✨Mộng Lân (nhà Thanh)

Mộng Lân (nhà Thanh)

Mộng Lân (, chữ Hán: 梦麟, 1728 – 1758), tên tự là Văn Tử, tự khác là Thụy Chiêm, người thị tộc Tây Lỗ Đặc, dân tộc Mông Cổ, thuộc Mông Cổ Chính Bạch kỳ, là quan viên, nhà thơ thời nhà Thanh. Trong quá trình sáng tác, Mộng Lân sử dụng các tên hiệu Tạ Sơn, Ngọ Đường, Ngẫu Đường, Hỷ ĐườngĐại Cốc Sơn Nhân. Mộng Lân là người Mông Cổ đầu tiên làm quan khảo xét kỳ thi Hương của một tỉnh bên ngoài Bắc Kinh, và cũng là người Mông Cổ đầu tiên gia nhập Quân cơ xứ – cơ quan hạch tâm của chính quyền nhà Thanh .

Sự nghiệp chính trị

Quá trình thăng tiến

Cha Mộng Lân là Thượng thư Hiến Đức thời Ung Chính. Mộng Lân được sinh ra ở Thành Đô, trong thời gian Hiến Đức nhiệm chức Tứ Xuyên Tuần phủ. Lên 6 tuổi, Mộng Lân quay về Bắc Kinh cùng cha, khi Hiến Đức được nhận chức Công bộ Thượng thư.

Lên 17 tuổi, Mộng Lân trúng Cử nhân, sang năm trúng Tiến sĩ, được chọn làm Thứ cát sĩ thuộc Hàn Lâm viện; năm 21 tuổi, được thụ chức Kiểm thảo.

Năm Càn Long thứ 15 (1750), Mộng Lân được thăng làm Thị giảng Học sĩ, lại thăng làm Quốc tử giám Tế tửu, Đề đốc Hà Nam Học chính .

Năm thứ 16 (1751), được thụ chức Nội các Học sĩ .

Năm thứ 17 (1752), dân chúng huyện La Điền, tỉnh Hồ Bắc chiếm cứ trại Thiên Đường mưu khởi nghĩa, Mộng Lân cho rằng huyện Thương Thành, tỉnh Hà Nam gần La Điền, vội đến truy bắt, được triều đình khen ngợi. Mông Lân dâng sớ nói Thương Thành sông núi hiểm trở, xin thêm quân tuần xét, triều đình giao xuống cho Hà Nam Tuần phủ bàn bạc, vì thế được tăng thêm trăm lính trú thủ.

Năm thứ 18 (1753), Mộng Lân được thự chức Hộ bộ Thị lang, sung làm Giang Nam Hương thí khảo quan, sau đó chuyển sang làm Đề đốc Giang Tô Học chính.

Năm thứ 20 (1755), được thụ chức Công bộ Thị lang, trở về thì điều sang thự chức ở Binh bộ, kiêm Phó Đô thống Mông Cổ Tương Bạch kỳ.

Năm thứ 21 (1756), nhận mệnh làm Quân cơ xứ Học tập hành tẩu. Truyền thống gọi đại thần của Quân cơ xứ – nếu là người có tư lịch và danh vọng yếu kém – là “học tập hành tẩu”, bắt đầu từ Mộng Lân .

Tham gia trị thủy

Năm ấy, Hoàng Hà vỡ đê ở Tôn Gia tập (nay thuộc khu Đồng Sơn). Năm thứ 22 (1757), Hà Đạo Tổng đốc Bạch Chung Sơn tâu xin khơi Kinh Sơn Kiều hà (nay thuộc Từ Châu), triều đình mệnh cho Mộng Lân đi khám; sau khi xét rõ, ông thúc giục khởi công; xong việc, báo công . Càn Long nam tuần duyệt công trình đê Hoàng Hà, cho rằng Lục Đường hà trở xuống chứa nước lụt, các huyện Đào Nguyên (nay là Tứ Dương), Túc Thiên (nay là khu Túc Dự), Thanh Hà (nay là khu Hoài Âm) trũng thấp nên bị ngập, lệnh cho Mộng Lân khám sửa. Sau đó Mộng Lân tâu: “Lục Đường hà trên nhận Lạc Mã hồ, đến Thanh Hà chia đôi dòng, từ các đập Vũ Chướng, Nghĩa Trạch rót vào Triều hà rồi ra biển, dài hơn 300 dặm, dọc đường có vài mươi nơi ngập úng, đã lệnh cho nhanh chóng khơi thông đập đất nam, bắc. Còn đập đất Túc Thiên bị nước phá hỏng năm ngoái, cùng các nơi nứt vỡ, đều cần được xây sửa. Các huyện chứa nước, khơi 15 con ngòi, đặt 5 hàm động (cửa xả nước), xây 4 áp (tức thủy áp/đập có cửa cho thuyền bè qua lại), nhằm giãn bớt sức nước.” Việc đã xong, Mộng Lân lại tâu: “Đường sông Kinh Hà Kiều đi quan 4 châu huyện Đồng, Bái, Bi, Tuy, chia đặt 4 tấn ; nước Hoàng Hà từ Đinh Gia Lâu (không rõ) rót vào Tô Gia áp (không rõ), Kinh Hà Kiều nên nhận lấy xung lượng ấy, cần lệnh cho đắp tường ngăn. Vi Sơn hồ đến hạ du của Kinh Hà Kiều hà là Vương Mẫu sơn (không rõ), quanh co khúc khuỷu, hằng năm sau khi sương giáng cần lệnh cho khơi thông. Cư dân ở nơi khúc khuỷu đắp đập ngăn nước để bắt cá, ở bến đò xếp đá làm nơi đặt chân, đều ngăn trở đường sông, cần lệnh cho nghiêm cấm.” Càn Long mệnh cho làm theo lời bàn này.

Sơn Đông Tuần phủ Hạc Niên tâu các châu huyện Kim Hương, Ngư Đài, Tế Ninh (nay là khu Thị Trung) có nguy cơ ngập lụt, triều đình mệnh cho Cừu Viết Tu cùng Mộng Lân đi đo đạc, hai người hợp nhau dâng sớ nói: “Các huyện đã bị ngập đã lâu bởi nước của Vi Sơn hồ, nên tính đường chia giảm sức nước. Y Gia hà ở phía nam Hàn Trang áp (đông nam Vi Sơn hồ) đến Lương Vượng thành (không rõ) đổ vào, nay dồn ứ đã lâu, nên khơi thông để dẫn nước chứa rót sang phía đông.” Triều đình nghe theo. Lưỡng Giang Tổng đốc Doãn Kế Thiện cho rằng đổ nước vào Nghi Thủy gây hại, tâu xin dựng Hồ khẩu áp (áp đặt ở cửa hồ), triều đình mệnh cho Mộng Lân cùng triều thần chia nhau xử lý yêu cầu của ông ta; mọi người hợp nhau dâng sớ nói: “Nghi Thủy từ Lư khẩu (không rõ) rẽ nhánh, gây mất ruộng dân, ngăn trở Vận hà. Nên xây đập ngăn chặn, không cho đổ nước vào, sẽ không trở ngại đường vào Hoàng Hà rồi ra biển của các hồ Vi Sơn. Lục Đường hà nằm ở hạ du của Lạc Mã hồ, là yếu đạo thoát nước của Nghi Thủy, các sông của Túc Thiên, Đào Nguyên từ Thuật hà vào Liên Thủy rồi ra biển, đều nên đào khơi cho thông suốt. Gồm cả việc khơi cửa ra của Lục Đường hà, sao cho không còn cản trở. Đây là đáp ứng nhu cầu đại khái của Nghi Thủy vậy. Các sông của Hạ Ấp, Vĩnh Thành từ Tuy hà rót xuống Hồng Trạch hồ, rời Thanh khẩu(không rõ) gặp Hoàng Hà rồi ra biển. Gần năm nay đường sông phần nhiều dồn ứ, Đổng Gia câu (không rõ) các nơi rất nên gấp sửa sang, gồm cả việc khơi cửa ra của Hồng Trạch hồ. Thanh khẩu dồn nước vào 2 đập, theo đó nên trừ bỏ. Những cửa ngõ của Áp cũng nên mở rộng. Đây là đáp ứng nhu cầu đại khái của Tuy hà vậy.” Sớ dâng lên, đế cho là họ nắm rất vững yếu lĩnh. Vì thế Mộng Lân được điều sang bộ Hộ, tham gia trực tiếp vào việc trị thủy. Mùa đông, việc xong, Mộng Lân quay về kinh sư.

