Trần Thái (chữ Hán: 陈泰, ? – 1655), người thị tộc Nữu Hỗ Lộc, thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, quan viên, tướng lĩnh nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
Thân thế
Ông nội là Ngạch Diệc Đô - 1 trong 5 trọng thần của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích.
Cha là Triệt Nhĩ Cách - con trai thứ ba của Ngạch Diệc Đô, truyện của ông được chép phụ vào truyện của em trai Đồ Nhĩ Cách.
Triệt Nhĩ Cách từ sớm đã theo Nỗ Nhĩ Cáp Xích chinh chiến, thụ thế chức "Kỵ đô úy" , phong Tam đẳng A Đạt Cáp Cáp Phiên . Năm 1625, có công chinh chiến Ngõa Nhĩ Khách Bộ tấn Tam đẳng Ngang bang Chương kinh. Năm 1626, nhậm Đô thống Mãn Châu Tương Bạch kỳ. Năm 1631, nhậm Thừa chính của Hình bộ. Năm 1640 nhậm Thừa chính của Hộ bộ. Năm 1643 thụ thế chức Ngưu lộc Chương kinh. Mất cùng năm 1645.
Sử cũ không cho biết Trần Thái có bao nhiêu anh em, chỉ ghi nhận 2 người là Pháp Cố Đạt, Lạp Cáp Đạt; hơn nữa cũng không nói rõ thứ tự của ông. Pháp Cố Đạt được nhận thế chức của cha; Lạp Cáp Đạt có truyện riêng.
Cuộc đời
Thời Hoàng Thái Cực
Ban đầu Trần Thái được thụ chức Ba Nha Lạt Giáp lạt Chương kinh , tham gia đánh nhà Minh, tấn công Cẩm Châu, đánh tan quân cứu viện từ Ninh Viễn. Trần Thái đi trước, xông thẳng vào trận địch, chém người cầm cờ, lấy cờ đem về.
Năm Thiên Thông thứ 3 (1629), Trần Thái theo Hoàng Thái Cực đánh nhà Minh, uy hiếp Yên Kinh, đóng đồn bên ngoài cửa Đức Thắng, tấn công lũy của Viên Sùng Hoán, trúng mai phục, hăng hái chiến đấu, chạy thoát trở về, còn lấy được nhiều quắc (tai hay tay của địch).
Năm thứ 5 (1631), Trần Thái tham gia Trận Đại Lăng Hà, Giám quân đạo Trương Xuân của Minh đến cứu viện, ông mai phục, bắt được lính tuần canh của địch, quay lại để đem bộ quân đến đánh, diệt hết kẻ địch.
Năm Sùng Đức đầu tiên (1636), Trần Thái tham gia đánh Triều Tiên, cùng Mai lặc Ngạch chân Tát Mục Thập Khách trong đêm tập kích doanh của Hoàng Châu thủ tướng.
Năm thứ 3 (1638), Trần Thái tham gia đánh nhà Minh, đánh bại quân Minh ở Phong Nhuận, tấn công và đánh hạ doanh của thái giám Phùng Vĩnh Thịnh, tổng binh Hầu Thế Lộc; còn đem 30 binh Ba Nha Lạt đánh bại hơn trăm kỵ binh Minh.
Năm thứ 5 (1640), Trần Thái tham gia vây Cẩm Châu, tấn công Hạnh Sơn, đánh bại quân địch, giành lấy gia súc.
Năm thứ 6 (1641), quân Thanh lại vây Cẩm Châu, Trần Thái tham gia đánh bại quân Minh của Tùng Sơn. Lính Thanh đi kiếm củi, bị quân Minh vây khốn, Trần Thái soái binh ra cứu, bị tập kích phía sau; ông lần lượt phá địch, rồi chiếm được quách ngoài của Cẩm Châu. Trần Thái được trao thế chức Ngưu lục Chương kinh . Gặp ân chiếu, Trần Thái được tiến thêm đến Tam đẳng Tinh Kỳ Ni Cáp Phiên kiêm Bái Tha Lạt Bố Lặc Cáp Phiên của Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, đặc mệnh tiến thế chức làm Nhị đẳng Tinh Kỳ Ni Cáp Phiên .
Năm thứ 10 (1653), Thuận Trị đế cho rằng Hồ Quảng chưa định, phái Đại học sĩ Hồng Thừa Trù tái xuất làm Kinh lược; ông ta đến nhiệm sở, dâng sớ đề nghị kềm chế quân Nam Minh có gốc là nghĩa quân Trương Hiến Trung ở Hồ Nam, đánh dẹp quân Nam Minh có gốc là nghĩa quân Lý Tự Thành ở Hồ Bắc. Vì thế Thuận Trị đế thụ Trần Thái làm Ninh Nam Tĩnh Khấu Đại Tướng quân, cùng bọn Cố sơn Ngạch chân Lam Bái, Tể Tịch Cáp, Ba Nha Lạt Đạo Chương kinh Tô Khắc Tát Cáp cầm binh trấn giữ Hồ Nam.
Năm thứ 11 (1654), Trần Thái lại được thụ chức Lại bộ Thượng thư.
Năm thứ 12 (1655), thủ lĩnh cựu nghĩa quân Đại Tây Tôn Khả Vọng sai tướng là bọn Lưu Văn Tú, Lư Minh Thần, Phùng Song Lễ đem 6 vạn thủy quân chia nhau xâm phạm Nhạc Châu, Vũ Xương. Lưu Văn Tú đem tinh binh tấn công Thường Đức, Trần Thái sai Tô Khắc Tát Cáp đặt mai phục để đợi, Giáp lạt Ngạch chân Hô Ni Nha La Hòa đảm nhiệm tiền phong, bọn Giáp lạt Ngạch chân Tô Bái, Hi Phúc đem thủy quân nghênh chiến, đại quân theo sau. Quân Thanh đánh 3 hiệp đều thắng, quân Nam Minh tiếp tục bày chiến hạm chống lại; bọn Trần Thái phóng hỏa đốt thuyền địch, giành được đại thắng, còn điều riêng một cánh binh đánh bại quân Nam Minh dưới Đức Sơn. Quân Thanh tiến đến Long Dương, gặp 2000 binh Nam Minh kéo tới; quân Thanh hăng hái đánh trả, khiến địch tan chạy. Lư Minh Thần chết đuối, Phùng Song Lễ bị thương, cùng Lưu Văn Tú bỏ trốn. Bọn Trần Thái thu hàng hơn 40 bì tướng, hơn 3000 binh. Luận công, Trần Thái được tiến làm Nhất đẳng Tinh kỳ Ni Cáp Phiên kiêm Tha sa lạt cáp phiên .
Chưa được bao lâu, Trần Thái mất ở trong quân. 1 năm sau, ông được truy thụy "Trung Tương" (忠襄).
Hậu sự
Sau khi quân đội trở về, vào tháng 1 năm sau (1656), Thuận Trị đế đãi tiệc chư tướng, gạt nước mắt rót rượu, truyền dụ bọn học sĩ Ma Lặc Cát, thị vệ Giác La Tháp Đại làm văn tế Trần Thái, khiến chư tướng cho đến thị tòng đều cảm động chảy nước mắt.
