Vương Thừa Tông (chữ Hán: 王承宗, bính âm: Wang Chengzong, 788 - 820), là Tiết độ sứ Thành Đức dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi kế nhiệm cha là Vương Sĩ Chân năm 809, ông hứa cắt đất hai châu Đức, Lệ để đổi lấy sự công nhận của nhà Đường, nhưng về sau không thực hiện, dẫn đến cuộc chiến tranh kéo dài hơn một năm (809 - 810) nhưng chưa phân thắng thua. Đến năm 815, do Vương Thừa Tông viện trợ quân sự cho các tiết độ sứ chống nhà Đường ở Bình Lư và Chương Nghĩa, triều đình tiến hành cuộc thảo phạt lần thứ hai đối với Thành Đức, cuối cùng buộc ông phải đồng ý thần phục năm 818, sau thất bại của Ngô Nguyên Tế ở Chương Nghĩa. Do quá lo lắng trước sự lớn mạnh của quân triều đình, Vương Thừa Tông sớm mắc bệnh và qua đời năm 820. Người em trai của ông là Vương Thừa Nguyên từ chối kế nhiệm, kết thúc 38 năm cai trị của họ Vương ở Thành Đức.
Thân thế và thời trẻ
Vương Thừa Tông chào đời năm 788 dưới thời vua Đức Tông nhà Đường (779 - 805). Ông là con trai trưởng của Vương Sĩ Chân, cháu đích tôn của tiết độ sứ lúc đó là Vương Vũ Tuấn, song không rõ mẫu thân của ông là ai. Lúc Vương Thừa Tông chào đời thì tổ phụ ông đã nắm quyền cai trị ở trấn Thành Đức được 6 năm, còn phụ thân ông đang giữ chức tiết độ phó sứ.
Năm 801, Vương Sĩ Chân lên kế nhiệm Vương Vũ Tuấn. Theo tục lệ của Hà Bắc tam trấn, Vương Thừa Tông với thân phận trưởng tử, được lĩnh chức tiết độ phó sứ, xem như nắm quyền kế nhiệm về sau. Trong thời gian cai trị của phụ thân, ngoài chức phó sứ, Vương Thừa Tông được ban các chức Trấn châu đại đô đốc phủ hữu tư mã, Tri quân châu sự, Ngự sử đại phu, Đô tri binh mã sử.... Ba quân ủng hộ Vương Thừa Tông làm Thành Đức lưu hậu. Không bao lâu sau đó, thúc phụ của Thừa Tông là Vương Sĩ Tắc thấy việc ông tự lập là trái phép, lo sợ sẽ Thừa Tông bị triều đình xử phạt thì liên lụy tới mình nên trốn khỏi đất Triệu và xin theo về với nhà Đường, được vua Đường Hiến Tông (805 - 820) phong làm Thần Sách đại tướng quân. Hiến Tông muốn phá bỏ chế độ cha truyền con nối ở Hà Bắc Lư Tòng thì thuộc phe chủ chiến, tranh nghị không dứt, Lệ dâng lên, xin được ở trấn''.
Tháng 9 ÂL, Bùi Vũ đem việc này tâu lên. Vua Hiến Tông bằng lòng, phong cho Vương Thừa Tông làm Ân Huy tướng quân, Tả Kim Ngô vệ đại tướng quân đồng chánh, Kiểm giáo Công bộ thượng thư, Trấn châu đại đô đốc phủ trưởng sử, Ngự sử đại phu, Thành Đức quân tiết độ sứ, Hằng Ký Thâm Triệu đẳng châu quan sát sứ. Lãnh thổ hai châu Đức, Lệ lập thành trấn Bảo Tín do Tiết Xương Triều (con rể của Vương Vũ Tuấn, con trai cố tiết độ sứ Chiêu Nghĩa Tiết Tung) cai quản.
