Bác Lạc (, chữ Hán: 博洛, 1613 – 23 tháng 4 năm 1652), Ái Tân Giác La, là một Thân vương, một nhà quân sự thời kỳ đầu của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
Cuộc sống
Bác Lạc sinh vào giờ Hợi, ngày 4 tháng 3 (âm lịch) năm Minh Vạn Lịch thứ 41 (1613) trong gia tộc Ái Tân Giác La. Ông là cháu nội của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, con trai thứ ba của Nhiêu Dư Mẫn Thân vương A Ba Thái. Mẹ ông là Đích Phúc tấn Nạp Lạt thị.
Thiếu niên lập công thời Hoàng Thái Cực
Năm Thiên Thông thứ 9 (1635), ông theo quân Hậu Kim thảo phạt quân Minh có công. Năm Sùng Đức nguyên niên (1636), ông được phong làm Cố sơn Bối tử.**** Năm thứ 2 (1637), nhậm Nghị chính.
Năm thứ 3 (1638), ông được phong làm Thừa chính Lý phiên viện. Tiếp tục theo đại quân tấn công Ninh Viễn. Sau khi tướng nhà Minh là Tổ Đại Thọ đánh úp quân Thanh, Ba Nha Lạt Đạo Chương kinh Cáp Ninh A và những người khác đã giằng co với quân Minh. Bác Lạc suất quân truy kích, Tổ Đại Thọ lui quân.
Năm thứ 5 (1640), ông theo Tế Nhĩ Cáp Lãng đón Tô Ban Đại đến quy hàng, đánh bại quân Minh, được ban thưởng ngựa tốt. Sau đó ông lại cùng chư Vương luân phiên vây công Cẩm Châu.
Năm thứ 6 (1641), Hồng Thừa Trù đem 13 vạn quân đến cứu viện Cẩm Châu, Bác Lạc cùng A Tế Cách tấn công viện binh, đuổi theo đến Tháp Sơn, thu được quân lương ở Bút Giá sơn; lại cùng với La Lạc Hồn phục kích A Nhĩ Trai bảo, đánh bại các tướng nhà Minh là Vương Phát và Ngô Tam Quế.
Chiến công hiển hách thời Thuận Trị
Năm Thuận Trị nguyên niên (1644), ông theo đại quân nhà Thanh nhập quan, phá tan quân của Lý Tự Thành và được tiến phong làm Đa La Bối lặc. Ông theo Đa Đạc chinh chiến ở Hà Nam, đại phá quân Đại Thuận ở Đồng Quan, và đánh hạ Tây An. Sau khi tách ra khỏi Đa Đạc, ông liên tiếp chiếm được Thường Châu, Tô Châu và Hàng Châu. Minh Lộ vương Chu Thường Phương đầu hàng ở Hàng Châu, trong khi Hoài vương Chu Thường Thanh cũng từ Thiệu Hưng đến hàng. Sau đó, ông tiếp tục đánh hạ Gia Hưng, Ngô Giang, đại phá quân Minh do Ngô Dịch cầm đầu, đánh hạ Giang Âm. Ông được thưởng hai trăm lượng vàng, năm nghìn lượng bạc và một bộ yên ngựa.