Trần Thái được ban lễ Tứ táng, đặt thụy là "Trung Tương" (忠襄). Thời Càn Long, hậu duệ của Trần Thái được định phong Nhất đẳng Tử.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Thái** (chữ Hán: 陈泰, ? – 1655), người thị tộc Nữu Hỗ Lộc, thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, quan viên, tướng lĩnh nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông
**Trần Thái** (chữ Hán: 陈泰, ? – 1470), tên tự là **Cát Hanh**, người Quang Trạch, Phúc Kiến, quan viên nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời Chánh Thống Thái từ nhỏ ở
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Doãn Kế Thiện** (chữ Hán: 尹继善; ; 1695 – 1771), tên tự là **Nguyên Trường** (元長), cuối đời tự đặt hiệu **Vọng Sơn** (望山), người thị tộc Chương Giai (Janggiya Hala), dân tộc Mãn Châu,
thumb|Nhiếp chính vương [[Tải Phong - thân sinh của Tuyên Thống Đế.]] Triều đại nhà Thanh của Trung Quốc đã phát triển một hệ thống xếp hạng quý tộc rất phức tạp. Tất cả các
**Quế Lâm** (chữ Hán: 桂林, ), người thị tộc Y Nhĩ Căn Giác La (Irgen Gioro hala), thuộc Mãn Châu Tương Lam kỳ, là một quan viên, tướng lãnh nhà Thanh. Ông còn là cha
**Trịnh Trân** (chữ Hán: 郑珍, 1806 – 1864), tên tự là **Tử Doãn**, vãn hiệu **Sài Ông**, biệt hiệu **Tử Ngọ sơn hài**, **Ngũ Xích đạo nhân**, **Thư Đồng đình trưởng**, người huyện Tuân Nghĩa,
**Trường Thanh** (chữ Hán: 長清, ? – 1837), người thị tộc Nữu Hỗ Lộc (Niohuru hala) thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, quan viên nhà Thanh. ## Thân thế Thị tộc Nữu Hỗ Lộc là
**Lý Hóa Long** (chữ Hán: 李化龍; ?-1789) là một võ tướng của triều đình nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, chiếm được các trại Cố Bốc Tế (固卜濟), Mã Nhĩ Địch Khắc (瑪爾迪克). Sau
**Hòa Lâm** (chữ Hán: 和琳, , 1753 – 1796), tự **Hi Trai**, thất danh **Vân Hương đường** (芸香堂), Nữu Hỗ Lộc thị, thuộc Mãn Châu Chính Hồng kỳ, quan viên, tướng lãnh nhà Thanh. Ông
**Quảng Linh** (chữ Hán: 廣靈; 1705 – 1739), hay **Quảng Ninh** (廣寧, ), Ái Tân Giác La, là một Tông thất của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Quảng Linh được
**Phùng Quang Hùng** (chữ Hán: 冯光熊, ? – 1801), tự **Thái Chiêm**, người Gia Hưng, Chiết Giang, quan viên nhà Thanh. ## Khởi nghiệp và thăng tiến Năm Càn Long thứ 12 (1747), Quang Hùng
**Vương Kiệt** (chữ Hán: 王杰, 1725 – 1805), tự **Vĩ Nhân**, người Hàn Thành, Thiểm Tây , quan viên nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là trạng nguyên người Thiểm Tây đầu tiên
**Thái Bình** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Thái Bình cũ, Việt Nam. Thành phố Thái Bình là trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, quốc phòng... của tỉnh và
Chiến tranh giữa hai nước Tống–Kim diễn ra vào cuối năm 1161, được phát động bởi Kim đế Hoàn Nhan Lượng. Cuộc chiến này thường được gọi là **trận Thái Thạch** (, _Thái Thạch chi
Lễ hội đền Trần Lễ hội đền Trần **Đền Trần Thái Bình** là một quần thể di tích gồm các đền thờ, lăng mộ thờ các vị vua quan nhà Trần. Đền thờ các vua
