✨Quách Tử Nghi

Quách Tử Nghi

Quách Tử Nghi (chữ Hán: 郭子儀; 5 tháng 9, 697 – 9 tháng 7, 781), là một danh tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc.

Ông phục vụ dưới 4 đời Hoàng đế nhà Đường là Đường Huyền Tông, Đường Túc Tông, Đường Đại Tông và Đường Đức Tông, có công rất lớn trong việc dẹp loạn An Sử. Do thanh thế lớn, ông được phong tước Phần Dương quận vương (汾陽郡王), và người đời gọi ông là Quách Lệnh Công (郭令公).

Thân thế

Quách Tử Nghi quê ở Hoa Châu, huyện Trịnh (nay là huyện Hoa, tỉnh Thiểm Tây). Tổ 6 đời là Quách Trí (郭智), người Tấn Dương, Thái Nguyên (nay là Thái Nguyên, Sơn Tây), làm Thái thú quận Trung Sơn, rồi Thứ sử Dĩnh Châu thời Bắc Ngụy. Tổ 5 đời Quách Tiến (郭进), làm chức Tư mã Đồng Châu thời Tây Ngụy, em trai của Thái phó Quách Huy thời nhà Tùy. Cha ông là Quách Kính Chi (郭敬之), từng giữ chức Thứ sử 5 châu dưới thời Đường, tặng Kì Quốc công (祁国公). Mẹ ông là Hướng thị (向氏), phong Ngụy Quốc phu nhân (魏国夫人).

Quách Tử Nghi được mô tả là người cao hơn 6 thước, dáng vẻ anh dũng. Quách Tử Nghi theo đuổi nghiệp võ, thi đỗ đầu trong một kỳ thi, được bổ nhiệm làm "Trưởng sử tả vệ".

Trong vài chục năm cho đến trước năm 755, Quách Tử Nghi không có đóng góp nào đặc biệt trên quan trường.

Dẹp loạn An Sử

Giao tranh ở Hà Bắc

Tháng 11 năm 755, lúc đó Tử Nghi đã 59 tuổi, Tiết độ sứ Phạm Dương là An Lộc Sơn khởi binh chống lại nhà Đường, tự xưng là Yên đế. Quân Yên khí thế mạnh mẽ, sang năm 756 nhanh chóng đánh chiếm nhiều vùng đất thuộc Hà Bắc và Hà Nam.

Trước tình thế nguy cấp, Đường Huyền Tông bổ nhiệm Quách Tử Nghi làm Tiết độ sứ Sóc Phương, mang quân về phía đông dẹp loạn.

Tháng 4 năm 756, Quách Tử Nghi giành lại được 2 quận Vân Trung và Mã Ấp. Sau đó ông tiến quân đến Tỉnh Hình, phối hợp với Tiết độ sứ Hà Đông là Lý Quang Bật. Hai tướng cùng nhau đánh chiếm được 2 huyện Cửu Môn và Cảo Thành do tướng Yên là Sử Tư Minh cố thủ trên 40 ngày. Quân Đường chiếm được 9 huyện của quận Thường Sơn, đường rút lui của quân Yên bị uy hiếp.

Sử Tư Minh tuy thua nhưng có quân đông, khí thế còn mạnh. Khi Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật lui lại Thường Sơn để phòng thủ bèn mang quân đuổi theo. Quách Tử Nghi bèn sai 500 quân giương oai tiến lên phía bắc để đánh lừa Tư Minh. Tư Minh không biết là nghi binh, mang quân cấp tốc đuổi theo trong 3 ngày 3 đêm. Khi quân Yên đuổi tới huyện Hành Đường thì người ngựa đã rất mệt mỏi, lúc đó mới phát hiện ra phía trước chỉ có 500 quân Đường, bèn quay trở lại sông Sa Hà nghỉ ngơi. Quách Tử Nghi thừa lúc quân Yên mệt mỏi bèn mang quân đánh úp, giành thắng lợi lớn.

An Lộc Sơn nghe tin Tư Minh thua trận bèn sai Thái Hy Đức mang 2 vạn bộ binh và kỵ binh tới chi viện, lại sai Ngưu Đình Giới mang 1 vạn quân tới hỗ trợ Tư Minh. Tư Minh có 5 vạn quân trong tay.

