✨Thanh Hải
Thanh Hải (), là một tỉnh thuộc Tây Bắc Trung Quốc. Năm 2018, Thanh Hải là tỉnh đứng thứ ba mươi mốt về số dân, đứng thứ ba mươi về kinh tế Trung Quốc với 5,9 triệu dân, tương đương với Turkmenistan và GDP danh nghĩa đạt 188,5 tỉ NDT (29,9 tỉ USD) tương ứng với Estonia. Thanh Hải có chỉ số GDP đầu người đứng thứ hai mươi ba đạt 47.690 NDT (tương ứng 7,207 USD).
Thanh Hải là một trong các đơn vị hành chính cấp tỉnh có diện tích lớn nhất tại Trung Quốc, tỉnh xếp thứ 4 về diện tích song lại là đơn vị hành chính cấp tỉnh ít dân thứ ba. Thanh Hải nằm chủ yếu trên cao nguyên Thanh-Tạng và là nơi sinh sống của một lượng lớn người Tạng. Người Hán chiếm đa số và sinh sống chủ yếu tại khu vực thủ phủ Tây Ninh ở phía đông bắc của tỉnh. Thanh Hải giáp với Cam Túc ở phía đông bắc, giáp với Tân Cương ở phía tây bắc, giáp với Tứ Xuyên ở phía đông nam, và giáp với khu tự trị Tây Tạng ở phía tây nam. Thanh Hải gần tương ứng với Amdo, một trong ba phân vùng truyền thống của văn hóa Tây Tạng.
Từ nguyên
Tên tiếng Hán của tỉnh, "Thanh Hải" được đặt theo hồ Thanh Hải, hồ lớn nhất tại Trung Quốc. Trong tiếng Anh, tỉnh Thanh Hải còn được gọi là Kokonur, bắt nguồn từ tên tiếng Oirat của hồ Thanh Hải. Tên tiếng Tạng của tỉnh Thanh Hải là "Tsongon".
Lịch sử
Sơ khởi
Các phát hiện trong di chỉ Tiểu Sài Đán (小柴旦遗址) cho thấy vào cuối thời kỳ đồ đá cũ, cách nay 30.000 năm, ở phía tây Thanh Hải đã có loài người lao động và sinh sống. Trong thời đại đồ đồng tại Trung Quốc, Thanh Hải là nơi sinh sống của tổ tiên những người Tạng Amdo, họ sinh sống nhờ vào nông nghiệp và săn bắn, hình thành nên văn hóa Ca Ước (卡约文化). Đến thời Thương và Chu tại Trung Nguyên, bộ lạc Khương đã hình thành trên địa bàn Thanh Hải, sử sách Trung Quốc gọi là Tây Khương (西羌). Căn cứ theo giáp cốt văn từ thời Thương, vua Vũ Đinh của Thương đã xuất binh chinh phạt Tây Khương, chiếm lĩnh nhiều khu vực rộng lớn ở đông bộ tỉnh Thanh Hải ngày nay, người Khương phải cứ sứ thần đến triều Thương để thương lượng. Thời Tây Chu, đã xuất hiện liên hệ về chính trị và kinh tế giữa khu vực tỉnh Thanh Hải ngày nay và Trung Nguyên, đến thời Tần thì quan hệ này trở nên mật thiết hơn.
Từ thế kỷ thứ II TCN đến thế kỷ thứ III SCN
Đến thời Nhà Hán, khu vực phía đông của Thanh Hải nằm dưới quyền kiểm soát của triều đình Trung Hoa. Triều đình Nhà Hán đã từng thiết lập nên Tây Hải quận, Hà Nguyên quận, Hoàng Nguyên quận, Kim Thành quân, khống chế các khu vực như Quý Nam, Quý Đức, Tây Ninh, Hoàng Nguyên ngày nay, cũng thiết lập chức hộ Khương hiệu úy. Những năm 121 TCN-111 TCN thời Tây Hán, Nhà Hán đã thiết lập Tây Bình đình (西平亭) tại khu vực Tây Ninh ngày nay, mở đầu cho lịch sử phát triển của thành phố này. Thời Hán Bình Đế, Vương Mãng đã thiết lập Tây Hải quận ở địa phận Thanh Hải ngày nay. Đến năm Kiến An thứ 19 (214), triều đình Trung Hoa lại thiết lập Tây Hải quận trên địa bàn Thanh Hải. Đầu thời Hán, phía tây tỉnh Thanh Hải ngày nay tồn tại các bộ lạc như Tiên Linh Khương (先零羌), Thiêu Đang Khương (烧当羌), Phát Khương (发羌).