**Trần Sâm** (chữ Hán: 陈琛, 1477 – 1545), tên tự là **Tư Hiến**, hiệu là **Tử Phong**, người huyện Tấn Giang, phủ Tuyền Châu , là quan viên, học giả, ẩn sĩ đời Minh trong
**_Mặt trận Thái Bình Dương_** (tiếng Anh: **_The Pacific_**) là một bộ phim truyền hình ngắn tập về đề tài chiến tranh của Mỹ năm 2010 do HBO, Playtone và DreamWorks sản xuất, và được
**Lý Tự Thành** (李自成) (1606-1645) nguyên danh là **Hồng Cơ** (鴻基), là nhân vật thời _"Minh mạt Thanh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa và cuộc đời của Lý Tự Thành gắn
**Trận Thái Châu** (蔡州之战, Thái Châu chi chiến) là cuộc tấn công của liên quân Mông Cổ – Nam Tống nhằm vào Thái Châu , cứ điểm cuối cùng của nhà Kim, diễn ra từ
**Đền thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo** ở số 36 đường Võ Thị Sáu, phường Tân Định, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đây là một ngôi đền có lịch sử ở
**Thái Văn Thành** (sinh ngày 10 tháng 1 năm 1969) là nhà giáo dục, Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Tỉnh ủy viên, Bí thư
**Trần Thị Băng Thanh** (sinh 1938) là một nhà nghiên cứu văn học người Việt Nam. Bà được mệnh danh là "Bà đồ nho" với rất nhiều công trình nghiên cứu, biên soạn, viết sách,
**Lưu Nguyên** (chữ Hán: 刘源, ? – ?), tự **Bạn Nguyễn**, người Tường Phù, Hà Nam, là họa sĩ, nhà thiết kế mỹ thuật công nghệ cung đình đời Thanh. Ông từng thiết kế gốm
**Vương Quân** (chữ Hán: 王筠, 1784 – 1854), tự **Quán Sơn**, người An Khâu, Sơn Đông, học giả đời Thanh. Ông là 1 trong 4 danh gia đời Thanh chú giải Thuyết văn giải tự
**Y Tịch** (chữ Hán: 伊闢 hay 伊辟 ), tự Lư Nguyên, người huyện Tân Thành, Sơn Đông , quan viên đầu đời Thanh. ## Thời Thuận Trị Năm 1648 (thời Thuận Trị), Tịch đỗ đầu
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía nam giáp thủ đô Hà Nội, phía đông giáp tỉnh Bắc Giang và tỉnh
**Trần Thánh Tông** (chữ Hán: 陳聖宗 12 tháng 10 năm 1240 – 3 tháng 7 năm 1290), tên húy **Trần Hoảng** (陳晃) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, trị
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Trần Anh Tông** (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là **Trần Thuyên** (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại
**Thái Nguyên** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Thái Nguyên, nằm bên bờ sông Cầu, là một trong những thành phố lớn ở miền Bắc Việt Nam. Thành phố Thái Nguyên là trung
**Trần Quang Khải** (chữ Hán: 陳光啓; 24 tháng 08 năm 1241 – 26 tháng 7 năm 1294), hay **Chiêu Minh Đại vương** (昭明大王), là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại
**Trần Nhân Tông** (chữ Hán: 陳仁宗, 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh là **Trần Khâm** (陳昑), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Trần nước Đại
**Trần Thái** (chữ Hán: 陳泰; ?-260) là tướng nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ Trần Thái có tên tự là **Huyền Bá** (玄伯), là con đại thần
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
**Trần Thuận Tông** (chữ Hán: 陳順宗 1377 – 30 tháng 4 năm 1400) là vị hoàng đế thứ 12 và cũng là hoàng đế áp chót của triều Trần nước Đại Việt. Ông trị vì
nhỏ|Các binh sĩ Trung Quốc vào khoảng 1899-1901. Trái: hai lính Tân quân. Trước: một chỉ huy Lục doanh quân. Ngồi trên thân cây: pháo thủ. Phải: Binh sĩ Nghĩa hòa đoàn.|348x348px **Tân quân **(phồn
**A Ba Thái** (, chữ Hán: 阿巴泰, 27 tháng 7 năm 1589 - 10 tháng 5 năm 1646), Ái Tân Giác La, người Mãn Châu Chính Lam kỳ, là Hoàng tử và nhà quân sự
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
**Trận Bắc Ninh** hay **Trận Pháp đánh thành Bắc Ninh** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ ngày 7 tháng 3 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng
**Trận Thái Châu** (chữ Hán: 宋金蔡州之战: _Tống Kim Thái Châu chi chiến_) là một trận chiến trong chiến tranh Kim-Tống trong lịch sử Trung Quốc diễn ra từ tháng 10 năm 1161 đến tháng 2
**Mãng Cổ Nhĩ Thái** (, , 1587 – 11 tháng 1 năm 1633), là hoàng tử và một trong Tứ đại Bối lặc thời kỳ đầu nhà Thanh. ## Cuộc đời Mãng Cổ Nhĩ Thái