Quách Tử Nghi không vội giao chiến, vẫn dùng chiến thuật trì hoãn khiến quân địch nản lòng. Ông mang quân lên phía bắc, dụ Tư Minh đuổi theo. Tư Minh được tăng viện, yên tâm mang quân đuổi. Tử Nghi đến đóng quân ở Hằng Dương, củng cố lại thành trì. Sử Tư Minh mang quân tới đánh thành không được. Hễ Tư Minh có ý định lui thì Quách Tử Nghi mang quân ra truy kích. Tư Minh quay trở lại đánh thì quân Đường lại rút vào thành cố thủ. Sử Tư Minh tiến lui đều không được, rất mệt mỏi. Lúc đó Quách Tử Nghi báo cho Lý Quang Bật tới trợ chiến, quân Đường có tổng cộng 10 vạn người, tổ chức tấn công quy mô vào quân Yên ở Gia Sơn, kết quả diệt hơn 4 vạn quân Yên, bắt sống 1000 người. Sử Tư Minh thua to, bị ngã ngựa, may mắn trốn thoát, chạy về cố thủ ở Bác Lăng. Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật mang quân vây hãm Bác Lăng.

Trận Gia Sơn đẩy quân Yên vào thế nguy khốn. An Lộc Sơn từ Lạc Dương mang quân đánh Tràng An bị Kha Thư Hàn án ngữ ở Đồng Quan không tiến lên được, phía sau thì Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật vây bọc. Nhiều tướng Yên đầu hàng nhà Đường, các trinh thám đi đưa thư cũng đều bị quân Đường bắt được. An Lộc Sơn chán nản định bàn cách bỏ Lạc Dương rút về căn cứ Phạm Dương và Bình Lư.

Rút về Linh Vũ

Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật kiến nghị Đường Huyền Tông cố thủ giữ chân An Lộc Sơn ở Đồng Quan, còn hai cánh quân Lý, Quách tấn công căn cứ Phạm Dương của Lộc Sơn. Nhưng Đường Huyền Tông không nghe theo, nóng lòng muốn thắng lợi, bèn ép Kha Thư Hàn xuất kích từ Đồng Quan ra đánh quân Yên. Thư Hàn không thể chống lệnh đành mang quân ra đánh, bị thảm bại. Quân Yên thắng lớn thừa cơ tiến vào Trường An. Đường Huyền Tông phải bỏ chạy vào đất Thục.

Tình hình nhà Đường rất nghiêm trọng, cả hai kinh Lạc Dương và Trường An đều thất thủ, uy thế quân Yên lên cao, Đường Huyền Tông bị mất uy tín với tướng sĩ vì sủng ái Dương Quý phi và anh Dương Phi là Dương Quốc Trung. Tháng 7 năm 756, Thái tử Lý Hanh bèn lên ngôi ở Linh Vũ, tức là Đường Túc Tông. Lực lượng của Đường Túc Tông mới tập hợp khá nhỏ yếu, Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật đang chiếm ưu thế ở Hà Bắc, được lệnh về Linh Vũ hộ giá.

Qua một năm tập hợp và củng cố, quân Đường ở phương Bắc mạnh lên nhiều. Trong khi đó nội bộ quân Yên lại chia rẽ. An Lộc Sơn bị con là An Khánh Tự giết chết để cướp ngôi, mãnh tướng Sử Tư Minh mang gần 10 vạn quân ly khai không nghe lệnh Khánh Tự. Nhân thời cơ đó, Đường Túc Tông hạ lệnh phản công để thu hồi hai kinh (Lạc Dương, Trường An).

Thu hồi hai kinh

Tháng 4 năm 757, Túc Tông phong con là Lý Bảo làm Nguyên soái, Quách Tử Nghi làm Phó nguyên soái, lãnh trách nhiệm thu hồi hai kinh. Lý Bảo là hoàng tử nắm quyền tối cao nhưng không có thực tài, chiến sự trông hết vào Quách Tử Nghi. Quách Tử Nghi sai Lý Tự Nghiệp cầm tiền quân, tự mình đi trung quân, sai Vương Âu Lễ làm hậu quân. Lý Tự Nghiệp và Lý Quy Nhân giao tranh giằng co mấy trận không phân thắng bại.

An Thủ Trung điều một cánh quân sang phía đông đánh vây bọc quân Đường. Quách Tử Nghi phát hiện, bèn sai Bộc Cố Hoài Ân (người Thiết Lặc, Hồi Hột) dẫn 4000 quân Hồi Hột ra giao chiến, giết hơn nửa quân Yên. Cánh quân Yên đi tập kích bị đánh bại. Quách Tử Nghi lại sai Hoài Ân vòng ra phía sau đánh úp quân Yên, đồng thời thúc tiền quân và trung quân cùng lúc tấn công ồ ạt. Sau hơn nửa ngày giao chiến, quân Đường giết 6 vạn quân Yên. Quân Yên thua chạy vào thành Trường An. Lý Bảo chủ trương cho binh sĩ nghỉ ngơi nên dừng lại không truy kích. An Thủ Trung, Trương Thông Nho và Lý Quy Nhân hoảng sợ, nhân lúc đêm tối bỏ thành rút chạy.