Sau khi nhà nước Tiên Ti tan rã, 1.700 hộ thuộc các nhóm du mục do Mộ Dung Thổ Dục Hồn lãnh đạo đã di cư từ khu vực Đông Bắc Trung Quốc ngày nay đến vùng đồng cỏ tươi tốt quanh hồ Thanh Hải vào khoảng giữa thế kỷ thứ III. Những người Tiên Ti này đã lập nên nước Thổ Dục Hồn vào năm 284 khi họ khuất phục các sắc dân bản địa, tức người Khương cổ, những người mà bao gồm trên 100 bộ lạc phối hợp lỏng lẻo và khác biệt, không quy phục lẫn nhau hay một thế lực nào. Ngoài Thanh Hải, nước Thổ Dục Hồn còn khống chế một phần tỉnh Cam Túc ngày nay.
Ở nam bộ Thanh Hải ngày nay, người Đinh Linh (丁零) đã thành lập ra Bạch Lan Quốc (白蘭國) từ thế kỷ thứ II, dân cư của nước này bao gồm người Đinh Linh và người Khương cổ, tồn tại cho đến đầu thế kỷ thứ IV, tức trong thời gian đầu của Thổ Dục Hồn.
Thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ VI
Trong thời Ngũ Hồ thập lục quốc, năm 395, Thốc Phát Ô Cô đã tấn công một số bộ lạc không chịu thần phục mình ở xung quanh, bao gồm Ất Phất (乙弗) và Chiết Quật (折掘), buộc họ phải khuất phục. Ông cho xây dựng Liêm Xuyên bảo (廉川堡, nay thuộc Hải Đông, Thanh Hải) để làm tổng hành dinh. Năm 397, Thốc Phát Ô Cô lập ra nước Nam Lương. Vào mùa xuân năm 399, Thốc Phát Ô Cô dời đô từ Liêm Xuyên đến Lạc Đô (樂都, cũng thuộc Hải Đông ngày nay). Vua cuối cùng của Nam Lương là Thốc Phát Nục Đàn đã buộc phải đầu hàng Tây Tần- cũng là một nước trong Ngũ Hồ thập lục quốc, vào năm 414, sau khi Tây Tần chiếm được kinh thành Lạc Đô.
Đến mùa đông năm 426, quân Hồ Hạ do Hô Lô Cổ (呼盧古) và Vi Phạt (韋伐) chỉ huy đã chiếm được thành Tây Bình (西平, nay thuộc Tây Ninh, Thanh Hải) của Tây Tần, sau đó quân Hạ rút lui. Dưới thời vua Khất Phục Mộ Mạt trị vì (428 – 431), quân Bắc Lương đã liên minh với vua Mộ Dung Mộ Lợi Diên (慕容慕利延) của Thổ Dục Hồn để tấn công Tây Tần. Năm 431, hoàng đế nước Hạ là Hách Liên Định đã bắt và giết chết vua Khất Phục Mộ Mạt của Tây Tần, Tây Tần bị tiêu diệt, còn lãnh thổ trước đây của Tây Tần hầu hết đều rơi vào tay Thổ Dục Hồn.
Thổ Dục Hồn là thế lực đầu tiên trong lịch sử đã thống nhất vùng Tây Bắc Trung Quốc, phát triển tuyến phía nam của Con đường tơ lụa, thúc đẩy trao đổi văn hóa giữa các lãnh thổ phía đông và phía tây. Thổ Dục Hồn thống trị khu vực tây bắc trong hơn ba thế kỷ rưỡi cho đến khi bị Thổ Phồn tiêu diệt. Thổ Dục Hồn tồn tại như một nước độc lập bên ngoài Trung Hoa và không được coi là một phần của sử học sử Trung Quốc, không được tính là một trong Thập lục quốc.
