng Aymara** (_Aymar aru_) là ngôn ngữ của người Aymara tại Andes. Đây là một trong số ít ngôn ngữ bản địa châu Mỹ với hơn một triệu người nói. Tiếng Aymara, cùng với tiếng
**Đồng tính luyến ái** là sự hấp dẫn lãng mạn, sự hấp dẫn tình dục hoặc hành vi tình dục giữa những người cùng giới tính hoặc giới tính xã hội. Là một xu hướng
[[Tập tin:America 1000 BCE.png|thumb|right|Lược đồ thể hiện các cộng đồng người ở châu Mỹ vào năm 1000 trước Công nguyên. ]] **Thời kỳ tiền Colombo** () bao hàm tất cả các giai đoạn lịch sử
Trong cấu trúc ngôn ngữ, **chủ ngữ-tân ngữ-động từ** (cấu trúc "subject-object-verb" SOV) là một cấu trúc câu trong đó chủ ngữ, tân ngữ và động từ của câu luôn luôn xuất hiện theo thứ
phải|nhỏ|Khu vực gần đúng của tiếng Tây Ban Nha Rioplata với các biến thể Patagonia. **Tiếng Tây Ban Nha Rioplata** hay còn gọi là **tiếng Castila Rioplata** là một phương ngữ tiếng Tây Ban Nha
**Công viên tỉnh Ischigualasto** () còn được gọi là **Valle de la Luna** (_Thung lũng Mặt Trăng_) là một công viên tự nhiên nằm ở phía đông bắc của tỉnh San Juan, tây bắc Argentina,
Vùng núi Andes giữa [[Chile và Argentina]] Vào thời kỳ trước khi Christopher Columbus đến châu Mỹ, ở Nam Mỹ từng tồn tại nền văn minh cổ đại lâu đời của người thổ dân châu
**Bolivia**, quốc hiệu là **Nhà nước Đa dân tộc Bolivia**, là một quốc gia nội lục ở trung tâm Nam Mỹ, giáp Brasil ở phía bắc và phía đông, Paraguay và Argentina ở phía nam,
**Perú** (, cũng thường viết không dấu là **Peru**), tên chính thức là **Cộng hòa Perú** (, ), là một quốc gia nằm ở phía Tây Nam Mỹ. Về phía bắc, Perú có biên giới
**Đế quốc Inca** hay **Đế quốc Inka** (, nghĩa là "tứ địa phương" ), là đế quốc lớn nhất ở Châu Mỹ thời kì tiền Columbus. Trung tâm hành chính, chính trị và quân sự
**Châu Mỹ** hay **Mỹ châu** (tiếng Anh: _The Americas_ hoặc _America_) là một châu lục nằm ở Tây Bán Cầu, được bao quanh bởi Thái Bình Dương (phía tây), Đại Tây Dương (phía đông) và
**Mỹ Latinh** ( hay _Latinoamérica_; ; ; ) là một khu vực của châu Mỹ, nơi mà người dân chủ yếu nói các ngôn ngữ Rôman (có nguồn gốc từ tiếng Latinh) – đặc biệt
**Nền văn minh Chavin** là nền văn minh thời tiền sử đã biến mất đặt tên theo Chavin de Huantar, địa chỉ khảo cổ học chính với các hiện vật tiêu biểu đã được tìm
**Chile**, quốc hiệu là **Cộng hòa Chile**, là một quốc gia tại Nam Mỹ, có dải bờ biển dài và hẹp xen vào giữa dãy núi Andes và biển Thái Bình Dương. **Chile** giáp Peru
phải|nhỏ|Ảnh chụp diêm mạch gần Cachilaya, [[Hồ Titicaca, Bolivia]] **Diêm mạch** (tên gọi trong tiếng Tây Ban Nha: quinua, tiếng Anh: quinoa, phát âm: kēn’wä, từ tiếng Quechua _kinwa_ hoặc _kinuwa_) là tên gọi phổ
**Machu Picchu** (, nghĩa đen: "Núi Cổ" hay "Núi Già") là một thị trấn _llacta_ được người Inca xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 15. Di tích tọa lạc bên sườn Cordillera Đông của
**Người Mapuche** (Tiếng Mapuche & Tiếng Tây Ban Nha: ) là một nhóm cư dân bản địa miền trung nam Chile và tây nam Argentina, bao gồm một phần của Patagonia ngày nay. Thuật ngữ
**Báo sư tử** (_Puma concolor_) hay **báo cuga** (tiếng Anh: **Cougar**) là một loài mèo lớn trong Họ Mèo phân bố ở Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Phạm vi của nó kéo dài
nhỏ|phải|Mạch nước phun [[Strokkur, Iceland]] nhỏ|[[Nước|Hơi nước phun lên từ mạch nước phun Castle làm xuất hiện các hiệu ứng phụ như cầu vồng và giải Alexander trong Vườn quốc gia Yellowstone.]] Video mạch nước
thumb| là một giống khoai lang () được trồng ở [[New Zealand thời kỳ tiền Âu châu]] **Khoai lang** được bắt đầu canh tác ở miền trung Polynesia vào khoảng năm 1000 CN. Trong nhiều
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Chuột lang nhà** (tên khoa học **_Cavia porcellus_**, tiếng Anh: _guinea pig_), còn gọi là **bọ ú**, là một loài thuộc bộ Gặm nhấm, họ Chuột lang. Mặc dù trong tiếng Anh chúng có tên
**Khoai tây** (danh pháp hai phần: **_Solanum tuberosum_**), thuộc họ Cà (_Solanaceae_). Khoai tây là loài cây nông nghiệp ngắn ngày, trồng lấy củ chứa tinh bột. Chúng là loại cây trồng lấy củ rộng