Ba ngày sau, Lý Bảo và Quách Tử Nghi mới mang quân đuổi theo quân Yên. Nhưng quân Đường triển khai chậm nên quân Yên có thời gian chỉnh đốn lại. Vua Yên An Khánh Tự sai Nghiêm Trang mang quân từ Lạc Dương sang phía tây tiếp viện cho Trường An, gặp tàn quân Yên thua chạy về, tập hợp lại được 15 vạn người. Quân Yên dựa vào núi bày trận, Tử Nghi cho đại quân tấn công chính diện, còn Bộc Cố Hoài Ân mang quân Hồi Hột đánh úp phía sau. Thấy cánh quân chính diện yếu thế, Hoài Ân dẫn quân thần tốc tới Nam Sơn, đánh mạnh vào sườn quân Yên. Quân Yên vốn sợ quân Hồi Hột, nên thấy quân Hồi Hột đến đều bỏ chạy. Quách Tử Nghi thừa cơ thúc 2 cánh quân chính diện tấn công ồ ạt. Quân Yên thua to, Nghiêm Trang và các tướng dẫn tàn quân chạy về phía đông. Quách Tử Nghi dẫn quân truy sát.

An Khánh Tự được tin cánh quân chủ lực đi cứu Trường An bị đánh bại rất sợ hãi, dẫn 300 kỵ binh và 1000 bộ binh bỏ Lạc Dương chạy về Nghiệp Thành. Ngày 18 tháng 10, quân Đường thừa thắng tiến vào Lạc Dương.

Đường Túc Tông nghe tin Quách Tử Nghi giành lại hai kinh, phong ông làm Đại quốc công (代国公). Thượng hoàng Đường Huyền Tông nghe tin cũng có lời khen ngợi.

Bại binh Nghiệp Thành

Tháng 9 năm 758, Quách Tử Nghi cùng Lý Quang Bật và 7 Tiết độ sứ nhà Đường được lệnh đi đánh An Khánh Tự ở Nghiệp Thành. Quân Đường có tổng cộng 60 vạn người. Đường Túc Tông lại cho rằng vì Tử Nghi và Quang Bật có công trận ngang nhau, không thể đặt ai trên ai, nên sai hoạn quan Ngư Triều Ân làm tổng chỉ huy.

Quách Tử Nghi mang quân từ Hạnh Viên vượt sông, bao vây tấn công Vệ Châu. An Khánh Tự dẫn 7 vạn quân chia làm 3 ngả, tăng viện cho Vệ Châu. Tử Nghi bố trí 3000 tay cung nấp sau lũy đất rồi dẫn quân ra khiêu chiến. An Khánh Tự thúc quân ra đánh. Tử Nghi giả thua chạy, quân Yên đuổi theo. Bất thần các tay nỏ vùng dậy bắn, giết hơn nửa quân Yên. Tử Nghi cũng quay trở lại đánh giết. An Khánh Tự thua lớn, bỏ chạy về Nghiệp Thành rồi sai người cầu cứu Sử Tư Minh. Tư Minh vốn đã hàng nhà Đường, nhưng bất mãn vì phát hiện Đường Túc Tông có ý trừ khử mình, bèn mang 10 vạn quân trở lại chống nhà Đường, từ Phạm Dương đi cứu An Khánh Tự.

Tháng 2 năm 759, Tiết độ sứ 9 phương của nhà Đường dẫn quân đông đảo tới bao vây Nghiệp Thành. Sử Tư Minh thấy thế quân Đường mạnh mẽ bèn dẫn quân đến Phẫu Dương đóng lại không tiến. Quân Đường dẫn nước sông Chương vào thành. Trong thành nước ngập rất nguy cấp, nhưng An Khánh Tự vẫn cố phòng thủ chờ viện binh của Sử Tư Minh. Hoạn quan Ngư Triều Ân không hiểu việc quân sự nên dùng dằng không ra lệnh đánh thành.

Sử Tư Minh thấy quân Đường vây lâu ngày không hạ được thành, bèn tiến quân. Tư Minh tiến lên hạ trại cách quân Đường 50 dặm, chia một cánh quân đi cướp lương quân Đường, các cánh quân nhỏ khác đến tập kích ban đêm khiến quân Đường bị tổn thất khá nặng. Quân Đường bị thiếu lương đều dao động. Sau đó Tư Minh dẫn 5 vạn quân đánh thẳng vào đại trại quân Đường. Quân Đường thua lớn, Quách Tử Nghi cùng các Tiết độ sứ chạy tản mỗi người một nơi. Tử Nghi rút về Hà Dương để giữ Lạc Dương.

