✨Chiến tranh Thanh – Miến

Chiến tranh Thanh – Miến

Chiến tranh Thanh–Miến (; ), còn gọi là Cuộc xâm lược Miến Điện của nhà Thanh hay Chiến dịch Miến Điện của Đại Thanh, là một cuộc chiến tranh giữa Đại Thanh và Đế quốc Konbaung tại Miến Điện. Nhà Thanh dưới sự lãnh đạo của Hoàng đế Càn Long đã bốn lần tấn công Miến Điện trong các năm từ 1765 đến 1769, xem đó là một trong Thập toàn Võ công. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh này đã lấy đi sinh mạng của 7 vạn binh sĩ nhà Thanh gồm cả bốn vị chỉ huy Miến Điện đã tự vệ thành công, tạo cơ sở cho biên giới giữa hai nước Myanma và Trung Quốc ngày nay.

Ban đầu, Càn Long tin là Miến Điện dễ đánh, nên chỉ phái quân Lục doanh đang đồn trú tại Vân Nam đi đánh. Quân Thanh sang đánh vào lúc phần lớn quân Miến Điện đang tham chiến ở Ayutthaya. Tuy nhiên, quân Miến Điện đã đánh bại hai cuộc tấn công đầu tiên của quân Thanh vào các năm 1765 và 1766 ngay tại biên giới. Cuộc xung đột quy mô khu vực đã leo thang thành chiến tranh quy mô lớn với sự huy động quân lực quy mô toàn quốc ở cả hai nước. Cuộc tấn công lần thứ ba (1767–1768) do lực lượng Bát Kỳ thiện chiến làm chủ lực gần như đã thắng lợi, khi đã thâm nhập sâu được vào miền Trung và chiếm được kinh đô Ava của Miến Điện trong vài ngày. Nhưng quân Bát Kỳ ở Hoa Bắc không quen với địa hình và dịch bệnh nhiệt đới, nên đã bị đẩy lui với tổn thất nặng nề. Rút kinh nghiệm từ việc thiếu phòng bị, Vua Hsinbyushin đã kéo phần lớn lực lượng quân Miến Điện ở Ayutthaya về vùng biên giới với Thanh. Cuộc tấn công lần thứ tư và là cuộc tấn công lớn nhất của nhà Thanh diễn ra ở vùng biên giới. Quân Thanh gần như đã bị vây kín, và cuối cùng giữa các chỉ huy chiến trường của hai bên đã đạt được nghị hòa vào tháng 12 năm 1769.

Sau đó, nhà Thanh đã bố trí lực lượng quân sự lớn ở vùng biên giới Vân Nam suốt khoảng một thập kỷ để cố gắng tiến hành một cuộc chiến tranh nữa, và đã cấm trao đổi thương mại biên giới giữa hai nước suốt hai thập kỷ. Người Miến kiểm soát lãnh thổ Shan (nay là các bang Kachin, Shan và Kayah) khoảng năm 1557 khi vua Bayinnaung của triều đại Toungoo chinh phục tất cả các vương quốc của người Shan. Vùng biên giới chưa được định rõ, với các chúa mường Shan sawbwas tại miền biên cống nạp cho cả hai phía. Tình hình trở nên có lợi cho phía nhà Thanh trong thập niên 1730 khi nhà Thanh bắt đầu thắt chặt kiểm soát vùng biên giới Vân Nam, trong khi chính quyền Miến Điện gần như tan rã hoàn toàn cùng với sự sụp đổ của vương triều Toungoo.