Thời Nam-Bắc triều, một số bộ phận ở phía đông của Thanh Hải chịu sự kiểm soát của các Bắc triều, lần lượt là Bắc Ngụy, Đông Ngụy rồi đến Bắc Chu. Năm 445, Bắc Ngụy đã đổi Tây Bình quận thành Thiện Thiện trấn, đến năm 526, Bắc Ngụy lại đổi Thiện Thiện trấn thành Thiện châu, quản lý khu vực Tây Bình (Tây Ninh ngày nay).
Từ thế kỷ VII đến thế kỷ thứ X
Đến thời nhà Tùy, vào năm Đại Nghiệp thứ 3 (607) thời Tùy Dạng Đế, triều đình đã đổi Thiện châu thành Tây Bình quận, quản lý hai huyện Hoàng Thủy và Hóa Long, khu vực Tây Ninh ngày nay thuộc Hoàng Thủy huyện của Tây Bình quận. Năm Đại Nghiệp thứ 5 (609), Tùy Dạng Đế tây chinh đánh Thổ Dục Hồn, đánh bại Thổ Dục Hồn, quân chủ của Thổ Dục Hồn bị bắt sống. Thổ Dục Hồn do đó phải di cư về phía nam, chịu mất một lãnh thổ rộng lớn cho Tùy. Trên đất cũ của Thổ Dục Hồn, nhà Tùy thiết lập bốn quận là Thiện Thiện, Tây Hải, Thả Mạt, Hà Nguyên. Đến năm 618 TCN, Nhà Đường sau khi thành lập, đã thiết lập hai châu Thiện và Khuếch ở phía đông Thanh Hải, quản lý khu vực bao gồm Tây Ninh ngày nay.
Những năm đầu thế kỷ thứ VII, Thổ Phồn lớn mạnh, khuếch trương thế lực đến khu vực Thanh Hải ngày nay, đe dọa trực tiếp đến Thổ Dục Hồn. Còn trong thời gian đầu của Nhà Đường, Thổ Dục Hồn suy yếu dần và ngày càng vướng vào xung đột giữa Đường và Thổ Phồn. Trong những năm 662-663, quân Thổ Phồn đã thôn tính Thổ Dục Hồn, quân chủ Thổ Dục Hồn là Mộ Dung Nặc Hạt Bát đưa tàn dư của đất nước đến đầu hàng Đường ở Lương Châu thuộc Cam Túc ngày nay. Bên cạnh đó, một bộ phận người Thổ Dục Hồn vẫn ở lại đất cũ và trở thành thuộc quốc của Thổ Phồn. Năm 670, trong trận Đại Phi Xuyên (大非川之戰) tại nơi mà nay thuộc huyện Cộng Hòa của Thanh Hải, quân Đường đã thất bại trước 20 vạn quân Thổ Phồn, đây là thất bại lớn nhất trong lịch sử của Đường và chính thức đưa Thổ Dục Hồn đến hồi kết. Có học giả nhận định rằng người Thổ ở Thanh Hải và Cam Túc hiện nay là hậu duệ của Thổ Dục Hồn.
Sau loạn An Sử, Nhà Đường suy yếu, Thổ Phồn nhân cơ hội này đã đoạt lấy Tây Ninh vào năm 763. Trong thời gian nằm dưới quyền cai quản của Thổ Phồn, Tây Ninh được gọi trong tiếng Hán là "Thanh Đường thành". Khu vực Thanh Hải cũng như đa phần phía tây Trung Quốc từ đó nằm trong phạm vi thế lực của Thổ Phồn. Các bộ lạc Thổ Phồn tại khu vực Thanh Hải không phụ thuộc lẫn nhau, cuối cùng xảy ra nội chiến.