Ngư Triều Ân vốn ganh ghét với công trạng của Tử Nghi, dâng sớ kể tội ông làm quân Đường bại trận ở Nghiệp Thành. Đường Túc Tông bèn triệu ông về triều, sai Lý Quang Bật chỉ huy quân đội. Nhiều tướng sĩ biết tin ông bị cách chức đều đứng ở ven đường khóc đưa tiễn, Đường Đại Tông lên ngôi (tháng 5 năm 762), nghe lời gièm pha của Trình Nguyên Chấn thì lại nghi ngờ ông, tước binh quyền và giam lỏng ông tại nhà. Lực lượng quân Yên tàn hại lẫn nhau, bị suy yếu và cuối cùng bị đánh bại năm 763.

Chống Thổ Phiên

Năm 763, 20 vạn quân Thổ Phiên tấn công vào kinh thành Trường An. Đường Đại Tông chạy về phía đông đến Thiểm Châu, lại trọng dụng Quách Tử Nghi, phong ông làm Phó nguyên soái Quan Nội, chỉ huy hơn 4000 quân tản mát các nơi mới tập hợp về.

Tử Nghi dùng kế nghi binh, phô trương thanh thế, khiến quân Thổ Phiên cuối cùng phải rút lui. Quách Tử Nghi thu phục kinh thành Trường An lần thứ 2. Từ đó ông mới được sự tín nhiệm của Đường Đại Tông. Đại Tông xấu hổ thổ lộ sai lầm đã không sớm trọng dụng ông tiến sát đến Phụng Thiên. Trước thế mạnh của quân địch, vua Đại Tông lại sai Tử Nghi đi đánh. Quân Hồi Hột và Thổ Phiên nghe uy danh Tử Nghi đều sợ, tự rút lui về.

Tháng 9 năm 765, Bộc Cố Hoài Ân lại dẫn quân các bộ tộc Hồi Hột, Thổ Phiên, Đảng Hạng, nói dối họ là Quách Tử Nghi đã qua đời nên cùng nhau vào đánh nhà Đường. Các bộ tộc theo Hoài Ân tập hợp được 30 vạn quân tấn công. Kinh thành Trường An lại bị uy hiếp. Quách Tử Nghi đề nghị Đường Đại Tông điều quân các trấn về giữ, tự mình mang quân ra Kim Dương bảo vệ kinh thành.

Vừa đến Kim Dương, Tử Nghi bị 10 vạn quân Thổ Phiên và Hồi Hột đến bao vây. Ông vẫn bình tĩnh điều quân phòng thủ không vội giao tranh, chỉ sai người đi thăm dò tình hình địch. Không lâu sau Tử Nghi phát hiện ra giữa hai bộ tộc Hồi Hột và Thổ Phiên có rạn nứt, vì Bộc Cố Hoài Ân đột nhiên qua đời nên Thổ Phiên muốn đặt quân Hồi Hột dưới quyền thống lĩnh của mình. Chỉ huy quân Hồi Hột là Dược Cát La em Khả Hãn Hoài Nhân, sợ bị quân Thổ Phiên thôn tính nên dẫn quân từ phía bắc đến phía tây thành. Tử Nghi nhân đó sai Lý Quang Toán sang bên quân Hồi Hột thuyết phục, nhắc lại việc hợp tác đánh An Khánh Tự và đề nghị cùng đánh Thổ Phiên.

Dược Cát La ngạc nhiên vì Tử Nghi còn sống, đề nghị được gặp ông. Quang Toán về báo lại, Tử Nghi bèn thân hành đi gặp Cát La, dù nhiều người, trong đó có con trai ông là Quách Hy can ngăn là mạo hiểm. Trước sự ngăn cản gay gắt của Quách Hy, Tử Nghi sai người trói Hy lại rồi chỉ mang theo vài tùy tùng sang trại Dược Cát La. Khi ông đến gần doanh trại quân Hồi Hột, Dược Cát La vẫn nghi hoặc, sợ ông có viện binh nên sai quân giương cung cầm giáo. Tử Nghi bèn tự mình bỏ áo giáp, cởi mũ sắt và buông giáo xuống ngựa đi vào. Dược Cát La nhận ra đúng là Tử Nghi, cùng các tù trưởng ra đón, tỏ thái độ rất kính phục.

