✨Trịnh Trân (nhà Thanh)

Trịnh Trân (nhà Thanh)

Trịnh Trân (chữ Hán: 郑珍, 1806 – 1864), tên tự là Tử Doãn, vãn hiệu Sài Ông, biệt hiệu Tử Ngọ sơn hài, Ngũ Xích đạo nhân, Thư Đồng đình trưởng, người huyện Tuân Nghĩa, Quý Châu, là quan viên, học giả Kinh học, nhà thơ theo trường phái Tống thi, nhà giáo dục cuối đời Thanh. Ông cùng đồng môn Mạc Hữu Chi được ca ngợi là Tây nam cự nho hay thạc nho . Nhà nghiên cứu thơ Tiền Trọng Liên xếp Trịnh Trân vào nhóm 10 nhà thơ tiêu biểu cuối đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.

Thân thế

Tổ tiên của Trịnh Trân là người Giang Tây. Ông sinh ra dưới chân núi Ngọc Khánh, Hà Lương Trang, Thiên Vượng Lý thuộc Tây Hương (nay là tổ Hà Trung, thôn Kim Chung, trấn Áp Khê), trong một gia đình có truyền thống nho học và y học. Mẹ Trịnh Trân là người Đông Hương, được Thanh sử cảo đánh giá là tấm gương liệt nữ đương thời , con gái thứ ba của Lê An Lý, người được Thanh sử cảo đánh giá là tấm gương hiếu nghĩa đương thời.

Học nghiệp

Trân lên 5 tuổi thì được ông nội Trịnh Trọng Kiều dạy nhận mặt chữ, sau đó theo cha Trịnh Văn Thanh đọc sách; lên 11 tuổi được đưa vào trường tư thục; lên 12 tuổi được đọc sách ở Tuân Nghĩa Tương Xuyên thư viện. Trân dốc sức nghiên cứu tứ thư, ngũ kinh, nắm hết chư tử bách gia; tính tình trở nên trì trọng, vô cùng ham thích đọc sách. Vì thế mẹ ông lấy làm lạ; đến năm Trân lên 14 tuổi, bà bèn bỏ hết ruộng vườn, dọn nhà sang Nghiêu Loan của Nhạc An Lý thuộc Đông Hương (nay là thôn Sa Than, hương Vũ Môn, trấn Tân Chu), ở gần nhà bên ngoại, để Trân bái cậu là Lê Tuân làm thầy. Lê Tuân trữ sách rất nhiều, không tiếc đem ra cho Trân học tập; mỗi khi đến nhà cậu, ông liền tay không rời án, áo không cởi đai, từ sớm đến chiều, chăm chỉ học tập. (Về sau Tuân xét Trân đã thành tài, bèn gả con gái cho ông.)

Năm Đạo Quang thứ 5 (1825), Hộ bộ thị lang Trình Ân Trạch làm Đốc biện Quý Châu học chánh, qua sàng lọc đã chọn Trân làm Cống sanh. Trình Ân Trạch là học giả Kinh học và là lãnh tụ của phong trào vận động Tống thi đương thời; vì thế dạy Trân vài việc:

  • đọc sách đời Tam Đại, Lưỡng Hán – tức là trước tác của Hứa Thận, Trịnh Huyền,...
  • lấy Doãn Đạo Chân làm gương mẫu – nhân đó đặt cho ông tên tự là Tử Doãn.
  • tập luyện Tống thi.

Sau 2 năm, Trân quay về Tuân Nghĩa, bái Mạc Dữ Trù làm thầy, tiếp tục nghiên cứu Kinh học và rèn luyện Tống thi, nhân đó kết bạn thân thiết với con trai Dữ Trù là Mạc Hữu Chi.

Sự nghiệp

Năm thứ 8 (1828), Trân giành Tú tài, nhưng nhiều lần lên kinh tham gia thi Hội đều không trúng. Năm thứ 18 (1838), Trân nhận lời mời của Tri phủ Bình Hàn, cùng Mạc Hữu Chi biên soạn Tuân Nghĩa phủ chí; việc này kéo dài đến 3 năm, sau đó, Trân tiếp tục thi Hội 3 lần nữa, đều không thành công. Theo lệ Trân được xét Đại thao nhị đẳng, bổ nhiệm giáo chức .