Nhà Thanh siết chặt kiểm soát vùng biên (thập kỷ 1730)

nhỏ|Càn Long thời trẻ Nhà Thanh khi bắt đầu thắt chặt vòng kiểm soát vùng biên đã gặp phải sự kháng chực quyết liệt từ phía các thủ lĩnh địa phương. Năm 1732, chính quyền Vân Nam đòi tăng thuế đã khiến cho người Shan nổi dậy mấy lần. Các thủ lĩnh Shan tuyên bố "Đất và nước này là của chúng ta. Ta tự cầy cấy mà ăn, chẳng cần gì phải cống nạp cho triều đình ngoại bang". Tháng 7 năm 1732, một đạo quân Shan chủ yếu gồm thổ binh sơn cước bao vây đồn binh nhà Thanh tại Phổ Nhĩ trong suốt 90 ngày. Chính quyền Vân Nam phản ứng quyết liệt, đưa 5.000 quân đến đánh giải vây. Vân Thanh truy đuổi mãi về phía tây, nhưng không thể dập tắt được hết sức kháng cự. Cuối cùng, tướng lĩnh Thanh phải thay đổi chiến thuật, liên minh với các chúa mường trung lập, trao chức quyền cho họ, bao gồm cả quan chức chỉ huy quân Lục Doanh và làm quan lại địa phương. Để hoàn tất thỏa hiệp, viên quan lớn thứ ba ở Vân Nam đích thân đến quận Tư Mao tổ chức buổi lễ tuyên thệ, đánh dấu việc nhà Thanh chính thức sáp nhập vùng biên. Tới giữa những năm 1730, các chúa mường vùng biên vốn cống nạp cho cả hai triều đình dần ngả về phía nhà Thanh. Tới năm 1735, năm Càn Long lên ngôi, 10 chúa mường đã theo nhà Thanh. Các tiểu quốc mà nhà Thanh sáp nhập trải từ Mogaung và Bhamo nay thuộc bang Kachin cho tới Hsenwi (Theinni) và Kengtung (Kyaingtong) nay thuộc bang Shan tới Sipsongpanna (Kyaingyun) nay là khu tự trị dân tộc Thái Tây Song Bản Nạp Vân Nam.

Trong khi nhà Thanh mở rộng kiểm soát vùng biên, triều đại Toungoo phải đương đầu với các cuộc đột kích cướp phá từ bên ngoài và các cuộc nổi loạn từ bên trong, nên không thể có hành động nào để đối phó lại. Trong suốt thập kỷ 1730, chính quyền Miến phải đối mặt với cuộc nổi dậy của người Manipuri liên tục đột kích ngày càng sâu vào vùng Thượng Miến. Năm 1740, người Mon ở Hạ Miến nổi dậy, thành lập Vương quốc Hanthawaddy Tái lập. Tới giữa thập kỷ 1740, quyền lực của vua Miến hầu như không tồn tại. Tới năm 1752, triều đại Toungoo bị quân đội từ vương quốc Hanthawaddy tái lập lật đổ và chiếm Ava.

Tới lúc đó, uy quyền vủa nhà Thanh trên vùng biên là điều không thể chối bỏ được. Năm 1752, Càn Long ban hành bản thảo Phác họa chư hầu đế quốc Thanh, theo đó tất cả các tộc "man di" dưới quyền đều phải được nghiên cứu và gửi báo cáo về triều đình.

Miến Điện tái lập ảnh hưởng (thập niên 1750-1760)