Nghe theo lời dụ của Tử Nghi, Hồi Hột đồng tình trở giáo đánh lại Thổ Phiên. Thổ Phiên nghe tin Hồi Hột ngả theo nhà Đường, bèn nhân lúc đêm tối dẫn quân chạy về phía tây. Quách Tử Nghi bèn sai Bạch Vân Quang mang quân cùng Dược Cát La truy kích. Tự ông lĩnh đại quân tiến sau. Liên quân Đường - Hồi Hột đuổi quân Thổ Phiên đến Xích Sơn Tây Nguyên, Linh Đài, đánh bại quân địch, chém 5 vạn quân, bắt hơn 1 vạn tù binh và hàng vạn súc vật, cứu hơn 4000 thợ thủ công và phụ nữ bị quân Thổ Phiên bắt đi.

Các cánh quân bộ tộc khác nghe tin Thổ Phiên bị đánh bại bèn rút lui.

Sang năm 767, Thổ Phiên vẫn quấy nhiễu biên giới nhà Đường. Quách Tử Nghi giữ chức Phó nguyên soái, đóng quân ở Hà Trung và Mân Châu, lãnh trách nhiệm phòng thủ khiến quân địch không vào được.

Qua đời

Năm 767, Ngư Triều Ân đố kỵ Quách Tử Nghi, khi ông cầm quân ở ngoài đã sai kẻ vô lại đi phá mộ cha Tử Nghi. Vua Đại Tông lo lắng Tử Nghi sẽ bất mãn làm phản, nhưng Tử Nghi về triều tâu về trấn an vua Đại Tông, Đại Tông mới yên tâm.

Năm 779, Đường Đại Tông chết. Thái tử Lý Quát lên ngôi Hoàng đế, tức Đường Đức Tông. Đức Tông thấy ông tuổi đã cao bèn triệu ông về triều, phong làm Thành Sơn lăng sứ, tước hiệu là Thượng phụ (尚父), chức Thái úy, Trung thư lệnh. Năm đó ông đã 83 tuổi.

Năm 781, tức năm Kiến Trung thứ 3 thời Đường Đức Tông, Thượng phụ Quách Tử Nghi qua đời, thọ 85 tuổi. Ông kết thúc sự nghiệp trọn vẹn, mang tước Phần Dương quận vương (汾陽郡王), cả nhà vinh hiển được phong tước vị sang trọng. Gia đình có ngũ đại đồng đường, con trai có nhiều người làm Phò mã, con gái nhiều người lấy hoàng tử, rất quý hiển đương thời. Trong đó Ý An hoàng hậu là cháu gái của ông, con gái của Phò mã Quách Ái, người đã cưới Thăng Bình công chúa - con gái Đường Đại Tông.

Ông được người đời sau tôn làm Ông Đa Phúc trong ba ông Phúc Lộc Thọ.

Nhận định

Quách Tử Nghi nhiều năm chinh chiến, lập được nhiều công lao với nhà Đường nhưng trước sau nhất mực trung thành với triều đình, không tỏ ra kiêu ngạo cậy công. Sau loạn An Sử, nhiều Tiết độ sứ ly khai nhà Đường, nhưng ông được cầm cánh quân lớn vẫn không hai lòng; bị thưởng phạt bất công nhưng không tỏ ý bất mãn. Ông quản lý quân đội rộng lượng, khiến tướng sĩ hết lòng vì mình. Quách Tử Nghi trở thành công thần có được kết cục trọn vẹn ít có trong lịch sử Trung Quốc.

Sử sách nhận định về ông như sau: :Công trùm trời đất mà chủ không nghi, địa vị vượt muôn người mà không ai đố kỵ

Gia đình

Chân dung Quách Tử Nghi *Thê thiếp: Hoắc Quốc phu nhân Vương thị (霍国夫人王氏), người Vạn Niên, Kinh Triệu, là con gái Đại đô đốc Cổn Châu Vương Thủ Nhất. Ban đầu phong Lang Da huyện quân (琅琊县君), sau thăng Thái Nguyên quận quân (太原郡君) rồi Quốc phu nhân. Lương Quốc phu nhân Lý thị (凉国夫人李氏), người Nhạc Đô, Thiện Châu. Nam Dương phu nhân Trương thị (南阳夫人张氏). Kính Tiết phu nhân Hàn thị (劲节夫人韩氏). ** Thị thiếp Triệu thị (赵氏).