Giác Tư La Quốc
Đến đầu thế kỷ thứ XI, Thổ Phồn phân liệt thành một vài tập đoàn bộ lạc lớn. Lý Lập Tuân (李立遵) là thủ lĩnh của một trong số các tập đoàn bộ lạc đó, ông ta đưa một hậu duệ của tán phổ Thổ Phồn là Giác Tư La (唃廝囉, dịch âm từ tiếng Tạng, ý chỉ Phật tử) đến khu vực nay là huyện Bình An của Thanh Hải, tôn làm tán phổ, Lý Lập Tuân tự lập làm luân bô (论逋, tức tể tướng). Quyền lực đều nằm trong tay của Lý Lập Tuân song người này lại xa hoa trác táng. Sau khi Giác Tư La trở thành tán phổ, cá bộ lạc Thổ Phồn ở khu vực Hà Hoàng dần quy phục. Đến khi Lý Lập Tuân thất bại trong trận Tam Đô Cốc (三都谷之战) trước danh tướng Tào Vĩ của Bắc Tống, Giác Tư La thừa cơ ly khai khỏi Lý Lập Tuân. Năm 1034, Giác Tư La định đô tại Thanh Đường thành, hiệu là Tông Khách Vương, lập ra Giác Tư La Quốc (唃厮啰国), sử Trung Quốc còn gọi là vương quốc Thanh Đường. Thời hưng thịnh, cương vực Giác Tư La Quốc trải rộng đến Tam Đô Cốc (nay thuộc huyện Cam Cốc của tỉnh Cam Túc, bắc giáp Kỳ Liên Sơn, nam đến châu Quả Lặc của Thanh Hải ngày nay, tây đến hồ Thanh Hải, rộng trên 3000 lý, nhân khẩu gần một triệu người.
Nhiều thương nhân thay vì đi qua hành lang Hà Tây do Tây Hạ kiểm soát đã lựa chọn chuyển sang tuyến đường Thanh Hải, giúp Giác Tư La Quốc phát triển mạnh về mậu dịch. Khi đó Thanh Dường thành là một đô thị thương nghiệp phồn vinh. Giác Tư La có quan hệ với cả Tống, Liêu, Tây Hạ, Hồi Cốt và Tây Vực, bảo vệ tính độc lập của mình.
Về mặt quân sự, vào hậu kỳ Nhà Minh, song song tồn tại với hệ thống vệ sở còn có hệ thống quan chức trấn thủ, trong đó có tổng binh, phó tổng binh, tham tướng, du kích, thủ bị, bả tổng và các chức vụ khác. Nói chung, vào thời Minh, khu vực nông nghiệp ở phía đông của Thanh Hải, chủ yếu là đồn điền quốc hữu cùng thổ địa thuộc sở hữu của lãnh chúa (hoặc địa chủ), còn lại là thổ địa tự canh tác của nông dân. Ở phía tây và phía nam Thanh Hải là khu vực mục nghiệp, theo chế độ lãnh chúa bộ lạc chiếm hữu. Đồn điền ở khu vực Hà Hoàng vào thời Minh chủ yếu là quân đồn, với mục đích để nuôi quân, đảm bảo ổn định biên cương tây bắc Đại Minh.. Thời Khang Hy Đế và Ung Chính Đế, triều Thanh cũng phái quân đến bồn địa Sài Đạt Mộc của Thanh Hải để đối phó với Chuẩn Cát Nhĩ.
Từ cuối thời Minh có đến đầu thời Thanh, một phần lớn địa bàn Thanh Hải ngày nay nằm dưới quyền kiểm soát của người Mông Cổ Hòa Thạc Đặc. Năm 1653, Nhà Thanh đã sách phong cho Cố Thủy Hãn là Tuân Hành Văn Nghĩa Mẫn Tuệ Cố Thủy Hãn, hợp pháp hóa địa vị thống trị của Cố Thủy Hãn tại Thanh-Tạng. Sau khi Cát Nhĩ Đan bị quân Thanh đánh bại, các thai cát Mông Cổ ở Thanh Hải đã quy thuận triều Thanh. Năm 1697, Nhà Thanh đã phong cho thủ lĩnh Mông Cổ tại Thanh Hải làm Hòa Thạc Thân vương. Năm 1717, Hòa Thạc Đặc hãn quốc diệt vong, cháu Cố Thủy Hãn là La Bốc Tạng Đan Tân (羅卜藏丹津, Lobsang Tendzin) đã liên lạc với triều đình Thanh để phản công chiếm lĩnh Tây Tạng từ quân Chuẩn Cát Nhĩ. Năm 1720, Khang Hy Đế phái hoàng thập tứ tử Dận Trinh làm đại tướng quân vương, nhập Tạng đánh đuổi danh tướng Đại Sách Lăng Đôn Đa Bố (大策凌敦多布) của Chuẩn Cát Nhĩ. Sau đó, triều đình Thanh thực thi chính sách hạn chế và đề phòng La Bốc Tạng Đan Tân khiến người này bất mãn.