Tiết độ sứ Ngụy Bác Điền Quý An sai người nhắn với Vương Thừa Tông rằng Tiết Xương Triều đã bí mật câu kết với triều đình để được lãnh tiết việt. Thừa Tông giận, sai 100 kị binh đến bắt Xương Triều giải về giam ở Chân Định. Hiến Tông được tin tức giận, sai trung sứ Cảnh Trung Tín đến Thành Đức yêu cầu ông thả Tiết Xương Triều nhưng ông không nghe. Nhà Vua tức giận, hạ chiếu tước hết quan tước của Vương Thừa Tông và cử quân thảo phạt, Hà Trung, Chấn Vũ và Nghĩa Vũ cùng tấn công Thành Đức từ phía bắc, trong khi quân của Thổ Đột Thừa Thôi tấn công từ phía nam. Tiết độ sứ Lư Long là Lưu Tế cũng chỉ huy một đội quân tấn công từ phía đông. Tuy nhiên quân các trấn không phục Thổ Đột Thừa Thôi cầm quân, do đó lực lượng triều đình thiếu sự đoàn kết. Tinh thần của quân triều đình còn xuống thấp hơn sau khi tướng Lý Định Tiến bị chết trận đầu năm 810. Hai người đều sai sứ đến triều đình nhà Đường xin Nhà Vua ân xá cho Ngô Nguyên Tế, song không được chấp thuận. Đáp lại, Lý Sư Đạo cử quân hỗ trợ Ngô Nguyên Tế tập kích lực lượng triều đình đóng ở xung quanh thành Lạc Dương. Vương Thừa Tông sai sứ giả là Doãn Thiếu Khanh đến Trường An xin phong tiết việt cho Ngô Nguyên Tế, nhưng Thiếu Khanh lại bày tỏ thái độ không tôn trọng đối với các tể tướng nên bị tể tướng Võ Nguyên Hoành nên bị đuổi khỏi trung thư. Vương Thừa Tông biết chuyện này, liền dâng sớ lên nhà vua, bới móc những việc xấu của Nguyên Hoành, tỏ ra tuân phục triều đình. Vương Thừa Tông nhiều lần cho quân cướp phá Ngụy Bác, khiến Điền Hoằng Chánh rất tức giận, xin triều đình cho mình dẫn quân tấn công Thành Đức. Vua Hiến Tông, chiến dịch chống Thành Đức lần thứ hai dưới thời Nguyên Hòa bắt đầu. Về sau tiết độ sứ Nghĩa Vũ Hồn Hạo đem quân đánh Thành Đức giành nhiều chiến thắng nên cho tiến vào sâu hơn, đóng quân cách Hằng châu chỉ còn 30 dặm. Vương Thừa Tông bí mật sai quân thâm nhập địa phận Nghĩa Vũ cướp phá các thành ấp khiến Hồn Hạo lo lắng và dao động. Do đó khi đem quân giao chiến trận tiếp theo trong địa phận Hằng châu, Hồn Hạo bị quân Triệu đánh tan tác, Hạo bỏ trốn và Định châu. Triều đình có chiếu lấy thứ sử Dịch châu Trần Sở thay Hạo làm tiết độ sứ Nghĩa Vũ. Quân trung nghe được kéo đến cướp phá nhà Hạo, lấy cả y phục của gia thần khiến họ lỏa lồ. Trần Sở vào Định châu, ra sức trấn áp được và sai quân hộ tống Hồn Hạo và Trường An. Nhưng Thừa Nguyên nhất quyết không chịu nhận. Nhưng Vương Thừa Nguyên vốn không muốn nhận chức Tiết độ sứ, lại bị tướng sĩ ép buộc, đành tạm nhận lời, rồi sai sứ đến triều đình bảy tỏ lòng trung thành và xin từ chức. Đáp lại, vua Mục Tông quyết định phong cho Tiết độ sứ Ngụy Bác Điền Hoằng Chánh đến đảm nhận chức Tiết độ sứ ở Thành Đức, dời Vương Thừa Nguyên đến trấn Nghĩa Thành, trấn Ngụy Bác do Lý Tố tiếp quản. Sau đó Vương Thừa Nguyên vâng mệnh rời trấn, chư tướng cố giữ lại nhưng không được đành phải chấp nhận. Họ Vương kể từ khi Vương Vũ Tuấn giết Lý Duy Nhạc năm 782 đến Vương Thừa Nguyên rời trấn năm 820, cai trị Thành Đức được 38 năm. Điền Hoằng Chánh trở thành tiết độ sứ, bắt đầu thời kì loạn lạc mới ở Thành Đức nói riêng và Hà Bắc tam trấn nói chung.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Thừa Tông** (chữ Hán: 王承宗, bính âm: Wang Chengzong, 788 - 820), là Tiết độ sứ Thành Đức dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi kế nhiệm cha là Vương