nhỏ|Alaungpaya Năm 1752, một triều đại mới gọi là triều đại Konbaung nổi lên tranh giành với nhà Hanthawaddy Tái lập, và bắt đầu tiến hành thống nhất toàn bộ vương quốc vào năm 1758. Năm 1758-59, vua Alaungpaya, người sáng lập nên triều đại, đưa một đoàn quân viễn chinh tiến sâu vào lãnh thổ Shan Ngoại, (nay là các bang Kachin và miền đông và bắc bang Shan), vốn đã bị nhà Thanh sáp nhập trong vòng hơn hai thập kỷ, nhằm tái lập quyền kiểm soát của Miến Điện. (Vùng Shan Nội đã qui phục từ năm 1754). Ba trong số mười chúa mường Shan sawbwas (Mogaung, Bhamo, Hsenwi) cùng thuộc hạ của họ bỏ chạy vào Vân Nam và cầu cứu quan lại nhà Thanh đánh Miến Điện. Để đáp lại, hoàng đế nhà Thanh bổ nhiệm Lưu Tảo, một thượng thư có uy tín từ kinh đô đến để giải quyết tình hình tại đây. Tại Côn Minh, Lưu Tảo nhận thấy việc sử dụng thổ binh Thái-Shan không có kết quả, phải dùng đến quân chính quy Lục Doanh. Với lực lượng chủ lực của Miến viễn chinh, Liu Tảo dùng cớ tranh chấp giữa thương gia Miến và Thanh để xâm lược Kengtung tháng 12 năm 1765. Lực lượng Thanh gồm 3.500 quân Lục Doanh, cùng với thổ binh Thái-Shan,

Tướng Thanh Lưu Tảo bị mất mặt, tìm cách che giấu tin thất trận. Khi triều đình Thanh tỏ ra nghi ngờ, Càn Long đòi triệu hồi Lưu Tảo ngay tức khắc và giáng cấp. Thay vì phục mệnh, Lưu Tảo tự cắt cổ tự tử, dùng máu của chính mình viết "Không có cách nào báo được hoàng ân, ta đáng tội chết". Mặc dù kiểu tự tử này của quan lại nhà Thanh không phải hiếm gặp thời đó, nó cũng làm Càn Long đùng đùng nổi dận. Việc đánh dẹp quân Miên trở thành vấn đề giữ thể diện cho triều đình. Càn Long quyết định bổ nhiệm Dương Ứng Cừ, một võ quan dày dặn vùng biên cương, với nhiều năm kinh nghiệm tại Tân Cương và Lưỡng Quảng. Kế hoạch xâm lược của quân Thanh đi qua Bhamo, xuôi dòng sông Irrawaddy để vào Ava. Quân Miến biết trước được lộ trình tiến quân của nhà Thanh và lên kế hoạch đối phó. Hsinbyushin lập mưu lừa quân Thanh tiến sâu vào lãnh thổ Miến để rồi bao vây tiêu diệt. Chỉ huy quân Miến trên chiến trường là Balamindin được lệnh bỏ Bhamo, thay vào đó đóng trại tại Kaungton, cách Bhamo vài dặm trên dòng Irrawaddy.

Vây hãm tại Bhamo–Kaungton

Theo kế hoạch, quân Thanh dễ dàng chiếm được Bhamo vào tháng 12 năm 1766, và thiết lập trại lương tại đây. Quân Thanh tiếp đó vây đánh đồn binh Miến tại Kaungton. Tuy nhiên Balamindin phòng ngự chắc chắn, đánh bật các cuộc tấn công liên tiếp của quân Thanh. Cùng lúc, hai cánh quân Miến, một do Maha Sithu chỉ huy, một do Ne Myo Sithu, bao vây quân Thanh. Đạo quân của Maha Sithu đang trấn giữ sườn tây sông Irrawaddy tiến lên phía bắc Myitkyina, đánh bại các đồn binh Trung Hoa nhỏ tại biên giới.

Chiến dịch lần thứ ba (1767–1768)

Quân Thanh động binh

Sau khi bị đánh bại hai lần, hoàng đế nhà Thanh và triều thần không thể nào hiểu được một quốc gia "man di" nhỏ bé như Miến Điện lại có thể kháng cự lại uy vũ của nhà Thanh. Càn Long ra lệnh nghiên cứu hai cuộc chinh phạt trước, và bản báo cáo càng làm tăng thêm thành kiến của ông— rằng sự yếu kém của quân Lục Doanh là nguyên nhân dẫn đến thất bại.