  • Con trai: đến 6 người là do Vương thị sinh ra. Quách Diệu (郭曜), từng nhậm Khai Dương phủ Quả Nghị đô úy, cùng Quách Tử Nghi bình định loạn An Sử, nhậm Vệ úy khanh, Thái tử Chiêm sự, Thái tử Thiếu bảo, tước Thái Nguyên Quận công (太原郡公), sau tập phong tước Đại Quốc công (代国公) của cha. Mất năm Kiến Trung thứ 4 (783) thời Đường Đức Tông, thụy hiệu Hiếu (孝). *Quách Phong (郭锋) Quách Cán (郭旰), chết trong loạn An Sử. *Quách Hi (郭晞), cùng Quách Tử Nghi thu phục lưỡng kinh, công lao to nên nhậm Hồng Lư khanh, Điện trung giám, Kiểm giáo Công bộ Thượng thư kiêm Thái tử Tân khách, tước Triệu quốc công (赵国公). Mất năm Trinh Nguyên thứ 10 (794) đời Đường Đức Tông, tặng Thượng thư Binh bộ. Quách Cương (郭钢), nhậm Sóc phương Tiết độ sứ, phụ tá của Đỗ Hi Toàn (杜希全) Quách Quân (郭钧). Quách Phách (郭昢), không có truyện. Quách Ái (郭曖), cưới Thăng Bình công chúa, con gái của Đường Đại Tông. Từng nhậm Điện trung giám, Kiểm giáo Tản tá kị Thường thị, Thái thường khanh, tước Quảng Dương Huyện nam (广阳县男), sau cải thành Thanh Nguyên Huyện hầu (清源县侯), rồi tập phong Đại quốc công (代国公) tước vị. Mất năm Trinh Nguyên thứ 16 (800), tặng Thượng thư Tả phó xạ, sau thăng Thái phó. Ông là cha của Ý An hoàng hậu Quách thị, chính thê của Đường Hiến Tông. Quách Chú (郭铸), tập phong Đại Quốc công (代国公). Quách Chiêu (郭钊), nhậm Tả kim ngô Đại tướng quân, Kiểm giáo Công bộ Thượng thư, Mân Ninh Tiết độ sứ, Tư nông khanh, Hà Dương tam thành Tiết độ sứ, Hà Trung doãn, Binh bộ Thượng thư. Quách Tung (郭鏦), cưới con gái Đường Thuận Tông, Hán Dương Công chúa, nhậm Kiểm giáo Quốc tử Tế tửu, Hữu kim ngô Tướng quân, Thái tử Chiêm sự, Nhàn cứu Cung uyển sứ, phong Thái Nguyên Quận công (太原郡公), truy tặng Thượng thư Tả phó xạ. *Quách Tiêm (郭銛), cưới con gái Đường Thuận Tông, Tây Hà Công chúa, nhậm Điện trung giám, Thái tử Chiêm sự, Nhàn cứu Cung uyển sứ. Quách Ngộ (郭晤), không có truyện. Quách Thự (郭曙), nhậm Tư Nông thiếu khanh, sau có công dẹp Chu Thử nên phong Tả Kim ngô vệ Đại tướng quân, tước Kỳ quốc công (祁国公). *Quách Ánh (郭映), làm chức Thái tử Tả dụ đức. Con gái: Trưởng nữ, lấy Thành Đô huyện lệnh Lư Nhượng Kim (卢让金). Nhị nữ, lấy Ngạc Châu quan sát sứ Ngô Trọng Phụ (吴仲孺). Tam nữ, lấy Vệ úy khanh Trương Tuấn (张浚). Tứ nữ, lấy Điện trung thiếu giám Lý Đổng Thanh (李洞清). Ngũ nữ, lấy Tư môn Lang trung Trịnh Hồn (郑浑). Lục nữ, lấy Phần Châu biệt giá Trương Ung (张邕). Thất nữ, lấy Hòa Châu thứ sử Triệu Túng (赵纵). **Bát nữ, lấy Thái thường tự thừa Vương Tể (王宰).
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quách Tử Nghi** (chữ Hán: 郭子儀; 5 tháng 9, 697 – 9 tháng 7, 781), là một danh tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ dưới 4 đời Hoàng đế nhà
**Quách Tĩnh** còn gọi là **Quách Tịnh**, **Quách Tỉnh** (tiếng Trung: 郭靖, bính âm: _Guō Jìng_) là nhân vật chính trong tiểu thuyết _Anh hùng xạ điêu_ của Kim Dung. Quách Tĩnh cũng là nhân
**Quách Mạt Nhược** (郭沫若; 16 tháng 11 năm 1892 - 12 tháng 6 năm 1978) là một kịch tác gia, thi sĩ, phê bình gia, sử gia, kí giả kiêm chính khách Trung Quốc, Phó
**Quách** là một họ của người thuộc vùng Văn hóa Đông Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, Triều Tiên (Hangul: 곽, Romaja quốc ngữ: Gwak), Nhật Bản (Kanji: 郭, Romaji: Kaku) và Trung
**Quách Bảo Ngọc** (chữ Hán: 郭宝玉, ? – ?), tên tự là **Ngọc Thần**, người huyện Trịnh, Hoa Châu , là một trong 4 tướng lĩnh người dân tộc Hán đầu tiên của Đế quốc
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Quách Gia** (chữ Hán: 郭嘉; 170 - 207), tự **Phụng Hiếu** (奉孝), là một nhà chiến lược và mưu sĩ trọng yếu của Tào Tháo trong thời kỳ cuối của nhà Đông Hán và thời