**Vương Sĩ Chân** (chữ Hán: 王士真, bính âm: Wang Shizhen, 759 - 809), thụy hiệu **Thanh Hà Cảnh Tương vương** (清河景襄王), là Tiết độ sứ Thành Đức dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung
**Vương Phủ (王黼)** (Năm 1079~năm 1126), tự **Thương Minh(將明)**, quê ở Tường Phù ở Khai Phong (nay là Khai Phong, Hà Nam ) thời Bắc Tống, một nhân vật chính trị cuối thời Bắc Tống,
**Vương Thừa Ân** (王承恩; sinh ngày 19 tháng 3 - mất ngày 25 tháng 4 năm 1644) là một hoạn quan sống vào cuối triều Minh, là người hầu cận trung thành của Minh Tư
**Vương Thừa Vũ** (21 tháng 12 năm 1910 – 10 tháng 9 năm 1980), tên thật là **Nguyễn Văn Đồi**, là một Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là chỉ huy trưởng
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
nhỏ|315x315px|Di Đoan Thân vương [[Tái Đôn - Di Thân vương đời thứ 8|thế=]] phải|nhỏ|308x308px|Phổ Tĩnh **Hòa Thạc Di Thân vương** (Chữ Hán: 和碩怡親王, ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh
nhỏ|Đa Đạc - thủy tổ của Dự vương phủ **Hoà Thạc Dự Thân vương** (chữ Hán: 和碩豫親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Do
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Lý Khác** (chữ Hán: 李恪; 619 - 10 tháng 3, 653), thông gọi **Ngô vương Khác** (吴王恪), biểu tự **Khư** (厶), là một thân vương và tướng lĩnh thời nhà Đường. Ông là hoàng tử
thumb|[[Đa Nhĩ Cổn - thủy tổ của Duệ vương phủ.]] **Hòa Thạc Duệ Thân vương** (chữ Hán: 和碩睿親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
**Lý Anh Tông** (chữ Hán: 李英宗 tháng 4 năm 1136 - 14 tháng 8 năm 1175) là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1138
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
thumb|[[Túc Thuận - một trong Cố mệnh Bát đại thần, là một thành viên của Trịnh vương phủ.]] **Hòa Thạc Trịnh Thân vương** (chữ Hán: 和碩鄭親王; , ), là tước vị Thân vương thế tập
nhỏ|Hào Cách - thủy tổ của Túc vương phủ **Hòa Thạc Túc Thân vương** (chữ Hán: 和碩肅親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
nhỏ|Lễ Liệt Thân vương [[Đại Thiện]] **Hòa Thạc Lễ Thân vương** (chữ Hán:和碩禮親王, ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Do được ban ân con
**Đa La Khắc Cần Quận vương** (chữ Hán: 多羅克勤郡王, ) là tước vị Quận vương thế tập truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Do được ban ân con cháu tập tước
**Chế độ quân chủ Vương quốc Liên hiệp**, thường được gọi chế độ **quân chủ Anh**, là chế độ quân chủ lập hiến của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và Lãnh thổ
**Vương Nguyên Quỳ** (chữ Hán: 王元逵, bính âm: Wang Yuankui, 812 - 854 hay 857), thụy hiệu **Thái Nguyên Trung công** (太原忠公) là Tiết độ sứ Thành Đức dưới thời nhà Đường trong lịch sử
**Triều Tiên Định Tông** (chữ Hán: 朝鮮定宗; Hangul: 조선 정종; 1357 - 1419), là vị quân chủ thứ hai của triều đại Nhà Triều Tiên. Ông cai trị từ năm 1398 đến khi thiện nhượng
**Võ Tòng** (chữ Hán: 武松; bính âm: _Wǔ Sōng,_ **Võ Tùng** hay **Vũ Tùng**), ngoại hiệu _Hành giả_, là một nhân vật trong tiểu thuyết _Thủy hử_. Võ Tòng cũng xuất hiện