Năm thứ 2 (1645), ông suất quân tấn công Giang Âm, nhưng gặp phải sự chống trả quyết liệt của quân dân Giang Âm do Diêm Ứng Nguyên dẫn đầu. Quân Thanh bị giết và bị thương 75 ngàn người. Sau khi Bác Lạc chiếm được thành, đã hạ lệnh "đồ thành", đây là một trong những cuộc tàn sát kinh hoàng của quân Thanh ở Giang Nam sau khji nhập quan (cùng với Dương Châu thập nhật, Gia Định tam đồ)
Năm thứ 3 (1647), ông được phong làm Chinh Nam Đại tướng quân (征南大将军), suất quân đóng giữ Hàng Châu. Nam Minh Lỗ vương Chu Dĩ Hải giám quốc ở Thiệu Hưng, Minh tướng Phương Quốc An đóng quân trú thủ ở bờ phía đông của sông Tiền Đường, hai địa phương cách nhau hơn 200 dặm mà quân Minh lại không có đội thuyền. Lúc ấy, cát sông dâng cao, Cố Sơn Ngạch chân Đồ Lại đốc quân tấn công, Phương Quốc An kinh hãi bèn dẫn quân bỏ trốn, Chu Dĩ Hải cũng chạy trốn đến Đài Châu. Quân Thanh sau đó tiến vào Thiệu Hưng, tiếp tục đánh hạ Kim Hoa, Cù Châu, bình định được các địa phương của Chiết Giang. Minh Đường vương Chu Duật Kiện chiếm Phúc Kiến, Bác Lạc dẫn quân phá Tiên Hà quan, đánh hạ Phổ Thành, Kiến Ninh, Duyên Bình. Chu Duật Kiện chạy đến Đinh Châu, A Tế Cách, Ni Kham và Nỗ Sơn được lệnh suất quân truy đuổi, công phá Đinh Châu, bắt sống Chu Duật Kiện và các Phiên vương. Minh tướng Khương Chính Hi đem theo 2 vạn quân tập kích quân Thanh trong đêm, bị Bác Lạc đánh bại giết toàn bộ. Bác Lạc tiếp tục đánh bại quân Minh ở Phân Thủy quan và đánh hạ Sùng An. Nhóm người Mai Lặc Ngạch chân Trác Bố Thái tấn công Phúc Châu, chặt đầu thống đốc Dương Đình Thanh và những người khác, chiêu hàng 290 người, bao gồm cả Trịnh Chi Long và 110.000 ngựa và bộ binh. Quân đội tiếp tục tiến công và chiếm được Hưng Hóa, Chương Châu và Tuyền Châu. Tháng 11, ông lệnh Ngang Bang Chương kinh Đông Dưỡng Giáp tấn công Quảng Đông, liên tiếp đánh chiếm Triều Châu, Huệ Châu và Quảng Châu, giết chết Chu Duật Việt cùng với các Vương, Thế tử, tất cả hơn 10 người, được phong làm tổng đốc Lưỡng Quảng.
Năm thứ 4 (1647), đại quân khải hoàn trở về, ông được phong làm Đa La Quận vương (多罗郡王).
Năm thứ 5 (1648), ông được ban cho vàng và nhân khẩu theo những thu hoạch trong các cuộc chiến. Cùng với A Tế Cách đề phòng Khách Nhĩ Khách, ông tuần tra đến Đại Đồng thì đại phá quân của phản tướng Khương Tương. Nhờ công lao, ông được ban phong hiệu "Đoan Trọng" (端重), tức Đa La Đoan Trọng Quận vương (多罗端重郡王). Phong hiệu "Đoan Trọng" của Bác Lạc có Mãn văn là 「tob ujen」 hoặc 「jingji 」, nghĩa là "Đoan chính", "Quan trọng".
Năm thứ 6 (1649), tháng giêng, ông cùng với Thạc Tắc giải cứu quân Thanh ở Đại Châu đồng thời đánh hạ thành này. Tháng 3 cùng năm, thuộc tước của Khương Tương là Mã Đắc Thắng dẫn theo 5 ngàn quân tiếp cận quân Thanh từ Bắc Sơn. Bác Lạc dẫn hơn một nghìn kỵ binh tiếp chiến, cùng với Ba Nha Lạt Đạo Chương Kinh Ngao Bái ra sức chặn đánh, đại phá phản quân, giết hơn một nửa, Khương Tướng đóng cổng thành cố thủ không dám ra ngoài. Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn từ Kinh sư chạy đến quân doanh, kiến nghị chiêu hàng, nhân đó, Bác Lạc được phong làm Đoan Trọng Thân vương, được phong làm Định Tây Đại tướng quân.
Sau đó đại quân di chuyển đến Phần Châu, lần lượt đánh hạ các huyện Thanh Nguyên, Giao Thành, Văn Thủy, Từ Câu, Kỳ, chiến đấu ở Bình Dương, Thao Châu và những nơi khác. Bác Lạc lại điều quân đi đánh chiếm Hiếu Nghĩa, liên tiếp giành chiến thắng ở Thọ Dương, Bình Diêu, Liêu Châu, Du Thứ. Anh Thân vương A Tế Cách, Kính Cẩn Thân vương Ni Kham và những người khác bị bao vây Đại Đồng, Tốn Thân vương Mãn Đạt Hải, Khiêm Quận vương Ngõa Khắc Đạt bình định Sóc Châu, Ninh Vũ.
Sau khi Bác Lạc bị triệu hồi về Kinh sư, ông thượng tấu rằng: Mặc dù dần dần thu phục được một số nơi ở Thái Nguyên, Bình Dương, Phần Châu nhưng vẫn còn nhiều nơi chưa chiếm được, chỉ sợ sau khi rút quân, phản tặc liền thừa cơ đánh úp chiếm giữ, thỉnh hạ chỉ cho quân ở lại phòng thủ. Thuận Trị Đế liền nghe theo kiến nghị này.
Sau khi Khương Tương bị giết, ông đã hội quân với Mãn Đạt Hải để đánh hạ Phần Châu, giành lấy các huyện Phục Lam và Vĩnh Ninh, chiến đấu ở Mạnh Thành và Lão Quân miếu, Thao Châu, quét sạch bè đảng dư thừa của Khương Tương và khải hoàn về triều.
Năm Thuận Trị thứ 7 (1650), ông cùng với Mãn Đạt Hải, Ni Kham cùng nhau xử lý sự vụ Lục bộ. Sau đó, ông bị giáng xuống làm Quận vương, thọ 40 tuổi, được truy thụy là "Định" (定), tức Đoan Trọng Định Thân vương'''. Con trai ông là Tề Khắc Tân được tập tước Đoan Trọng Thân vương.
Năm thứ 16 (1659), truy luận việc lúc phân chia di sản của Đa Nhĩ Cổn và chưởng quản Hộ bộ, Thượng thư Đàm Thái lấy việc công làm việc tư, chuyên quyền nhưng Bác Lạc không ngăn cản, do đó cách tước và đoạt thụy của ông.
Mộ phần
Năm Thuận Trị thứ 9 (1650), Bác Lạc qua đời, được truy thụy "Định". Ông được xưng là "Tam Thái vương", mộ phần nằm ở phía Tây Nam mộ phần của cha mình là Nhiêu Dư Mẫn Thân vương A Ba Thái. Viên tẩm của ông có một Thạch bài lâu, phía trong Cung môn có Hưởng điện, phía sau Hưởng điện có năm tòa Bảo đính lớn nhỏ khác nhau. Từ sau khi nhập quan, xung quanh Long Ân tự, phía Đông đến Đàm dụ, phía Nam đến Đáp Lạp dụ, phía Bắc đến Hương dụ, đều do hậu duệ của A Ba Thái "độc chiếm", dần dần xây dựng Vương gia phần ở đây.
Gia quyến
Thê thiếp
- Đích Phúc tấn:
Đông Giai thị (佟佳氏), con gái của Tham lĩnh Lý Sơn (李山).
Nghĩa Thuận Công chúa (义顺公主), tên Lý Ái Thục (李愛淑), con gái của Cẩm Lâm quân Lý Khải Dận (李愷胤) - cháu 4 đời của Triều Tiên Thành Tông. Năm 1650 Đa Nhĩ Cổn phái người sang Triều Tiên cầu hồn, bà được Triều Tiên Hiếu Tông phong làm Nghĩa Thuận Công chúa (義順公主) gả cho Đa Nhĩ Cổn là Kế Phúc tấn. Sau khi Đa Nhĩ Cổn qua đời (cuối năm 1650), bà được cho là tái giá với Bác Lạc làm "Đoan Trọng Vương phi". Năm 1656, Cẩm Lâm quân Lý Khải Dận làm đặc sứ viên đến Bắc Kinh, khóc xin đưa con gái trở về Triều Tiên, Thuận Trị Đế đồng ý, phái Thái tử Thái bảo Cáp Thế Truân hộ tống Công chúa về nước. Công chúa mất năm 1662.
Trắc Phúc tấn: Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị (博尔济吉特氏), con gái của Sách Ni Đặc Quận vương Đằng Cơ Tư (腾机思).
Thứ Phúc tấn:
Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị (博尔济吉特氏), con gái của Nam Ai Tể (男哀济).
Qua Nhĩ Giai thị (瓜尔佳氏), con gái của Phỉ Tân (蜚新).
*Thiếp: Ngô thị (吴氏), con gái của Ngô Đại (吴大).
Con trai
Cát Phổ Thế Hiền (噶普世贤, 1632 - 1634), mẹ là Đích Phúc tấn Đông Giai thị. Chết yểu.
Khố Lộc Khắc (库禄克, 1635 - 1649), mẹ là Đích Phúc tấn Đông Giai thị. Đích thê là Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị, con gái của Bối lặc Xước Nhĩ Tế, em gái của Đích Phúc tấn của Tế Độ, Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu, Thục Huệ phi. Đích thê của Xước Nhĩ Tế là con gái của A Ba Thái, tức chị em gái của Bác Lạc. Vô tự.
Căn Tề Ngân (根齐痕, 1643 - 1646), mẹ là Đích Phúc tấn Đông Giai thị. Chết yểu.
Tháp Nhĩ Nạp (塔尔纳, 1643 - 1657), mẹ là Trắc Phúc tấn Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị. Tháng giêng năm 1657 được phong làm Đa La Quận vương, 2 tháng sau thì qua đời, được truy thụy "Mẫn Tư" (敏思), tức Mẫn Tư Quận vương. Sau bị liên lụy mà cách tước. Đích thê là Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị, con gái của Thai cát Sách Nạp Mộc. Vô tự.
Hòa Đồ Khẩn (和图恳, 1644 - 1647), mẹ là Đích Phúc tấn Đông Giai thị. Chết yểu.
Đặc Tô (特蘇, 1647 - 1653), mẹ là Thứ Phúc tấn Qua Nhĩ Giai thị. Chết yểu.
Lang Trụ (郎柱, 1650 - 1656), mẹ là Thứ Phúc tấn Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị. Chết yểu.
Tề Khắc Tân (齊克新, 1650 - 1661), mẹ là Đích Phúc tấn Đông Giai thị. Năm 1652 tập tước Đoan Trọng Thân vương. Năm 1659 vì bị liên lụy mà hàng tước xuống Bối lặc. Sau khi qua đời được truy thụy "Hoài Tư" (怀思), tức Hoài Tư Bối lặc.
Mãnh Khố (猛库, 1652 - 1655), mẹ là thiếp Ngô thị. Chết yểu.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bác Lạc** (, chữ Hán: 博洛, 1613 – 23 tháng 4 năm 1652), Ái Tân Giác La, là một Thân vương, một nhà quân sự thời kỳ đầu của nhà Thanh trong lịch sử Trung
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
**Mộng Lân** (, chữ Hán: 梦麟, 1728 – 1758), tên tự là **Văn Tử**, tự khác là **Thụy Chiêm**, người thị tộc Tây Lỗ Đặc, dân tộc Mông Cổ, thuộc Mông Cổ Chính Bạch kỳ,
**Quế Lâm** (chữ Hán: 桂林, ), người thị tộc Y Nhĩ Căn Giác La (Irgen Gioro hala), thuộc Mãn Châu Tương Lam kỳ, là một quan viên, tướng lãnh nhà Thanh. Ông còn là cha
**Doãn Kế Thiện** (chữ Hán: 尹继善; ; 1695 – 1771), tên tự là **Nguyên Trường** (元長), cuối đời tự đặt hiệu **Vọng Sơn** (望山), người thị tộc Chương Giai (Janggiya Hala), dân tộc Mãn Châu,
**Bắc Tề Vũ Thành Đế** (北齊武成帝) (537–569), tên húy là **Cao Đam**/**Cao Trạm** (高湛), biệt danh **Bộ Lạc Kê** (步落稽), là hoàng đế thứ tư của triều đại Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Văn Thành Đế** (chữ Hán: 北魏文成帝; 440–465), tên húy là **Thác Bạt Tuấn** (), là hoàng đế thứ năm của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ sau
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
**Hồ hoàng hậu** (chữ Hán: 胡皇后), là hoàng hậu của Bắc Tề Vũ Thành Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Bắc Tề thư và Bắc sử không ghi rõ tên thật của
**Xung đột biên giới Nga – Thanh (1652 - 1689)** là một loạt các vụ đụng độ vũ trang giữa nhà Thanh, với sự trợ giúp từ nhà Triều Tiên, và Sa quốc Nga, tranh
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Mông Cổ thuộc Thanh** (chữ Hán: 清代蒙古), còn gọi là **Mông Cổ Minh kỳ** (蒙古盟旗), là sự cai trị của nhà Thanh của Trung Quốc trên thảo nguyên Mông Cổ, bao gồm cả bốn aimag
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Bắc sử** (北史) là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử do Lý Đại Sư viết về giai đoạn lịch sử từ năm 386 tới 618. Sau khi Lý Đại Sư mất, Lý Diên
Các đoàn [[chèo, nhà hát chèo Việt Nam 2016]] **Nhà hát Chèo Bắc Giang** là đơn vị hoạt động nghệ thuật, có trụ sở tại thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Với lịch sử
**Nhà Hậu Kim** (1616–1636) là một triều đại Trung Quốc được thành lập bởi thủ lĩnh Kiến Châu Nữ Chân Nỗ Nhĩ Cáp Xích ở Mãn Châu trong khoảng thời gian 1616-1636, và là tiền
**Nhạc Nhạc** (, , 16 tháng 10 năm 1625 – 15 tháng 3 năm 1689), hay **Nhạc Lạc** (岳洛) là một Thân vương thời kỳ đầu nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông góp
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp
Theo sự phân chia hành chính ở nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì có ba cấp đô thị, cụ thể: trực hạt thị là thành phố trực thuộc trung ương đồng cấp với
phải|nhỏ|250x250px|Hình ảnh Điện Thái Hòa trong tuyết thumb|Tấm biển trên gác mái của điện Thái Hòa|thế=**Điện Thái Hòa** (chữ Hán: 太和殿; bính âm: _Tài Hé Diàn_, Hán Việt: Thái Hòa điện; Mãn Châu: _Amba hūwaliyambure
thế=|nhỏ|250x250px|Tấm biển Càn Thanh cung với [[chữ Hán ở bên trái và chữ Mãn ở bên phải.]] **Cung Càn Thanh** (chữ Hán: 乾清宫; bính âm: _Qiánqīng gōng_; ) là một cung điện trong Tử Cấm
**Lý Tự Thành** (李自成) (1606-1645) nguyên danh là **Hồng Cơ** (鴻基), là nhân vật thời _"Minh mạt Thanh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa và cuộc đời của Lý Tự Thành gắn
**Quân đội Tây Sơn** là tổ chức vũ trang của Nhà Tây Sơn, xuất phát từ lực lượng nghĩa quân của phong trào nông dân từ năm 1771 cho đến ngày sụp đổ năm 1802.