Năm thứ 24 (1844), Trận nhiệm chức Cổ Châu thính học huấn đạo (nay là huyện Dong Giang), Lệ Ba huyện học giáo dụ, kế đó làm Trấn Viễn phủ học Đại lý huấn đạo và Lệ Ba huyện học huấn đạo, mỗi nơi đều không đầy năm. Sau đó Trân quay về Tuân Nghĩa, đảm nhiệm việc giảng dạy ở các thư viện Khải Tú, Tương Xuyên, bồi dưỡng nên một thế hệ nhân tài là bọn Trịnh Tri Đồng , Lê Thứ Xương , Mạc Đình Chi .

Năm Hàm Phong thứ 5 (1855), Trân soái quân giữ thành, chống lại quân khởi nghĩa người Miêu xâm phạm Lệ Ba. Năm Đồng Trị thứ 2 (1863), nhờ đại học sĩ Kỳ Tuyển Tảo tiến cử, Trân được triều đình phát đặc chỉ, bổ dụng làm tri huyện ở Giang Tô, nhưng ông từ tạ không nhận. Năm thứ 3 (1864), Trân bệnh mất, hưởng thọ 59 tuổi, được chôn cất ở núi Tử Ngọ thuộc Vũ Môn Hương.

Thành tựu

Trân và Mạc Hữu Chi được ca ngợi là hai bậc cự nho của góc tây nam Trung Quốc cuối đời Thanh . Năm 1930, địa cấp thị Tuân Nghĩa xây dựng Trịnh Mạc từ trong khuôn viên trường trung học số 11 để kỷ niệm 2 người Trịnh – Mạc; hiện nay là đơn vị văn vật được bảo hộ cấp thị .

Nghiên cứu Kinh học

Quan điểm học thuật

Trân đi theo Trình Ân Trạch nghiên cứu Kinh học, bắt đầu truy tìm nguồn gốc của chữ viết và tiếng nói của Hán tộc, còn tìm hiểu kiến trúc, phục trang đời xưa. Đương thời học giả xem trọng khảo cứ, Trân kế thừa quan điểm ấy; ông thật sự cầu thị, không lập riêng một phái, không a dua mọi người. Sau đó Trân theo Mạc Dữ Trù du ngoạn, gặp gỡ nhiều bậc tông sư, mở mang kiến thức. Trân nghiên cứu rất sâu về Tam lễ (Nghi lễ, Chu lễ, Lễ ký), cho rằng: “_Tiểu học có 3 đề tài: hình, thanh, nghĩa. Hình là phần chính của văn thể Tam Đại, xem tại Thuyết văn . Còn ở hoa văn trên chung đỉnh các đời và Hãn giản, Cổ văn tứ thanh vận thu được chữ lạ, thì không thể biết hết được, phần lớn cũng là ngụy tạo, không hợp Lục thư, không thể lấy làm thường. Thanh thì có Âm học ngũ thư của Côn Sơn Cố thị , suy chứng cổ âm, đáng tin có chứng cứ, sáng tỏ xua mông muội, trở nên ông tổ trăm đời không đổi. Nghĩa thì có tự điển , tự điển vận âm , từ điển nhiều như mây bể; còn muốn thông hiểu kinh huấn , chớ trông cả vào Thuyết văn chú của Đoạn Ngọc Tài , Nhĩ nhã sơ của Thiệu Tấn Hàm, Hác Ý Hành với Quảng nhã sơ chứng của Vương Niệm Tôn . Sâu sắc rộng rãi, vượt qua xưa cũ, ấy là tác dụng hoàn chỉnh của tiểu học._” Đây là Trịnh Trân bày tỏ thái độ vừa ủng hộ đối với trào lưu phục cổ nổi lên ở miền nam Trung Quốc vào thời Càn Long, Gia Khánh, vừa e ngại nó trở nên nệ cổ.

Tác phẩm

Nhận xét

Lý Từ Minh: “Kinh thuyết của Tử Doãn tuy chỉ có 1 quyển, mà cô đọng sâu sắc, nhiều điều hay lạ.”

Mạc Hữu Chi: “Tử Doãn bình sanh trước thuật, kinh huấn thứ nhất, văn bút thứ nhì, thi ca thứ ba. Nhưng chỉ có thơ là dễ thấy tài, sợ rằng ngày sau lưu truyền, sẽ áp chế hai môn kia.”

Biên soạn địa chí

Trân với Mạc Hữu Chi biên soạn Tuân Nghĩa phủ chí, gồm thâu tài liệu chính thống (đồ thư, địa chí ) và dã sử, tìm hiểu cặn kẽ, giữ nghiêm văn thể, mất đến 3 năm, hoàn thành 48 quyển, hơn 80 vạn chữ, (hiện còn không đầy đủ, xem tại [http://ctext.org/library.pl?if=gb&res=2196&remap=gb đây]) được Lương Khải Siêu ca ngợi là “thiên hạ phủ chí đệ nhất” .

Ngoài ra Trân còn trước tác:

Sáng tác văn học

Trân xuất thân bần hàn, vì thế ông phản ánh hình ảnh của tầng lớp lao động rất chân thật và bình dị trong thơ của mình. VD: Bộ sài hành (Hành bắt sói), Lục nguyệt nhị thập thần vũ đại hàng (Sáng ngày 20 tháng 6 trời trút mưa lớn), Giả Hải Duyên xưởng tam thủ (bộ 3 bài về xưởng (đúc) Giả Hải Duyên) miêu tả nỗi vất vả trong hoạt động sản xuất; Tửu Điếm Áp tức sự (Chuyện xảy ra ở Tửu Điếm Áp), Kinh tử ai (Xót người chết vì treo cổ) miêu tả hành vi bóc lột tàn nhẫn của quan lại phong kiến; còn có những bài miêu tả cảnh sắc non sông tươi đẹp, tâm tình vui thú điền viên như Nhàn thiếu (Tuổi trẻ nhàn hạ), Bạch Thủy bộc bố (Thác nước Bạch Thủy),...

Theo Trần Diễn, thơ của Trân cùng dòng với Đỗ Phủ, Hàn Dũ, nhưng vẫn có sự khác biệt: “Vượt qua tiền nhân nhưng chưa trải qua cảnh ngộ của họ. Trông như người ta nhưng khó nhìn ra trạng huống của họ, học Đỗ, Hàn mà chẳng mô phỏng Đỗ, Hàn.” . Chính vì thế thơ của Trân cũng có nhiều bài chứa đựng nội dung sâu xa, ngôn từ cách tân, được Trần Diễn nhận xét “_Bắt chước ‘Nam sơn’ của Xương Lê mà biến hóa ra_” (Xương Lê là hiệu của Hàn Dũ); VD: Chánh nguyệt bồi Lê Tuyết Lâu cữu du Bích Tiêu động tác (Tháng giêng theo cậu Lê Tuyết Lâu chơi động Bích Tiêu làm thơ), Ngũ Cái sơn nghiễn thạch ca (Bài ca về đá làm nghiên (mực) của núi Ngũ Cái), Lưu biệt Trình Xuân Hải thị lang (Đưa tiễn thị lang Trình Xuân Hải), Anh mộc thi (thơ về Anh mộc ), Tịch nguyệt nhập nhị nhật khiển tử Du, quý đệ chi Kỳ Giang Xuy Giác bá thủ Hán Lư Phong bi thạch ca dĩ tống chi (Ngày 22 tháng chạp, sai con Du và em út đi đập Xuy Giác thuộc sông Kỳ, lấy bài ca bia đá Lư Phong đời Hán để tặng họ), An Quý Vinh thiết chung hành (Hành chuông sắt của An Quý Vinh),...

Thơ của Trân về lượng thì không nhiều, nhưng theo Trần Diễn, là đủ để trở thành một bậc tông sư: “_Sào Kinh sào thi sao của Trịnh Tử Doãn Trân là biện – miện của ông ta,... Thẩm Ất Am, Trần Tán Nguyên hiện nay, thật là lưu phái của ông._” Lương Khải Siêu viết lời bạt cho Sào Kinh sào thi sao đã nói: “Phạm Bá Tử, Trần Tán Nguyên đều là người kế thừa của ông.” ; lại nói: “Người đời đều khen thơ của Tử Doãn có thể lập riêng môn hộ, tác giả đời Thanh đều không bằng. Theo cái nhìn riêng, đồng hương của tôi là Lê Nhị Tiều có thể sánh được . Dựng khuôn chọn lời , có chỗ độc đáo, tham ý (khiến) cảnh hẹp.”. Hồ Tiên Túc trong bài Độc Trịnh Trân Sào Kinh sào thi sao (Đọc Sào Kinh sào thi sao của Trịnh Trân) ca ngợi Trân là nhà thơ số một của đời Thanh .

Trân cũng giỏi cổ văn, Ông Đồng Thư viết lời tự cho Văn tập của ông , nói: “Cổ (xưa cũ) sáp (trúc trắc) áo (sâu xa) diễn (tươi tốt), phần lớn noi theo phong cách của chư tử đời Tiên Tần về trước, Cấp trủng trụy giản , văn tự trên ván, bia đời Lưỡng Hán và Phong thiện ký của Mã Đệ Bá .” Lại nói: “Còn phỉ (tấm tức) trắc (xót xa) trầm (thâm trầm) chí (mạnh mẽ) tựa như Chấn Xuyên .”

Trước tác văn học của Trân còn lại ngày nay:

Ngoài ra trong thời gian để tang mẹ (Lê mẫu mất năm 1840), Trân biên soạn Mẫu giáo lục.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trịnh Trân** (chữ Hán: 郑珍, 1806 – 1864), tên tự là **Tử Doãn**, vãn hiệu **Sài Ông**, biệt hiệu **Tử Ngọ sơn hài**, **Ngũ Xích đạo nhân**, **Thư Đồng đình trưởng**, người huyện Tuân Nghĩa,
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
thumb|Nhiếp chính vương [[Tải Phong - thân sinh của Tuyên Thống Đế.]] Triều đại nhà Thanh của Trung Quốc đã phát triển một hệ thống xếp hạng quý tộc rất phức tạp. Tất cả các
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Lý Hóa Long** (chữ Hán: 李化龍; ?-1789) là một võ tướng của triều đình nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, chiếm được các trại Cố Bốc Tế (固卜濟), Mã Nhĩ Địch Khắc (瑪爾迪克). Sau
**Doãn Kế Thiện** (chữ Hán: 尹继善; ; 1695 – 1771), tên tự là **Nguyên Trường** (元長), cuối đời tự đặt hiệu **Vọng Sơn** (望山), người thị tộc Chương Giai (Janggiya Hala), dân tộc Mãn Châu,
**Phùng Quang Hùng** (chữ Hán: 冯光熊, ? – 1801), tự **Thái Chiêm**, người Gia Hưng, Chiết Giang, quan viên nhà Thanh. ## Khởi nghiệp và thăng tiến Năm Càn Long thứ 12 (1747), Quang Hùng
**Hòa Lâm** (chữ Hán: 和琳, , 1753 – 1796), tự **Hi Trai**, thất danh **Vân Hương đường** (芸香堂), Nữu Hỗ Lộc thị, thuộc Mãn Châu Chính Hồng kỳ, quan viên, tướng lãnh nhà Thanh. Ông
**Hà Cảnh** (chữ Hán: 何璟, ? – 1888), tự **Tiểu Tống**, người Hương Sơn, Quảng Đông , quan viên cuối đời Thanh. Trong chiến tranh Pháp – Thanh, ông đang ở chức Mân Chiết tổng
**Phạm Văn Trình** (chữ Hán: 范文程, 1597 – 1666), tự là **Hiến Đấu** (憲斗), sinh quán là Thẩm Dương vệ (nay là Thẩm Dương, Liêu Ninh), nguyên quán là Lạc Bình, Giang Tây, quan viên,
**Trần Sỹ Thanh** (sinh năm 1971) là chính khách Việt Nam. Ông hiện đang là Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành uỷ Hà Nội, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố
**Trần Lập** (chữ Hán: 陈立) là học giả đời Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Trần Lập (sinh năm 1809 – mất năm 1869 ) tự **Trác Nhân**, hiệu **Mặc Trai**, người
**Trần Tiễn Thành** (chữ Hán: 陳踐誠, 1813-1883), trước có tên là **Dưỡng Độn**, sau kỵ quốc úy đổi là **Thời Mẫn**, sau nữa được vua Tự Đức ban tên là **Tiễn Thành**, hiệu là **Tốn
**Trận kinh thành Huế năm 1885** là một sự kiện chính trị, một trận tập kích của quân triều đình nhà Nguyễn do Tôn Thất Thuyết chỉ huy đánh vào lực lượng Pháp. Sự kiện
Tượng đài Trần Văn Thành tại thị trấn Cái Dầu ([[Châu Phú, An Giang)]] **Trần Văn Thành** (1820 - 1873) còn được gọi là **Quản cơ Thành** (theo triều Nguyễn), Đức Cố Quản (tín đồ
**Trần Văn Thanh** (sinh ngày 25 tháng 10 năm 1953) là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với quân hàm Thiếu tướng. Ông từng là Giám đốc Công an
**Trấn Hải thành** (chữ Hán: 鎮海城, _thành trấn giữ biển_) là một thành lũy được vua Gia Long xây dựng vào năm 1813 tại cửa Eo (còn gọi là cửa Lấp, trước đây gọi là
**Vương Quân** (chữ Hán: 王筠, 1784 – 1854), tự **Quán Sơn**, người An Khâu, Sơn Đông, học giả đời Thanh. Ông là 1 trong 4 danh gia đời Thanh chú giải Thuyết văn giải tự
**Lưu Nguyên** (chữ Hán: 刘源, ? – ?), tự **Bạn Nguyễn**, người Tường Phù, Hà Nam, là họa sĩ, nhà thiết kế mỹ thuật công nghệ cung đình đời Thanh. Ông từng thiết kế gốm
**Tăng Hòa** (chữ Hán: 曾鉌; 1839 – 1901), tự **Hoài Thanh** (懷清) hay **Hòa Thục** (和淑), người thị tộc Hỷ Tháp Lạp thuộc Mãn Châu Chính Bạch kỳ, là quan viên cuối đời Thanh trong
**Trịnh Tùng** (chữ Hán: 鄭松, 19 tháng 12 năm 1550 – 17 tháng 7 năm 1623), thụy hiệu **Thành Tổ Triết Vương** (成祖哲王), là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới
**Trận Ngọc Hồi – Đống Đa** (hay **Chiến thắng Kỷ Dậu**) là tên gọi do các nhà sử học Việt Nam dành cho loạt trận đánh chống ngoại xâm thắng lợi của nước Đại Việt
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Trịnh Kinh** (chữ Hán phồn thể: 鄭經; giản thể: 郑经; bính âm: Zhèng Jìng) (1642 – 1681), tên **Cẩm**, tự **Hiền Chi**, **Nguyên Chi**, hiệu **Thức Thiên**, biệt danh **Cẩm Xá**, là con trưởng của
**Lý Tự Thành** (李自成) (1606-1645) nguyên danh là **Hồng Cơ** (鴻基), là nhân vật thời _"Minh mạt Thanh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa và cuộc đời của Lý Tự Thành gắn
**Trần Viên Viên** (1624-?) là một kỹ nữ nổi danh trong lịch sử Trung Quốc có tự **Uyển Phân** (畹芬), vợ lẽ của danh tướng Sơn Hải quan Ngô Tam Quế. Đồng thời cũng bị
**Trịnh Chi Long** (; 16 tháng 4 năm 1604 – 24 tháng 11 năm 1661), hiệu **Phi Hồng**, **Phi Hoàng**, tiểu danh **Iquan**, tên Kitô giáo là **Nicholas** hoặc **Nicholas Iquan Gaspard**, người làng Thạch
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp
**Xung đột biên giới Nga – Thanh (1652 - 1689)** là một loạt các vụ đụng độ vũ trang giữa nhà Thanh, với sự trợ giúp từ nhà Triều Tiên, và Sa quốc Nga, tranh
**Trần Thiện Thanh** (12 tháng 6 năm 1942 – 13 tháng 5 năm 2005) là một trong những nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng nhất giai đoạn trước 1975. Một số bút hiệu khác của
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
nhỏ|Các binh sĩ Trung Quốc vào khoảng 1899-1901. Trái: hai lính Tân quân. Trước: một chỉ huy Lục doanh quân. Ngồi trên thân cây: pháo thủ. Phải: Binh sĩ Nghĩa hòa đoàn.|348x348px **Tân quân **(phồn
thumb|[[Al-Masjid an-Nabawi ở Medina, một trong những nhà thờ Hồi giáo linh thiêng nhất]] **Thánh đường Hồi giáo**, **giáo đường Hồi giáo** hay **nhà thờ Hồi giáo** ( — , số nhiều: _masājid_, — ;
**Trường Trung học phổ thông Trần Phú** là một trường trung học phổ thông công lập tọa lạc tại Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập chính thức vào năm 1981. Với tên gọi
**Thị trấn nhà thờ Gammelstad** () là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận nằm tại Gammelstaden, gần thành phố Luleå, Thụy Điển, ở cuối phía bắc của vịnh Bothnia. Đây là ví
Dưới triều nhà Thanh (1644-1911), đã xảy ra hai vụ án lớn có liên quan đến văn tự, làm liên lụy nhiều người, đó là **vụ án Minh Sử** và **vụ án Điềm kiềm ký
**Trần Thế Quan** (chữ Hán: 陈世倌, ? – 1758), tự **Bỉnh Chi**, người Hải Ninh, Chiết Giang, quan viên nhà Thanh. ## Thời Khang Hi Cha là Trần Sân, làm đến Lễ bộ Thượng thư,
**Trịnh Huyền** (chữ Hán: 鄭玄; năm 127– tháng 7 năm 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành (chữ Hán: 康成), ông nổi danh là một đại sư về Kinh Dịch,
**Trận Sarhū** hay **Trận Tát Nhĩ Hử** (chữ Hán: 薩爾滸之戰; _Tát Nhĩ Hử chi chiến_) đề cập đến một loạt các trận đánh giữa quân Hậu Kim (tiền thân của nhà Thanh) và liên quân
**Trịnh Khắc Sảng** (chữ Hán: 鄭克塽, bính âm: _Zhèng Kèshuǎng_; 18 tháng 3 năm 1670 - 22 tháng 9 năm 1717), húy là **Tần** (秦), tự **Thực Hoằng** (實弘), hiệu **Hối Đường** (晦堂) là con
**Trận Yển Thành** () diễn ra vào năm 1140 tại khu vực nằm gần địa cấp thị Tháp Hà, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc ngày nay giữa quân đội nhà Tống và quân đội nhà
Công ty Phương Trân được thành lập dựa trên cơ sở những thành viên có nhiều kinh nghiệm hoạt động trong nhiều lĩnh vực dịch vụ và nghành nghề chuyên môn. Với mong muốn đem
Công Ty Cổ Phần Thương Mại Dịch Vụ Phương Trân được thành lập dựa trên cơ sở những thành viên có nhiều kinh nghiệm hoạt động trong nhiều lĩnh vực dịch vụ và nghành nghề
thumb|Ảnh chụp tuyển tú nữ thời cuối triều Thanh. Các tú nữ độ tuổi rất nhỏ, trên ngực đều đeo _Lược đầu bài_ báo danh theo quy định. **Thanh cung tuyển tú** (chữ Hán: 清宮選秀),
**Nhà Hậu Kim** (1616–1636) là một triều đại Trung Quốc được thành lập bởi thủ lĩnh Kiến Châu Nữ Chân Nỗ Nhĩ Cáp Xích ở Mãn Châu trong khoảng thời gian 1616-1636, và là tiền
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
✅CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI: Với công nghệ sợi chia sáng tạo, nó trở nên tích điện khi bạn sử dụng, dễ dàng thu hút bụi, phấn hoa, tóc, sợi lông… Sử dụng ướt hoặc khô
**Trịnh Hiếu Tư** (, Wade–Giles: Cheng Hsiao-hsu; 2 tháng 4 năm 1860 – 28 tháng 3 năm 1938), là nhà chính trị, ngoại giao và nhà thư pháp người Trung Quốc. ## Thời trẻ và