trong _Kim Bình
**Lưu Tổng** (chữ Hán: 劉總, bính âm: Liu Zong, ? - 2 tháng 5 năm 821), pháp hiệu **Đại Giác** (大覺), tước hiệu **Sở công** (楚公), là Tiết độ sứ Lư Long dưới thời nhà
**Tông Trạch** (chữ Hán: 宗泽, 1060 – 1128), tên tự là **Nhữ Lâm**, người Nghĩa Ô, Chiết Giang, nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất trong cuộc đấu tranh kháng Kim cuối Bắc Tống,
thumb|Vòng cổ dành cho các Tòng nam tước của [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, biểu tịh Bàn tay đỏ của Ulster.]] **Tòng nam tước** (tiếng Anh: _Baronet_; hoặc ; viết tắt **Bart**
**Đoan Nam Vương** **Trịnh Tông** (chữ Hán: 鄭棕; 10 tháng 10 năm 1763 - 23 tháng 7 năm 1786), còn có tên khác là **Trịnh Khải** (鄭楷) là vị chúa Trịnh thứ 10 thời Lê
**Tống Tương công** (chữ Hán: 宋襄公, ? - 637 TCN), tên thật là **Tử Tư Phủ** (子茲甫), là vị quân chủ thứ 20 của nước Tống - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Tào Động tông** (zh. 曹洞宗 _cáo-dòng-zōng_, ja. _sōtō-shū_) là một trong năm Thiền phái của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương
**Vương Song** (chữ Hán: 王雙, bính âm: Wang Shuang; mất 228) tự là **Tử Toàn** (子全), là một vị tướng lĩnh của nhà Tào Ngụy trong thời kỳ Tam Quốc của lịch sử Trung Quốc.
**Vương hậu Vu thị** (; mất năm 234), là một vương hậu của triều đại Cao Câu Ly. Bà giữ ngôi vương hậu tổng cộng hai lần, là phối ngẫu qua hai đời vua Cao
**Lâm Tế tông** (zh. _línjì-zōng/lin-chi tsung_ 臨濟宗, ja. _rinzai-shū_) là một dòng thiền được liệt vào Ngũ gia thất tông—tức là Thiền chính phái—do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập. Đây là tông
nhỏ|Thiền sư [[Vân Môn Văn Yển, tổ sáng lập Vân Môn tông.|229x229px]] **Vân Môn tông** (zh. 雲門宗, ja. _Unmon-shū_) là một thiền phái thuộc Ngũ gia thất tông - Thiền tông Trung Quốc, do Thiền
**Tống Giang** (chữ Hán: 宋江), tự Công Minh (公明) , là một nhân vật có thật sống vào thế kỷ 12 dưới triều Tống ở Trung Quốc. Tuy nhiên, cuộc đời thật của ông chỉ
Dưới đây là danh sách các phiên vương thời nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Trong trường hợp một chư hầu quốc bị trừ bỏ vì các lý do như mưu phản, phạm tội,
**Hiếu Huệ Hạ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠賀皇后, 929 - 958), là nguyên phối thê tử của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn, Hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Tống trong lịch sử
**Tổng quản đại thần** (tiếng Anh: Lord High Steward) là một Quốc vụ trọng thần vị trí thứ nhất ở Anh, về danh nghĩa có cấp bậc cao hơn Ngài Đại Chưởng ấn. Chức vụ
**Kinh Dương Vương** (chữ Hán: 涇陽王, 2919 TCN - 2792 TCN) là nhân vật truyền thuyết, ông và Đế Nghi là con trai của Đế Minh, cháu nội của Đế Thừa, cháu 3 đời của
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Vương Diễn** () (899-926), nguyên danh **Vương Tông Diễn** (), tên tự **Hóa Nguyên** (化源), cũng được gọi là **Hậu Chủ**, là hoàng đế thứ hai và cuối cùng của nước Tiền Thục thời Ngũ
**Lý Thừa Càn** (chữ Hán: 李承乾; 619 - 5 tháng 1, năm 645), tự **Cao Minh** (高明), thụy hiệu là **Thường Sơn Mẫn vương** (恆山愍王), con trai trưởng của Đường Thái Tông Lý Thế Dân
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi