Lý Hóa Long (chữ Hán: 李化龍; ?-1789) là một võ tướng của triều đình nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, chiếm được các trại Cố Bốc Tế (固卜濟), Mã Nhĩ Địch Khắc (瑪爾迪克). Sau đó trong các trận đánh Lộ Đính Tông (路頂宗), Minh Quách Tông (明郭宗) Lý Hoá Long lần nào cũng lập nhiều công lao. Tháng 3 năm 1773 (năm Càn Long thứ 38), Lý Hoá Long chỉ huy pháo binh quân Thanh đánh Tích Lãnh (昔嶺). Trong chiến dịch bình Tiểu Kim Xuyên, Lý Hoá Long chỉ huy đánh A Cát Nhĩ Bố Lý (阿噶爾 布里), Biệt Tư Mãn (別斯滿), tiếp đó, ông theo đô thống Hải Lan Sát đánh lên sống núi Đâu Ô (兜烏), liên tiếp chiếm được các trại Lộ Đính Tông, Minh Quách Tông, lấy được Mỹ Nặc (美諾).
Trong chiến dịch đánh Đại Kim Xuyên, ông theo Hải Lan Sát đánh Lạt Mục Lạt Mục, trong trận này, ông bị thương vì súng bắn đá nên được ban cho áo giáp bằng bông. Trước sau tiến đánh chiếm được Tốn Khắc Nhĩ Tông, Cách Lỗ Cổ (格魯古), Quần Ni (群尼), Mộc Tư Công Cát Khắc (木思工噶克), trúng đạn bị thương nên được ban cho mũ lông công. Sau khi bình Kim Xuyên, Lý Hóa Long được thăng lên Tả dực Tổng binh tỉnh Quảng Đông. Tổng cộng trong cuộc chiến tại Tây Tạng, ông từng bị thương đến hai lần nhưng vẫn một lòng báo quốc.
Trong cuộc chiến với Đài Loan: Lý Hoá Long chỉ huy binh Quảng Đông tới cửa biển Lộc Tử (鹿仔), theo lệnh Tổng binh Phổ Cát Bảo (普吉保) và đóng quân lại đây. Khi Lâm Sảng Văn tấn công Chư La (諸羅), Lý Hoá Long bí mật sai du kích Mục Đằng Ngạch (穆騰額) dẫn binh từ rạch Phan Tử (番仔) sang khe Đại Đỗ (大肚) làm nghi binh, còn mình đích thân dẫn binh bí mật di chuyển qua Bùi Khởi Ngao (裴起鰲) từ núi Bát Quái đánh xuống, trong trận chiến này, tuy bị đối phương vây chặt nhưng Lý Hóa Long chiến đấu hết sức dũng cảm khiến đối thủ phải rút lui.
Năm 1788 (Càn Long thứ 53), Lý Hóa Long được điều động sang Việt Nam với chức vụ là Tổng binh chỉ huy quân Quảng Đông và làm phụ tá cho Trương Triều Long đánh quân Tây Sơn. Ông đã lập nhiều công lao trên đường tiến quân vào Thăng Long. Đầu năm 1789, khi quân Tây Sơn phản công, Lý Hóa Long được giao nhiệm vụ theo bảo vệ Tôn Sĩ Nghị rút chạy, nhưng đã tử trận do rơi xuống sông Hồng chết đuối khi cầu phao bị đứt
Quá trình tham chiến tại Đại Việt
Trận vượt sông Thị Cầu
Cuối năm 1788, vua Càn Long ra lệnh cho Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy quân Thanh kéo vào Đại Việt để trấn áp quân Tây Sơn theo yêu cầu của vua Lê Chiêu Thống. Ngày 28 tháng 11 năm 1788, với lực lượng đông đảo và trang bị tốt, quân Thanh nhanh chóng tiến vào Đại Việt theo các hướng khác nhau. Lý Hóa Long làm phó tướng cho Trương Triều Long chỉ huy đạo quân Quảng Đông, đây là đạo quân chủ lực gồm các đơn vị bộ binh huy động được từ tỉnh Quảng Đông kéo vào Việt Nam theo hướng cửa ngõ biên giới tỉnh Tuyên Quang. Sau khi tiến quân đến sông Thị Cầu, Trương Triều Long cho để lại 500 quân chặn giữ cửa sông, đem 1500 quân tiến lên trước, sai các thổ dân dẫn đường, Tôn Sĩ Nghị lại sợ quân đi quá ít nên sai tổng binh Lý Hóa Long đem thêm 500 quân đi tiếp ứng. Quân Thanh vượt sông Thị Cầu và đánh lui cánh quân Tây Sơn do Nội hầu Phan Văn Lân chỉ huy án ngữ ở đây để nhanh chóng tiến về Thăng Long để hội quân với các đạo khác. Trong trận này, Lý Hóa Long đã lập được công lớn, góp phần vào chiến thắng của quân Thanh. Theo báo cáo của quân Thanh, trận này quân Tây Sơn bị chết 423 người và bị tịch thu 314 khẩu đại pháo (Tôn Sĩ Nghi phao tin là hơn 1000 người chết, hơn 500 bị bắt).
Chiếm Thăng Long
Sau khi chiếm được kinh thành Thăng Long, quân Thanh tạm dừng tiến công và đóng trú quân tại khu vực này. Quân Thanh bố trí lực lượng của mình thành năm cụm cứ điểm lớn gồm:
Cụm thứ nhất là đạo quân chủ lực do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp chỉ huy, đóng trại ở Bồ Đề, đại bản doanh đóng ở cung Tây Long của thành Thăng Long.
Cụm thứ hai do Đề đốc Hứa Thế Hanh là phó tướng, đóng ở Hà Hồi và Ngọc Hồi.
Cụm thứ ba là quân Điền Châu và Triều Châu do Tri phủ Sầm Nghi Đống chỉ huy đóng ở Khương Thượng, Đống Đa (Hà Nội).
Cụm thứ tư là cánh quân Vân Quý do Đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy đóng ở Sơn Tây, (Hà Tây, Hà Nội).
Cụm thứ năm là quân Khâm Châu theo đường biển tiến vào đóng ở Hải Dương.
Lý Hóa Long được bố trí ở cụm quân thứ hai đồn trú tại Ngọc Hồi. Trong các cụm quân này, ngoài cụm quân chủ lực do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy, thì cánh quân do Hứa Thế Hanh chỉ huy là đáng lưu ý nhất. Với quân số khoảng ba đến bốn vạn, đây là một bộ phận quan trọng trong đạo quân chủ lực của Tôn Sĩ Nghị gồm nhiều đội kỵ binh người Mãn của Đạo kỵ binh Lưỡng Quãng, những đội hỏa pháo, hai đội bộ binh chính quy của Tổng binh Thượng Duy Thăng và Tổng binh Trương Triều Long. Quân lính được trang bị vũ khí tốt bao gồm các loại vũ khí lạnh như gươm, đao, kiếm, thương, giáo, mộc, cung tên còn được trang bị các loại hỏa khí như địa lôi, súng tay, đại bác và hỏa hổ. Đạo quân chủ lực này gồm số quân lính Quảng Đông và Quảng Tây dưới sự chỉ huy của Tổng binh Thượng Duy Thăng và Phó tướng Khánh Thành đốc suất quân lính Quảng Tây. Tổng binh Trương Triều Long và Tổng binh Lý Hóa Long đốc suất binh lính Quảng Đông.
Trong trận Ngọc Hồi
Quân Tây Sơn bỏ Thăng Long, lui về giữ Tam Điệp (Ninh Bình - Thanh Hóa), sau đó thừa lúc quân Thanh đang trễ nhác, an nghỉ ăn chơi, Vua Quang Trung đích thân dẫn đầu mười vạn quân chia là năm đạo cùng bốn vị đô đốc chỉ huy thần tốc tiến ra Bắc. Sau khi quân Tây Sơn tấn công mãnh liệt và chiếm được Ngọc Hồi trước đó là Hà Hồi, Lý Hóa Long theo Trương Triều Long bỏ đồn rút về tuyến sau theo hướng Quỳnh Đô - Văn Điển. Dọc đường rút chạy bị quân Tây Sơn do Đô Đốc Bảo phục kích tại Đầm Mực, Tổng binh Trương Triều Long bị trúng lao chết, Lý Hóa Long chạy thoát về đến doanh trại chính. Sau đó, Lý Hóa Long được Tôn Sĩ Nghị giao nhiệm vụ chỉ huy một đạo quân đóng ở phía Nam sông Hồng đề bảo vệ mé nam của kinh thành Thăng Long và cũng là bảo vệ đường rút lui của quân Thanh việc này đã đặt quân Thanh mà trực tiếp là đạo binh do Lý Hóa Long chỉ huy vào trạng thái "rắn mất đầu", như ong vỡ tổ, mất sự chỉ huy, dẫn đến rối loạn hành động vô tổ chức và tán loạn. Tình hình hỗn loạn đến mức tổng binh Lý Hóa Long dẫn tùy tùng chạy qua cầu phao để theo Tôn Sĩ Nghị nhưng đến giữa cầu phao lại xô xát và đẩy quân lính xuống sông. Đồng thời Tôn Sĩ Nghị tàn nhẫn ra lệnh cho Khánh Thành chặt đứt cầu phao để tránh sự tuy đuổi khiến cho ông cùng số quân này cả người lẫn ngựa rơi xuống sông Nhĩ Hà (sông Hồng) và bị chết đuối. Hoàng Lê nhất thống chí chép lại như sau: "Quân sĩ các doanh trại nghe tin đều hoảng loạn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu, sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống sông chết rất nhiều". Có ý kiến còn cho rằng, khi vượt cầu phao qua sông, bị quân Tây Sơn truy đuổi nên hoảng loạn và rơi xuống sông và chết đuối.
Mặc dù không chết trong các cuộc giao chiến nhưng suy cho cùng cái chết của ông vẫn là chết trận, ngã xuống ở sa trường, có thể được xem như vinh dự của một võ tướng thân chinh bách chiến. Cái chết của ông một phần do sự hèn nhát và tàn nhẫn của Tôn Sĩ Nghị. Sau khi chạy về Trung Quốc, Tôn Sĩ Nghị tâu với vua Càn Long về diễn biến và kết quả của trận chiến, trong đó có giải thích về cái chết của Lý Hóa Long như sau: "Thần (Tôn Sĩ Nghị) phá vòng vây, tiến thẳng tới cầu nổi, ra lệnh Tổng binh Lý Hóa Long qua sông để chiếm lấy bờ phía bắc. Lý Hóa Long đi đến giữa cầu chẳng may trượt chân rơi xuống nước". Sau khi cứu xét công trạng, Lý Hoá Long được phong làm Kỵ Đô Uý.
**Lý Hóa Long** (chữ Hán: 李化龍; ?-1789) là một võ tướng của triều đình nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, chiếm được các trại Cố Bốc Tế (固卜濟), Mã Nhĩ Địch Khắc (瑪爾迪克). Sau
**Lý Hóa Long** (chữ Hán: 李化龙, 1555 – 1624), tên tự là **Vu Điền**, người huyện Trường Viên, phủ Đại Danh, hành tỉnh Bắc Trực Lệ , là quan viên, tướng lãnh trung kỳ đời
**Thủ tướng Đế quốc Đại Thanh** (, _Nội các Tổng lý Đại thần_) là chức vụ đại thần đứng đầu nội các triều đình nhà Thanh đầu thế kỷ XX. Chức vụ được thành lập
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
**Lý Chấn Phiên**, thường được biết đến với nghệ danh **Lý Tiểu Long** (tiếng Trung: 李小龍, tiếng Anh: _Bruce Lee,_ 27 tháng 11 năm 1940 – 20 tháng 7 năm 1973), là một cố võ
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Huyền thoại Lý Tiểu Long** hay **Legend of Bruce Lee** là bộ phim truyền hình võ thuật Trung Quốc được hoàn thành vào năm 2008 dựa trên câu chuyện có thật về cuộc đời của
thumb|Nhiếp chính vương [[Tải Phong - thân sinh của Tuyên Thống Đế.]] Triều đại nhà Thanh của Trung Quốc đã phát triển một hệ thống xếp hạng quý tộc rất phức tạp. Tất cả các
**Bác Lạc** (, chữ Hán: 博洛, 1613 – 23 tháng 4 năm 1652), Ái Tân Giác La, là một Thân vương, một nhà quân sự thời kỳ đầu của nhà Thanh trong lịch sử Trung
**Lý Hiển Long** (tên tiếng Anh: **Lee Hsien Loong**, , sinh ngày 10 tháng 2 năm 1952) là Thủ tướng thứ ba của Singapore. Lý Hiển Long là con cả của thủ tướng đầu tiên
**Doãn Kế Thiện** (chữ Hán: 尹继善; ; 1695 – 1771), tên tự là **Nguyên Trường** (元長), cuối đời tự đặt hiệu **Vọng Sơn** (望山), người thị tộc Chương Giai (Janggiya Hala), dân tộc Mãn Châu,
**Lôi Hoành** (chữ Hán: 雷鋐, 1697 – 1760), tên tự là **Quán Nhất**, người Ninh Hóa, Phúc Kiến, là quan viên nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Học vấn Hoành làm chư sanh,
**Đồng Hoa** (chữ Hán: 童华, ? - ?), tự **Tâm Phác**, người Sơn Âm, Chiết Giang , quan viên nhà Thanh. Ông được sử cũ xếp vào nhóm quan viên địa phương có thành tích
**Mộng Lân** (, chữ Hán: 梦麟, 1728 – 1758), tên tự là **Văn Tử**, tự khác là **Thụy Chiêm**, người thị tộc Tây Lỗ Đặc, dân tộc Mông Cổ, thuộc Mông Cổ Chính Bạch kỳ,
**Phùng Quang Hùng** (chữ Hán: 冯光熊, ? – 1801), tự **Thái Chiêm**, người Gia Hưng, Chiết Giang, quan viên nhà Thanh. ## Khởi nghiệp và thăng tiến Năm Càn Long thứ 12 (1747), Quang Hùng
**Hòa Thạc Thân vương** (和硕亲王) gọi tắt **Thân vương** (亲王) là tước vị cao nhất dành cho tông thất nhà Thanh và quý tộc bộ Hồi, đồng thời là tước vị hạng thứ 2 cho
**Trịnh Trân** (chữ Hán: 郑珍, 1806 – 1864), tên tự là **Tử Doãn**, vãn hiệu **Sài Ông**, biệt hiệu **Tử Ngọ sơn hài**, **Ngũ Xích đạo nhân**, **Thư Đồng đình trưởng**, người huyện Tuân Nghĩa,
**Tiền Phong** (chữ Hán: 钱灃/钱沣, 1740 – 1795 ), tự **Đông Chú**, hiệu **Nam Viên**, người Côn Minh, Vân Nam, quan viên nhà Thanh. ## Khởi nghiệp Năm Càn Long thứ 36 (1771), Phong đỗ
**Trần Thái** (chữ Hán: 陈泰, ? – 1655), người thị tộc Nữu Hỗ Lộc, thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, quan viên, tướng lĩnh nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông
**Trường Thanh** (chữ Hán: 長清, ? – 1837), người thị tộc Nữu Hỗ Lộc (Niohuru hala) thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, quan viên nhà Thanh. ## Thân thế Thị tộc Nữu Hỗ Lộc là
**Y Tịch** (chữ Hán: 伊闢 hay 伊辟 ), tự Lư Nguyên, người huyện Tân Thành, Sơn Đông , quan viên đầu đời Thanh. ## Thời Thuận Trị Năm 1648 (thời Thuận Trị), Tịch đỗ đầu
**Thanh Cao Tông** (chữ Hán: 清高宗, , 25 tháng 9 năm 1711 – 7 tháng 2 năm 1799), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng Đế** (文殊皇帝), là Hoàng đế thứ sáu của Nhà Thanh
**Long Xuyên** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh An Giang, vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Long Xuyên cũng từng là tỉnh lỵ của tỉnh Long Xuyên cũ trước năm 1956.
**Lý Liên Anh** (chữ Hán giản thể: 李连英; phồn thể: 李連英; bính âm: Lǐ Liányīng; sinh ngày 12 tháng 11 năm 1848 - mất ngày 4 tháng 3 năm 1911) là một thái giám trong
**Phùng Mộng Long** (馮夢龍; 1574–1646) sinh vào năm thứ 2 thời Vạn Lịch triều Minh và mất thời Thuận Trị triều Thanh, là tác giả của tiểu tuyết nổi tiếng _Đông Chu liệt quốc_. Trước
nhỏ|Hoàng Việt **Hoàng Việt** (chữ Hán: 黄钺, 1750 – 1841), tự **Tả Điền** (左田), hiệu **Tả Quân** (左君), **Manh Tả** (盲左), người huyện Đương Đồ, phủ Cưu Châu, tỉnh An Huy , quan viên, nhà
**Huyện tự trị dân tộc Hồi-Hóa Long** (, Hán Việt:_Hóa Long Hồi tộc tự trị huyện_) là một đơn vị hành chính của địa khu Hải Đông, tỉnh Thanh Hải, Trung Quốc. ### Trấn
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Hòa Thân** (tiếng Trung: 和珅, bính âm: Héshēn; ; 1 tháng 7 năm 1750 - 22 tháng 2 năm 1799), còn được gọi là **Hòa Khôn**, tự **Trí Trai** (致齋),, hiệu **Gia Nhạc Đường** (嘉樂堂),
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
**Nhà công vụ** là nhà được phân cho người đang làm việc công (thường là người có chức quyền hoặc cán bộ công nhân viên chức hoặc người có nhiệm vụ đặc thù), dùng để
nhỏ|500x500px|Bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hóa năm 2015 **Thanh Hóa** là một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Lịch sử hành chính Thanh Hóa phản ánh quá trình thay đổi địa danh
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Mông Cổ thuộc Thanh** (chữ Hán: 清代蒙古), còn gọi là **Mông Cổ Minh kỳ** (蒙古盟旗), là sự cai trị của nhà Thanh của Trung Quốc trên thảo nguyên Mông Cổ, bao gồm cả bốn aimag
**Xung đột biên giới Nga – Thanh (1652 - 1689)** là một loạt các vụ đụng độ vũ trang giữa nhà Thanh, với sự trợ giúp từ nhà Triều Tiên, và Sa quốc Nga, tranh
**Người Hoa Indonesia** () hoặc (tại Indonesia) chỉ gọi đơn thuần là **Trung Hoa** () là sắc tộc có nguồn gốc từ những người nhập cư trực tiếp từ Trung Quốc hoặc gián tiếp từ
**Lý Tự Thành** (李自成) (1606-1645) nguyên danh là **Hồng Cơ** (鴻基), là nhân vật thời _"Minh mạt Thanh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa và cuộc đời của Lý Tự Thành gắn
**Lý Long Tường** (chữ Hán: 李龍祥, tiếng Hàn: 이용상 / **Yi Yong-sang**) là **Hoa Sơn Quân** (chữ Hán: 花山君, tiếng Hàn: 화산군 / **Hwa-san gun**) nước Cao Ly (ngày nay là Đại Hàn Dân quốc
**Trịnh Chi Long** (; 16 tháng 4 năm 1604 – 24 tháng 11 năm 1661), hiệu **Phi Hồng**, **Phi Hoàng**, tiểu danh **Iquan**, tên Kitô giáo là **Nicholas** hoặc **Nicholas Iquan Gaspard**, người làng Thạch
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Anh Hòa** (chữ Hán: 英和, 1771 - 1840), ban đầu tên **Thạch Đồng** (石桐), tự Thụ Cầm (樹琴), Hú Trai (煦斋), hiệu Định Phố (定圃), Mộng Thiện Cư sĩ (梦禅居士), Chức Tẩu (脀叟), biệt hiệu
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
**Thuận Hóa** (順化) là địa danh hành chính cũ của vùng đất bao gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng và phía bắc Quảng Nam. Đây nguyên là đất các châu Bố Chính, Địa
nhỏ|phải|Người Hoa ở Sài Gòn vào đầu thế kỷ 20 Người gốc Hoa sống tại Thành phố Hồ Chí Minh tập trung ở quận 5, quận 6, quận 8, quận 10 và quận 11. Theo
Dưới triều nhà Thanh (1644-1911), đã xảy ra hai vụ án lớn có liên quan đến văn tự, làm liên lụy nhiều người, đó là **vụ án Minh Sử** và **vụ án Điềm kiềm ký
**Lý Nhật Quang** (chữ Hán: 李日㫕) (995-1057) là một hoàng tử và quan nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông được nhân dân vùng Nghệ Tĩnh tôn làm bậc Thánh và lập đền thờ