**Sử Tư Minh** (chữ Hán: 史思明; 703-761) là một viên tướng của nhà Đường và là người cùng An Lộc Sơn cầm đầu loạn An Sử nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc giữa thế
**Quách Đức Hải** (chữ Hán: 郭德海, ? – 1234), tự **Đại Dương**, người huyện Trịnh, Hoa Châu , tướng lãnh người dân tộc Hán của Đế quốc Mông Cổ. ## Xuất thân Đức Hải là
**Quách Khản** (chữ Hán: 郭侃, 1217 – 1277), tên tự là **Trọng Hòa**, người huyện Trịnh, Hoa Châu , là tướng lĩnh người dân tộc Hán, từng tham gia cuộc tây chinh thứ ba của
**An Khánh Tự** (chữ Hán: 安慶緒; 723 - 10 tháng 4, 759) là vị Hoàng đế thứ hai của chính quyền Đại Yên, thường được sử sách gọi là loạn An Sử, chống lại nhà
**Trương Tú** (chữ Hán: 張繡; ?-207) là tướng lĩnh quân phiệt thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Theo Trương Tế Trương Tú sinh tại Tổ Lệ (祖厲), là cháu gọi Phiêu kỵ
**Trang Tử** (chữ Hán: 莊子; 369—286 TCN), có tên là **Mông Lại** (蒙吏), **Mông Trang** (蒙莊) hay **Mông Tẩu** (蒙叟), là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là **Trang
**Lưu Nghị** (, ? – 412), tự **Hi Nhạc**, tên lúc nhỏ là **Bàn Long**, người huyện Bái, nước (quận) Bái , tướng lĩnh Bắc phủ binh nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
**Điền Thừa Tự** (chữ Hán: 田承嗣, bính âm Tian Chengsi, 705 - tháng 3 năm 779), tên tự là **Thừa Tự** (承嗣), tước vị **Nhạn Môn vương** (雁門王), người Bình châu, Lư Long, là Tiết
**Án văn tự đầu đời Minh** hay **Ngục văn tự đời Minh** là tên chung dùng để chỉ những vụ án do chữ nghĩa mà ra, ngay sau khi nhà Minh được thành lập ở
**Từ Hoảng** (chữ Hán: 徐晃; bính âm: _Xu Huang_; (169-228), tự **Công Minh** (公明), là danh tướng nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trong đời binh nghiệp, Từ Hoảng thể
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
**Quách Thủ Kính** (, 1231–1316), tên chữ Nhược Tư (若思) là một nhà thiên văn học, kỹ sư thủy lợi, nhà toán học và chính trị gia người Trung Quốc, sống vào thời nhà Nguyên
là tiết độ sứ Sóc Phương dưới triều nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ban đầu, Lý Hoài Quang là thuộc tướng dưới quyền đại tướng quân Quách Tử Nghi. Sau khi Quách Tử
**Ngư Triều Ân** (chữ Hán: 魚朝恩; 722-770) là hoạn quan nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông dự triều chính từ thời Đường Huyền Tông đến thời Đường Đức Tông và tham gia dẹp
**Bàn thành tứ hữu** tức _Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn_, hay còn gọi là **Nhóm thơ Bình Định**, là một nhóm thơ đã phát sinh và tồn tại trên đất Bình Định từ
**Quách Đàm** (phồn thể: 郭琰 bính âm Hán ngữ: Guō Yǎn; 1863-1927) là một thương gia giàu có, và là người có công xây dựng nên chợ Bình Tây; nay thuộc quận 6, Thành phố
**Quách Xuân Kỳ** (1926 - 11 tháng 07 năm 1949) là một chiến sĩ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chiến đấu và hi sinh trong Chiến tranh Việt Nam. ## Thân thế và
**Quách Phù** (tiếng Trung: 郭芙, bính âm: _Guō Fú_) là nhân vật trong tiểu thuyết võ hiệp _Thần điêu hiệp lữ_ của Kim Dung. Quách Phù có một xuất thân không thể tuyệt vời hơn,
**Quách Đồ** (chữ Hán: 郭圖; ? – 205), tự là **Công Tắc** (公則), người Dĩnh Xuyên, là một mưu sĩ của quân phiệt Viên Thiệu vào cuối thời Đông Hán. ## Hành trạng ### Thuộc
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Quách Tùng Khiêm** (; ? – 927), nghệ danh **Quách Môn Cao** (郭門高), là tướng lĩnh nhà Hậu Đường thời Ngũ Đại trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Quách Tùng Khiêm vốn là