Kết quả là khi cuộc chiến bắt đầu tháng 11 năm 1767, hệ thống phòng thủ của Miến Điện vẫn chưa được nâng cấp để đối phó với một địch thủ mạnh mẽ và quyết tâm hơn rất nhiều. Bộ chỉ huy của quân Miến vẫn giống như lần trước, Hsinbyushin vẫn chỉ định các chỉ huy lần trước để chống lại quân Trung Hoa. Maha Sithu chỉ huy đạo quân chủ lực, và là tổng chỉ huy chiến trường, với Maha Thiha Thura và Ne Myo Sithu chỉ huy hai cánh quân Miến còn lại. Balamindin lại được lệnh phòng thủ thành Kaungton. (Với đạo quân chủ lực của Miến Điện chỉ có khoảng 7000 binh, toàn bộ lực lượng Miến Điện khi bắt đầu cuộc viễn chinh lần thứ ba không thể vượt quá 20.000 quân.)

Các lộ quân trong cuộc viễn chinh lần thứ ba (1767-1768)

Quân Thanh tấn công

Minh Thụy dự trù tấn công theo hai gọng kìm ngay khi mùa mưa chấm dứt. Đạo quân chủ lực do chính Minh Thụy chỉ huy sẽ tiến vào Ava theo đường Hsenwi, Lashio và Hsipaw, dọc theo sông Namtu. (Đường tiến quân chính sử dụng hướng tấn công do quân Thanh truy đuổi Vĩnh Lịch Đế nhà Minh một thế kỷ trước). Đạo quân thứ hai do tướng Ngạch Nhĩ Cảnh Ngạch (額爾景額) chỉ huy, lại tiến theo hướng Bhamo. Mục tiêu chính của cả hai đạo quân là hội quân thành một gọng kìm siết chặt thủ đô Ava của người Miến. Kế hoạch của quân Miến là kìm chân đạo quân Thanh tại phía bắc Kaungton với cánh quân của Ne Myo Sithu, và đón đánh cánh quân chủ lực của quân Thanh ở miền đông bắc với hai cánh quân của Maha Sithu và Maha Thiha Thura. Tin về trận đại bại tại Goteik bay về Ava. Vua Hsinbyushin cuối cùng cũng nhận ra tình hình nguy cập, và gấp rút gọi các đạo quân viễn chinh Miến từ Xiêm về. đã đến trước cửa. Triều đình giục nhà vua bỏ trốn, nhưng nhà vua đáp lại một cách khinh miệt, rằng ông và các hoàng thân em trai, con của Alaungpaya, sẽ đánh lại quân Thanh dù có phải đơn độc chiến đấu. Thay vì phòng ngự thủ đô, Hsinbyushin bình tĩnh đưa một đạo quân thiết lập vị trí tiền tiêu ngoài Singu, bản thân ông cũng dẫn binh sĩ lên tuyến đầu chiến tuyến.

Trong khi đó, hóa ra là Minh Thụy cũng đã phải căng ra quá sức, và không có khả năng tiến sâu hơn nữa. Quân Thanh giờ ở quá xa căn cứ hậu cần chính tại Hsenwi, cách đó hàng trăm dặm ở miền thượng du Shan phía bắc. Quân du kích Miến đánh phá tuyến vận lương trong rừng của quân Thanh, ngăn trở quân Thanh tiến xa thêm. (Lực lượng du kích được tướng Teingya Minkhaung, phó tướng của Maha Thiha Thura, chỉ huy). Minh Thụy phải quay sang phòng ngự, kéo dài thời gian chờ đạo quân phía bắc đến cứu viện. Nhưng viện quân không bao giờ tới nơi, đạo quân phía bắc bị tổn thất nặng nề trong các đợt hãm thành liên tiếp đánh vào Kaungton. Chỉ huy đạo quân này, chống lệnh Minh Thụy, rút lui về Vân Nam.