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
**Quách Lạc La** (, phiên âm tiếng Mãn: Gorolo Hala) còn được dịch là Quách La La (郭啰罗), Quách Nhĩ La (郭尔罗), Quách Bác La (郭博罗) hay Quách Bố La (郭布罗) là một dòng họ
**Chiến tranh Nhật - Thanh** (cách gọi Nhật Bản, ), hay **chiến tranh Giáp Ngọ** (cách gọi Trung Quốc, ) là một cuộc chiến tranh giữa đế quốc Đại Thanh và đế quốc Nhật Bản
**Vu Thành Long** (26 tháng 9 năm 1617 – 31 tháng 5 năm 1684) tự **Bắc Minh** (北溟) hay **Bắc Khê** (北溪),**_' hiệu **Vu Sơn** (於山),_**' là một vị quan thanh liêm nổi tiếng của
nhỏ|Các binh sĩ Trung Quốc vào khoảng 1899-1901. Trái: hai lính Tân quân. Trước: một chỉ huy Lục doanh quân. Ngồi trên thân cây: pháo thủ. Phải: Binh sĩ Nghĩa hòa đoàn.|348x348px **Tân quân **(phồn
**Chiến tranh Thanh–Miến** (; ), còn gọi là **Cuộc xâm lược Miến Điện của nhà Thanh** hay **Chiến dịch Miến Điện của Đại Thanh**, là một cuộc chiến tranh giữa Đại Thanh và Đế quốc
**Thanh Thái Tông Nguyên phi** (chữ Hán: 清太宗元妃, ? - ?) là nguyên phối Phúc tấn của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực, Hoàng đế đầu tiên của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Bác Ông Quả Nặc** (; 1651 – 1712), còn được chép là **Bác Nhĩ Quả Lạc** (), Ái Tân Giác La, là một Tông thất của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc
**Lý Thành Đống** (chữ Hán: 李成棟;? – 6 tháng 4 năm 1649 (Ất Mão tháng 2 năm Vĩnh Lịch thứ 3)), tên tự là **Đình Ngọc** (廷玉), người Ninh Hạ, quân tịch vệ Ninh Hạ
**Thanh Thái Tông Kế phi** (chữ Hán: 清太宗繼妃; ? - ?) Ô Lạp Na Lạp thị, là Kế thất của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực, Hoàng đế đầu tiên của nhà Thanh trong lịch
thumb|Ảnh chụp tuyển tú nữ thời cuối triều Thanh. Các tú nữ độ tuổi rất nhỏ, trên ngực đều đeo _Lược đầu bài_ báo danh theo quy định. **Thanh cung tuyển tú** (chữ Hán: 清宮選秀),
thumb|250x250px|Các binh sĩ Võ Vệ hữu quân thuộc quyền [[Viên Thế Khải đang hộ tống Thái hậu Từ Hy hồi cung năm 1902]] **Võ Vệ quân** () là lực lượng quân sự hiện đại đầu
**Nhà Hạ** (, khoảng thế kỷ 21 TCN - khoảng thế kỷ 16 TCN) là một triều đại lịch sử chưa được kiểm chứng của Trung Quốc, đây là triều đại được nhiều nhà nghiên
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
**Nhà Liêu** hay **Liêu triều** ( 907/916-1125), còn gọi là nước **Khiết Đan** (契丹國, đại tự Khiết Đan: Tập tin:契丹國.png) là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử
Có một số câu lạc bộ bóng đá trên khắp thế giới có trụ sở tại một quốc gia/lãnh thổ nhưng chơi trong giải đấu của một quốc gia khác trong môn thể thao tương
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Nhà Kim** (, tiếng Nữ Chân: Tập tin:Amba-an Ancu-un.svg 1115-1234) là một triều đại do người Nữ Chân gây dựng trong lịch sử Trung Quốc. Người Nữ Chân nguyên là phiên thuộc của triều Liêu,
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Nhà Tùy** (, 581-619) là một triều đại trong lịch sử Trung Quốc, kế thừa Nam-Bắc triều, theo sau nó là triều Đường. Năm 581, Tùy Văn Đế Dương Kiên thụ thiện từ Bắc Chu
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Thanh Hải** (), là một tỉnh thuộc Tây Bắc Trung Quốc. Năm 2018, Thanh Hải là tỉnh đứng thứ ba mươi mốt về số dân, đứng thứ ba mươi về kinh tế Trung Quốc với