**Quách Chính Cương** (; sinh tháng 1 năm 1970) là cựu sĩ quan quân đội mang hàm Thiếu tướng của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (_PLA_). Sau 46 ngày được thăng quân hàm
**Quách Thị Lan Phương** (sinh năm 1977 tại Hòa Bình), thường được biết đến với nghệ danh **Quách Thu Phương**, là một nữ diễn viên người Việt Nam. Cô được biết đến qua những vai
**Quách Huy Hoàng** là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Cục trưởng Cục Quản lý xuất nhập cảnh, Bộ Công an Việt Nam. ## Tiểu sử Quách Huy
thumb|Nhan Chân Khanh **Nhan Chân Khanh** (, 709–785) là một nhà thư pháp Trung Quốc hàng đầu và là một vị quan thái thú trung thành của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Do
**Từ Tài Hậu** (tiếng Trung Quốc giản thể: 徐才厚, bính âm: _Xú Cáihòu_; 1943 – 2015 Từ Tài Hậu được cho là có mối quan hệ thân thiết với Giang Trạch Dân, cựu tổng bí
**Quách Tuyền** (chữ Hán:郭泉, bính âm: Guō Quán) (sinh 1968) là một nhà hoạt động dân chủ và nhân quyền của Trung Quốc. Ông thành lập đảng Tân Dân chủ Trung Quốc. Ông là một
**Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc** (), viết tắt **Chính Hiệp Toàn quốc** () hoặc **Ủy ban Toàn quốc Chính Hiệp** (), là tổ chức cấp quốc
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Tư Mã Chiêu** (chữ Hán: 司馬昭; 211 – 6 tháng 9, 265), biểu tự **Tử Thượng** (子上), là một chính trị gia, quân sự gia, một quyền thần trứ danh thời kì cuối của nhà
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
**Tao Đàn nhị thập bát tú** (騷壇二十八秀) hoặc **Hội thơ** **Tao Đàn** là tên gọi của hậu thế cho hội xướng họa thi ca mà Hoàng đế Lê Thánh Tông sáng lập vào năm 1495
**Nguyễn Trọng Trí**, thường được biết đến với bút danh **Hàn Mặc Tử** hay **Hàn Mạc Tử** (22 tháng 9 năm 1912 – 11 tháng 11 năm 1940), là một nhà thơ người Việt Nam.
**Hoàng tử Ba Tư** (tiếng Anh: **Prince of Persia**, thường được viết tắt là _PoP_) là trò chơi hành động trên máy tính dành cho một người chơi. Nhiệm vụ của người chơi là điều
**Trần Nhật Duật** (chữ Hán: 陳日燏, 1255 – 1330), được biết qua tước hiệu **Chiêu Văn vương** (昭文王) hay **Chiêu Văn đại vương** (昭文大王), là một nhà chính trị, quân sự Đại Việt thời Trần.
**Vương Hành Du** (王行瑜, ? - 895) là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường, kiểm soát Tĩnh Nan từ năm 887 cho đến khi qua đời vào năm 895. Ở thời điểm đỉnh
**Tôn Tư Khắc** (chữ Hán: 孫思克, 1628 – 1700), tên tự là **Tẫn Thần** (藎臣), hiệu là **Phục Trai** (復齋), thuộc Hán quân Chính Bạch kỳ, nguyên quán Quảng Ninh, Liêu Ninh , con trai
nhỏ|267x267px|Tờ 53 chép 2 bài thơ cuối kèm cặp số biểu thị ngày tháng năm là 29/8/1942 - 10/9/1943 bên trên chữ "Hoàn". nhỏ|267x267px|Tờ đầu mục đọc sách (độc thư lan).|thế= nhỏ|265x265px|Tờ đầu mục đọc
**Lý Tự Thành** (李自成) (1606-1645) nguyên danh là **Hồng Cơ** (鴻基), là nhân vật thời _"Minh mạt Thanh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa và cuộc đời của Lý Tự Thành gắn
**Chiến Quốc tứ công tử** (chữ Hán: 战国四公子) là bốn vị công tử nổi tiếng trong các nước chư hầu Sơn Đông thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Hoạt động của cả bốn
**Tứ Xuyên** () là một tỉnh nằm ở tây nam của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tỉnh lị của Tứ Xuyên là Thành Đô, một trung tâm kinh tế trọng yếu của miền Tây
**Doãn Tự** (chữ Mãn: , âm Mãn: Yvn Syʼ, chữ Hán: 允禩, bính âm: Yūn Sy; 29 tháng 3 năm 1681 - 5 tháng 10 năm 1726), là Hoàng tử thứ 8 tính trong số