Càn Long quay sang một trong những quân sư tin cẩn nhất của mình Phó Hằng, chú của Minh Thụy. Trong những năm 1750, Phó Hằng là một trong số ít quan lại ủng hộ Càn Long đánh dẹp quân nổi dậy Dzungar, tại thời điểm mà đa phần mọi người đều cho rằng chiến tranh rất bất trắc. Ngày 14 tháng 4 năm 1768, triều đình thông báo Minh Thụy tử trận, và bổ nhiệm Phó Hằng làm tổng chỉ huy mới cho chiến dịch Miến Điện. Các tướng lĩnh Mãn Thanh là Agui, Aligun và Suhede được cử làm phó tướng. Cả một nhóm tướng lĩnh hàng đầu của nhà Thanh sửa soạn cho cuộc quyết chiến với Miến Điện. Lợi dụng quân Miến bận rộn đối phó với hiểm họa từ phía nhà Thanh, quân kháng chiến Xiêm tái chiếm Ayutthaya năm 1768, rồi tiếp tục tái chiếm tất cả các lãnh thổ trước đó mất vào tay người Miến trong các năm 1768 và 1769. Với người Miến, tất cả các thành quả mà họ phải khó nhọc mới giành được trong 3 năm trước đó (1765–1767) ở Xiêm tan thành bọt nước, mà họ không có cách nào cứu vãn được, vì bản thân họ phải chuẩn bị cho một cuộc chiến có tính chất sống còn. Chiến thuyền Miến trên sông [[Irrawaddy]]

Kế hoạch tác chiến của quân Thanh

Phó Hằng tới Vân Nam tháng 4 năm 1769 để chỉ huy đạo quân gồm 60 ngàn binh lính. Ông nghiêm cứu các cuộc viễn chinh trước đó của nhà Minh và quân Mông Cổ để lên kế hoạch tác chiến, theo đó quân Thanh sẽ tiến đánh theo ba mũi, qua ngả Bhamo và sông Irrawaddy. Cánh quân thứ nhất sẽ tiến đánh trực diện vào Bhamo và Kaungton, tức sẽ gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên hai cánh quân còn lại lớn hơn sẽ bỏ qua Kaungton và tiến dọc sông, mỗi cánh trên một bờ sông, tiến về Ava. Hai cánh quân này sẽ được hỗ trợ bởi các thuyền chiến dùng thủy thủ từ hạm đội Triết Giang. Để không lặp lại sai lầm của Minh Thụy, ông cho bảo vệ tuyến tiếp tế và liên lạc của mình, cũng như cho tiến quân với tốc độ phù hợp. Ông không cho tiến quân xuyên rừng qua miền đồi núi xứ Shan để tránh bị quân du kích Miến phục kích cắt đường tiếp tế. Ông cũng mang theo một đội quân đông đảo thợ mộc để xây dựng đồn lũy và chiến thuyền dọc đường tiến quân. :Các binh tướng, nếu chúng ta không cho giảng hòa, chúng sẽ tiếp tục tiến hành một cuộc xâm lược nữa. Và một khi chúng ta đánh bại đạo quân đó, chúng sẽ gửi một đạo quân nữa. Nước ta không thể cứ đánh hết đạo quân Trung Hoa này đến đạo quân Trung Hoa khác, vì ta còn nhiều việc khác phải làm. Hãy ngưng cuộc tàn sát, và để dân họ và dân ta được sống trong thái bình.

Ông chỉ ra cho các tướng rằng chiến tranh với Trung Hoa đã trở thành một cái ung nhọt mà cuối cùng sẽ làm tiêu tan đất nước. So với thiệt hại của quân Thanh, tổn thất của quân Miến ít hơn nhiều, nhưng so với tỷ trọng dân số, đây là một mất mát to lớn. Các tướng không phục, nhưng Maha Thiha Thura, dùng quyền của mình, và không thông báo với nhà vua, đòi phía Thanh phải chất nhận các điều khoản:

Tại Ava, vua Hsinbyushin cũng hết sức giận dữ vì các tướng nghị hòa mà không thông qua mình, và xé bỏ bản hòa ước. Biết rằng nhà vua nổi giận, các đạo quân Miến không dám trở về thủ đô. Thay vào đó, tháng 1 năm 1770, họ tiến đánh Manipur nơi một cuộc nổi loạn đã diễn ra, lợi dụng việc quân Miến không rảnh tay vì còn phải chống nhau với quân Thanh. Sau ba ngày giao tranh gần Langthabal, quân nổi dậy Manipur bị đánh bại, và thủ lĩnh (raja) của họ bỏ trốn đến Assam. Quân Miến đặt người thân họ lên ngai vàng, rồi quay về. Lúc này nhà vua cũng đã nguôi giận, vì chung cuộc thì quân Miến đã chiến thắng và bảo toàn ngai vàng cho ông. Tuy nhiên, nhà vua cũng buộc vị tướng lừng danh Maha Thiha Thura, người có con gái gả cho con trai của nhà vua và là thái tử Singu, mặc một bộ quần áo đàn bà và bắt ông cùng các tướng đày đi đến các xứ Shan. Nhà vua không cho phép họ được nhìn mặt mình, ngay cả các quan thượng thư xin cho họ cũng bị đưa đi đày.

Mặc dù giao tranh chấm dứt, nhưng cuộc ngưng chiến rất mỏng manh. Không có bất kỳ điểm nào trong bản hòa ước được các phía tôn trọng. Vì phía Trung Hoa không giao lại các chúa mường phản loạn, phía Miến cũng không trả lại 2500 tù binh Thanh mà cho họ định cư ở lại. Nhà Thanh mất một số tướng lĩnh giỏi nhất thời đó, gồm Dương Ứng Cư, Minh Thụy, A Lý Cổn, và Phó Hằng (người sau này ngã bệnh chết năm 1770). Cuộc chiến tiêu tốn quốc khố nhà Thanh 9,8 triệu lạng bạc. Dẫu vậy, Càn Long cũng vẫn cho quân đóng dọc biên giới vùng Vân Nam trong suốt một thập niên kế tiếp để chuẩn bị cho một cuộc viễn chinh nữa, trong khi vẫn cấm giao thương trong suốt hai thập kỷ.

Phía Miến Điện trong nhiều năm cũng bận rộn với nguy cơ xâm lược từ Trung Hoa, và phải giữ một loạt các binh trại dọc biên giới. Tổn thất lớn lao từ cuộc chiến (so với tỷ trọng dân số) và nhu cầu canh giữ biên giới phía bắc khiến cho khả năng tiếp tục chiến sự tại chiến trường Xiêm của Miến Điện bị suy yếu. Phải mất 5 năm nữa Miến Điện mới có thể đưa một đoàn quân đi đánh Xiêm được.