Năm thứ 23 (1758), Mộng Lân được điều về bộ Công, thự chức Hàn Lâm viện Chưởng viện Học sĩ. Không lâu sau, Mộng Lân do lao lực thành bệnh mà mất, thọ 31 tuổi.

Sự nghiệp thơ ca

Trước tác đầu tiên Mộng Lân là Hành Dư đường thi, sau khi vào Hàn Lâm viện thì làm Hồng Lê trai tập, rồi đến Mộng Hỷ đường tập, tất cả được tập hợp và hiệu đính trong Đại Cốc sơn đường tập, có 6 quyển, 328 bài thơ, do Thẩm Đức Tiềm viết lời tự, xem bản không đầy đủ tại [http://ctext.org/library.pl?if=en&res=3930&remap=gb đây] .

Trong lời tự, Thẩm Đức Tiềm nói: “Nhạc phủ đẻ ra người Hán, ngũ ngôn nuốt chửng Tuyển thể , ngay cả giáng cách cũng gần với Vương Vi , thất ngôn rầm rập hào sảng theo lối Thái Bạch (tức Lý Bạch), trầm uất đình trệ theo lối Thiếu Lăng (tức Đỗ Phủ), ly kì hùng vĩ theo lối Xương Lê (Hàn Dũ), cận thể (tức Đường luật) cũng không rơi xuống thấp hơn thời Đại Lịch .” Nhìn chung, Mộng Lân có phong cách đa dạng, sở trường cổ thể, VD: Lục triều tùng thạch ca, Đăng Thanh Lương sơn tuyệt đính triển thiếu phóng ca, Yết đại miếu, Minh đường, Độ Giang vọng Kim Sơn phóng ca, Mộng du Phiếu Miểu phong ca, Đăng Trường Kiền phù đồ tuyệt đính phóng ca,... nhưng cận thể cũng có bài hay, VD: Tiểu quỹ tiêu dăng luận cẩn Man sư xuất nhất thủ có câu: (dịch âm) “Nhật xuất đại kỳ cao, sương đằng vạn mã hào. Lôi đình triêu phục lũy, cổ giác họa minh đao.Tự mã thượng vọng Bàn sơn: (dịch âm) “Tích khí bàn không thự sắc khai, đan bình thúy cái uất thôi ngôi. Long quy vụ thất đông cam giản, phong khởi lôi bôn vũ kiếm thai. Bán lĩnh bạch phong vân tự đái, thượng phương mặc điểm hải như bôi. Huyền tri tuyệt đính bế quan khách, mục cực kiền sao phất địa lai.

Về nội dung, Mộng Lân có chủ đề phong phú: tống biệt, VD: Tống Hà Tây Lam xuất thủ Lương Châu; tự sự, VD: Viên cư hạ dạ, Xí dụ ca,... tả cảnh, VD: Du đài hành, Tòng yết Cảnh lăng, Thang Âm nhạc Trung Vũ từ, Đăng Yến Tử ki khoáng vọng Đại Giang,... Nhưng thành tựu đáng kể nhất của Mộng Lân lại thuộc về những bài thơ có chủ đề “thủy tai”, trong giai đoạn vài năm ngắn ngủi ông nhận trách nhiệm đốc biện trị thủy cho đến khi mất.