Phải mất 20 năm nữa Miến Điện và Trung Hoa mới nối lại quan hệ vào năm 1790. Việc nối lại quan hệ này được trung gian bởi giới quý tộc Thái-Shan và các quan lại Vân Nam muốn tiếp tục giao thương. Miến Điện, dưới triều vua Bodawpaya, hiểu việc nối lại quan hệ này trên phương diện bình đẳng, và họ coi việc trao đổi sứ thần là một phần của nghi thức ngoại giao, chứ không phải phái đoàn triều cống. Tuy nhiên với triều đình Trung Quốc, tất cả các phái đoàn ngoại giao đều được coi là phái đoàn triều cống. Càn Long xem việc nối lại quan hệ là biểu hiện triều phục từ phía Miến Điện, và đơn phương tuyên bố chiến thắng, ghi chiến dịch Miến Điện vào sổ Thập toàn võ công của mình.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây
**Chiến tranh Thanh–Miến** (; ), còn gọi là **Cuộc xâm lược Miến Điện của nhà Thanh** hay **Chiến dịch Miến Điện của Đại Thanh**, là một cuộc chiến tranh giữa Đại Thanh và Đế quốc
**Chiến tranh Nhật - Thanh** (cách gọi Nhật Bản, ), hay **chiến tranh Giáp Ngọ** (cách gọi Trung Quốc, ) là một cuộc chiến tranh giữa đế quốc Đại Thanh và đế quốc Nhật Bản
**Tình hình Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1960-1965** là một giai đoạn của Chiến tranh Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Giai đoạn 1960-1965 trong lịch sử Miền Nam Việt Nam là một
**Tình hình Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một giai đoạn của Chiến tranh Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Trong lịch sử quân sự Việt Nam hiện đại, giai đoạn này
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
**Chiến tranh Triều Tiên** là cuộc chiến xảy ra trên bán đảo Triều Tiên giữa Bắc Triều Tiên (với sự hỗ trợ của Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa) và
**Chiến tranh Trung – Nhật** (1937–1945) là một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản. Hai thế lực đã chiến đấu với nhau ở vùng biên giới
**Chiến tranh Anh–Miến thứ nhất** (tiếng Anh: _First Anglo-Burmese War_, ; ) diễn ra từ ngày 5 tháng 3 năm 1824 đến ngày 24 tháng 2 năm 1826. Cuộc chiến tranh diễn ra dưới thời
**Chiến tranh nhân dân** là chiến lược quân sự tại Việt Nam để chỉ chung các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc do nhân dân Việt Nam tiến hành
**Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc**, hay thường được biết đến với cái tên **Chiến tranh năm 1812**, là một cuộc chiến giữa các lực lượng quân đội Hoa Kỳ và quân đội Đế
Xiêm La và Miến Điện là hai nước láng giềng nằm ở phía tây của bán đảo Đông Nam Á, vốn có những mối quan hệ phức tạp về nhiều mặt. Từ thế kỷ XVI
**Chiến tranh Pháp-Tây Ban Nha** là một cuộc xung đột quân sự đã đẩy nước Pháp tham chiến trong Chiến tranh Ba mươi năm. Sau khi các đồng minh Đức của Thụy Điển buộc phải
nhỏ| Áp phích phim cho _[[Hawai Mare oki kaisen|Hawai Mare oki kaisen của_ Kajiro Yamamoto, (ハ ワ イ ・ マ レ ー 沖 海 戦, _The War at Sea from Hawaii to Malaya_ ), Toho
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
**Lịch sử chiến tranh Việt Nam–Trung Quốc** là những cuộc xung đột, chiến tranh, từ thời cổ đại đến thời hiện đại giữa các chính thể trong quá khứ của những quốc gia Việt Nam
**Bồi thường chiến tranh** là các khoản thanh toán bồi thường được thực hiện sau một cuộc chiến bởi bên thua trận đối với bên thắng trận. Chúng được dự định để trang trải thiệt
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Chiến tranh Thái Bình Dương** là một phần của Chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn ra trên Thái Bình Dương, các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương và vùng Đông Á, Đông Nam
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Chiến tranh Lạnh** (1947-1991, tiếng Anh: **Cold War**) là chỉ đến sự căng thẳng địa chính trị và xung đột ý thức hệ đỉnh điểm giữa hai siêu cường (đứng đầu và đại diện hai
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
**Chiến tranh Ả Rập – Israel năm 1948**, được người Do Thái gọi là **Chiến tranh giành độc lập** và **Chiến tranh giải phóng**, còn người Palestine gọi là **al Nakba** (tiếng Ả Rập: النكبة,
**Chiến tranh Cách mạng Mỹ** (1775 - 1783), còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Mỹ**, là một cuộc chiến vào thế kỷ 18 giữa Vương quốc Đại Anh và Mười ba xứ
**Chiến tranh Hoa Hồng** là một loạt các cuộc nội chiến tranh giành vương vị nước Anh giữa những người ủng hộ hai dòng họ Lancaster và York. Cuộc chiến diễn ra trong các giai
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**Chiến tranh Punic lần thứ hai**, cũng còn được gọi là **Chiến tranh Hannibal**, (bởi những người La Mã) **Cuộc chiến tranh chống lại Hannibal**, hoặc **Chiến tranh Carthage**, kéo dài từ năm 218 đến
## Thập niên 1940 ### 1945 *Hội nghị Yalta *Hội nghị Potsdam ### 1946 * Tháng 1: Nội chiến Trung Quốc tái diễn giữa hai thế lực của Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng.
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Chiến tranh Việt – Xiêm (1841–1845)** là cuộc chiến giữa hai nước Xiêm La dưới thời Rama III và Đại Nam thời Thiệu Trị, diễn ra trên lãnh thổ Campuchia (vùng phía Đông Nam Biển
**Chiến tranh Ayutthaya – Myanmar** là cuộc chiến tranh giữa hai nước láng giềng ở Đông Nam Á. Vương quốc Ayutthaya là một trong những nhà nước tiền thân của Thái Lan hiện đại. Chiến
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
**Chiến tranh Ba Lan – Ukraina**, diễn ra từ tháng 11 năm 1918 đến tháng 7 năm 1919, là cuộc xung đột giữa Cộng hòa Ba Lan thứ hai và các lực lượng Ukraina (cả
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Chiến tranh Afghanistan** là một cuộc chiến tranh diễn ra sau khi Hoa Kỳ xâm lược Afghanistan và sau khi Hoa Kỳ và các đồng minh đã hạ bệ thành công Taliban từ vị trí
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Chiến tranh Ba Mươi Năm** bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu
nhỏ|Xe tăng T-54A nhỏ|Súng của Mỹ và đồng minh nhỏ|Pháo tự hành M110 Bài viết này liệt kê **những vũ khí được sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam**. Đây là một cuộc chiến khốc
Bản đồ thế giới năm 1980 với các liên minh Bài **Chiến tranh Lạnh (1962-1979)** nói về một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ sau cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba cuối tháng
**Chiến tranh Đại liên minh** (1688-1697) - thường được gọi là **chiến tranh chín năm**, cuộc **chiến tranh Kế vị Palatine**, hoặc **chiến tranh của Liên minh Augsburg** - là một cuộc chiến lớn cuối
**Chiến tranh Kế vị Ba Lan** (tiếng Ba Lan: _Wojna o sukcesję polską_; tiếng Anh: _War of the Polish Succession_; ) là một cuộc xung đột lớn ở châu Âu, gây ra bởi cuộc nội
nhỏ|phải|Một [[chiến binh Mông Cổ trên lưng ngựa, ngựa Mông Cổ là biểu tượng cho những con ngựa chiến ở vùng Đông Á trong thời Trung Cổ]] nhỏ|phải|Một kỵ xạ Nhật Bản đang phi nước
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Chiến tranh Tôn giáo Pháp** là một chuỗi gồm tám cuộc tranh chấp giữa phe Công giáo và phe Huguenot (Kháng Cách Pháp) từ giữa thế kỷ 16 kéo dài đến năm 1598. Ngoài những
**Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh** (War Remnants Museum) là một bảo tàng vì hòa bình ở số 28 đường Võ Văn Tần, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Bảo
**Chiến tranh Việt – Xiêm** (1833–1834) là một cuộc chiến gồm hai đợt tấn công của quân Xiêm vào lãnh thổ Việt Nam thời Nhà Nguyễn của vua Minh Mạng, đợt thứ nhất khởi đầu
**Chiến tranh Hy Lạp-Ý** ( _Ellinoitalikós Pólemos_ hay **Πόλεμος του Σαράντα** _Pólemos tou Saránda_, "Cuộc chiến năm 40", , "Chiến tranh Hy Lạp") là một cuộc xung đột giữa Ý và Hy Lạp, kéo dài