Mộng Lân sinh ra trong một gia đình quan hoạn trung lưu, bản thân lại thiếu niên đắc chí, hoạn lộ hanh thông: sớm đỗ đạt, thăng tiến đều đặn và giành được chính tích đáng kể (là người Mông Cổ lại được làm quan khảo thí ở bên ngoài Bắc Kinh, lại là khu vực có trình độ học vấn khá cao như Giang Nam); vì thế tác phẩm của ông trong giai đoạn đầu (thực ra là phần lớn cuộc đời, vì ông mất sớm) không có nhiều ý nghĩa hiện thực. Trên bước đường bôn ba trị thủy, tư tưởng và nội hàm của Mộng Lân thay đổi mạnh mẽ, đặc biệt là những bài thơ sử dụng thủ pháp bạch miêu, vừa đơn giản vừa chân thật, phục dựng thảm trạng nhà tan người mất trong thiên tai ngay trước mắt người đọc. VD: Dư nhân khốc (Người khiêng kiệu khóc) có câu: (dịch nghĩa) “Ra cửa chẳng mấy ngày, nghe nói nhà gặp lũ, vợ chìm trong tiếng nước, lăn lộn theo con sóng, vốn có nửa gian nhà, đến nay ngập trong bùn.Thấm hà trướng (Sông Thấm dâng) có câu: (dịch nghĩa) “Nhà đông dắt con thơ, nhà tây gọi cha mẹ. Hoang mang chưa biết ý trời đất, chồng nắm tay (áo) vợ, dắt xiêm (áo) con. Nghe tin Trạch Châu nước lớn thêm, mịt mù mưa to trút suốt đêm. Nhà thôn Thấm Nguyên vài ngàn căn, mười chỗ gặp nước chết mất năm. Giờ thấy thây nổi dọc bờ đê, nửa ngày đã thấy vài người (trôi) qua.Ngao Dương dạ đại phong tuyết ca (Bài ca gió tuyết lớn trong đêm ở Ngao Dương ) có câu: (dịch nghĩa) “Than ôi! Người khóc còn có dừng, người không có áo làm sao sống? Anh chẳng thấy, đông huyện Đồng Sơn 40 dặm, đắp đê 10 ngày mới ngoi lên. Kêu gọi đinh tráng cùng chung sức, nếu may một ngày (làm được) thước hay chỉ (tám tấc). Tay cóng chân rét kêu không xiết, mắt thấy ngàn thợ muôn thợ chết. Tôi xin thiên thần mong thần bỏ (qua), gió này chớ gặp nước Hoàng Hà. Ô hô! Gió này chớ gặp nước Hoàng Hà!

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mộng Lân** (, chữ Hán: 梦麟, 1728 – 1758), tên tự là **Văn Tử**, tự khác là **Thụy Chiêm**, người thị tộc Tây Lỗ Đặc, dân tộc Mông Cổ, thuộc Mông Cổ Chính Bạch kỳ,
**Mông Cổ thuộc Thanh** (chữ Hán: 清代蒙古), còn gọi là **Mông Cổ Minh kỳ** (蒙古盟旗), là sự cai trị của nhà Thanh của Trung Quốc trên thảo nguyên Mông Cổ, bao gồm cả bốn aimag
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
thumb|Nhiếp chính vương [[Tải Phong - thân sinh của Tuyên Thống Đế.]] Triều đại nhà Thanh của Trung Quốc đã phát triển một hệ thống xếp hạng quý tộc rất phức tạp. Tất cả các
**Hòa Thạc Thân vương** (和硕亲王) gọi tắt **Thân vương** (亲王) là tước vị cao nhất dành cho tông thất nhà Thanh và quý tộc bộ Hồi, đồng thời là tước vị hạng thứ 2 cho
**Trịnh Trân** (chữ Hán: 郑珍, 1806 – 1864), tên tự là **Tử Doãn**, vãn hiệu **Sài Ông**, biệt hiệu **Tử Ngọ sơn hài**, **Ngũ Xích đạo nhân**, **Thư Đồng đình trưởng**, người huyện Tuân Nghĩa,
**Lý Nhân** (chữ Hán: 李裀, ? – 1656), tên tự là **Long Cổn**, người Cao Mật, Sơn Đông, quan viên đầu đời Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông chỉ trích _Đào nhân pháp_, công
**Trường Thanh** (chữ Hán: 長清, ? – 1837), người thị tộc Nữu Hỗ Lộc (Niohuru hala) thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, quan viên nhà Thanh. ## Thân thế Thị tộc Nữu Hỗ Lộc là
**Lý Quốc Anh** (_chữ Hán_: 李国英, ? – 1666) là người Hán quân Chính Hồng kỳ, tướng lĩnh đầu đời Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công trấn áp các lực lượng nổi
**Tiền Phong** (chữ Hán: 钱灃/钱沣, 1740 – 1795 ), tự **Đông Chú**, hiệu **Nam Viên**, người Côn Minh, Vân Nam, quan viên nhà Thanh. ## Khởi nghiệp Năm Càn Long thứ 36 (1771), Phong đỗ
**Xung đột biên giới Nga – Thanh (1652 - 1689)** là một loạt các vụ đụng độ vũ trang giữa nhà Thanh, với sự trợ giúp từ nhà Triều Tiên, và Sa quốc Nga, tranh
right|thumb|Bức họa [[Chiêm Âm Bảo (占音保), Đầu đẳng Thị vệ triều Càn Long.]] **Thị vệ** () hay **Thị vệ xứ** (侍衛處), là lực lượng quân sự được tuyển chọn từ con em các gia tộc
**Mông Cổ** là một quốc gia nội lục nằm tại nút giao giữa ba khu vực Trung, Bắc và Đông của châu Á. Lãnh thổ Mông Cổ gần tương ứng với vùng Ngoại Mông trong
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
thumb|Ảnh chụp tuyển tú nữ thời cuối triều Thanh. Các tú nữ độ tuổi rất nhỏ, trên ngực đều đeo _Lược đầu bài_ báo danh theo quy định. **Thanh cung tuyển tú** (chữ Hán: 清宮選秀),
**Hải Lan Sát** (chữ Hán: 海蘭察; ,? - 1793) là tướng lĩnh nhà Thanh dưới thời của Càn Long. ## Thân thế Hải Lan Sát xuất thân trong gia tộc Đa Lạp Nhĩ, thuộc Mãn
**Chiến tranh Thanh–Miến** (; ), còn gọi là **Cuộc xâm lược Miến Điện của nhà Thanh** hay **Chiến dịch Miến Điện của Đại Thanh**, là một cuộc chiến tranh giữa Đại Thanh và Đế quốc
**Phùng Mộng Long** (馮夢龍; 1574–1646) sinh vào năm thứ 2 thời Vạn Lịch triều Minh và mất thời Thuận Trị triều Thanh, là tác giả của tiểu tuyết nổi tiếng _Đông Chu liệt quốc_. Trước
**Lý Tự Thành** (李自成) (1606-1645) nguyên danh là **Hồng Cơ** (鴻基), là nhân vật thời _"Minh mạt Thanh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa và cuộc đời của Lý Tự Thành gắn
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
**Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời** (, )) còn gọi theo cách đơn giản là **Nhà thờ Kielce** là một nhà thờ Công giáo La Mã có vị thế của nhà
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp
**Nghĩa Đạo** (; 15 tháng 4 năm 1819 - 30 tháng 5 năm 1868) là một hoàng thân của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, người thừa kế 1 trong 12 tước vị Thiết
**Bính Tý Hồ loạn** hay còn được gọi là **Cuộc xâm lược Triều Tiên lần thứ hai của Mãn Châu** diễn ra vào năm 1636 là sự tiếp nối lần xâm lược thứ nhất năm
Set sợi kim tuyến trang trí móng, dây dạng thanh nail 12 hũMô tả sản phẩm:- Sợi kim tuyến dạng thanh như chỉ trang trí móng siêu xinh.*Lưu ý:- Tránh tiếp xúc với nước, nơi
Set sợi kim tuyến trang trí móng, dây dạng thanh nail 12 hũMô tả sản phẩm:- Sợi kim tuyến dạng thanh như chỉ trang trí móng siêu xinh*Lưu ý- Tránh tiếp xúc với nước, nơi
**Nạp Lan Tính Đức** (Chữ Hán: 納蘭性德, phiên âm: Nalan Xing De; 19 tháng 1 năm 1655 - 1 tháng 7 năm 1685), tên nguyên là **Thành Đức** (成德), tự **Dung Nhược** (容若), hiệu **Lăng
**Lữ Mộng Lan** (1927–2021) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân được Chính phủ Quốc
**Nhân Thọ** (, ; 9 tháng 4 năm 1810 – 8 tháng 11 năm 1864) là một hoàng thân của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, người thừa kế 1 trong 12 tước vị
**Tôn Khánh Thành** (chữ Hán: 孙庆成, ? - 1812) là tướng lãnh nhà Thanh, từng tham chiến tại Việt Nam. Ông là người Hán Quân Chính Bạch kỳ, nguyên quán Quảng Ninh, Liêu Ninh. _Thanh
**Tát Cáp Lân** (chữ Hán: 薩哈璘, ; 19 tháng 6 năm 1604 - 11 tháng 6 năm 1636), còn được dịch là **Tát Cáp Liên** (薩哈連, Sakhalian) hoặc **Tát Cáp Liêm** (薩哈廉, Sahalan), Ái Tân
**Ngoại Mông** (phiên âm Mông Cổ _Gadagadu monggol_, , _Ngoại Mông Cổ_) là một tỉnh đã từng thuộc nhà Thanh. Lãnh thổ của tỉnh này gần tương ứng với nước Mông Cổ hiện nay. Tên
**Các cuộc xâm lược của Mông Cổ** đã được tiến hành trong suốt thế kỷ 13, kết quả là tạo ra một Đế quốc Mông Cổ vô cùng rộng lớn bao phủ phần lớn châu
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Nội Mông Cổ** (tiếng Mông Cổ: Hình:Oburmonggul.svg, _Öbür Monggol_; ), tên chính thức là **Khu tự trị Nội Mông Cổ,** thường được gọi tắt là **Nội Mông**, là một khu tự trị của Cộng hòa
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Đại hãn quốc Mông Cổ** () là chính phủ Mông Cổ (Ngoại Mông Cổ) giữa năm 1911 và 1919, và một lần nữa từ 1921 tới 1924. Vào mùa xuân năm 1911, một số quý
**Cuộc xâm lược châu Âu của người Mông Cổ** vào thế kỷ 13 là một loạt các cuộc chiến nhằm chinh phục mảnh đất này của người Mông Cổ, bằng con đường tiêu diệt các
**Nhà Liêu** hay **Liêu triều** ( 907/916-1125), còn gọi là nước **Khiết Đan** (契丹國, đại tự Khiết Đan: Tập tin:契丹國.png) là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử
**Người Hmông** hay **Mông** (RPA: _Hmoob/Moob,_ Chữ Hmông Việt: _Hmôngz/Môngz)_; ), là một nhóm dân tộc có địa bàn cư trú truyền thống là Trung Quốc và các nước lân cận thuộc tiểu vùng Đông
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
**Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt lần thứ nhất** hay **Kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ nhất** là cách người Việt Nam gọi cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt chống lại
## Thời kỳ đầu tiên nhỏ|trái|Lãnh thổ của người Hung Nô dưới thời vua Mặc Đốn Vùng đất Mông Cổ ngày nay từng là nơi sinh sống của rất nhiều tộc người từ thời tiền