Sau khi nhậm chức, Mã Kỳ tích cực mở rộng quân sự, lập ra Ninh Hải quân. Đến năm 1915, Liêm Hưng bị chính phủ Bắc Dương bãi chức, Mã Kỳ nhậm chức Cam Biên Ninh Hải trấn thủ sứ kiêm Mông Phồn tuyên ủy sứ, có được sức mạnh cả về quân sự và chính trị tại Thanh Hải. Từ đó, khu vực Thanh Hải kết thúc cục diện quyền lực phân tán cả trăm năm dưới thời Thanh, gia tộc họ Mã thiết lập cơ sở thống trị vững chắc tại Thanh Hải. Đến năm 1925, quân Quốc Dân tiến vào Cam Túc. Năm sau, Phùng Ngọc Tường bổ nhiệm Mã Kỳ làm Thanh Hải hộ quân sứ, quân đội địa phương của Mã Kỳ tiếp nhận quân Quốc Dân cải biên. Ngày 17 tháng 10 năm 1928, Hội nghị chính trị Trung ương Quốc Dân Đảng quyết định lấy 7 huyện của đạo Tây Ninh thuộc tỉnh Cam Túc và vùng thuộc quyền quản lý của Thanh Hải biện sự trưởng quan để thành lập tỉnh Thanh Hải, lấy Tây Ninh làm tỉnh lị, bổ nhiệm Tôn Liên Trọng làm chủ tịch tỉnh Thanh Hải nhiệm kỳ đầu tiên. song đã bị đánh bại. Mã Bộ Phương được nhà báo Mỹ John Roderick đánh giá là một người theo chủ nghĩa xã hội và thân thiện so với các quân phiệt họ Mã khác. Mã Bộ Phương được ghi nhận là người vui vẻ nếu so sánh với sự cai trị thô bạo của Mã Hồng Quỳ (馬鴻逵; một quân phiệt tại Ninh Hạ bấy giờ). Trong thời gian diễn ra chiến tranh Trung-Nhật và Nội chiến Trung Quốc, khác với các tỉnh ở phía đông, Thanh Hải hầu như không bị tác động. Quân của họ Mã đã thất bại trong chiến dịch Lan Châu trước Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Lúc mới thành lập tỉnh, toàn tỉnh Thanh Hải có 930.000 người.
Địa lý
[[Dãy núi Côn Lôn|Côn Lôn Sơn tại Thanh Hải]] nhỏ|phải|Đoạn [[Hoàng Hà chảy qua Tuần Hóa]] Thanh Hải nằm ở phía tây Trung Quốc, phía đông bắc của cao nguyên Thanh-Tạng-nóc nhà thế giới. Về mặt tọa độ, tỉnh Thanh Hải giới hạn từ 89°36'-103°04' kinh Đông, 31°9'-39°19' vĩ Bắc. Tỉnh Thanh Hải có diện tích 722.300 km², chiếm 13% tổng diện tích của Trung Quốc, chỉ xếp sau Tân Cương, Tây Tạng và Nội Mông. Tỉnh Thanh Hải có chiều dài đông-tây là hơn 1.200 km, chiều dài bắc-nam là trên 800 km. Thanh Hải tiếp giáp với tỉnh Cam Túc ở phía đông, giáp khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương ở phía tây bắc, giáp với khu tự trị Tây Tạng ở phía nam và tây nam, giáp với tỉnh Tứ Xuyên ở đông nam.
Địa hình
Toàn bộ tỉnh Thanh Hải nằm trong phạm vi của cao nguyên Thanh-Tạng, khu vực phía đông của tỉnh nằm trong phần quá độ từ cao nguyên Thanh Tạng đến cao nguyên Hoàng Thổ. Địa hình Thanh Hải phức tạp, địa mạo đa dạng. Phía tây Thanh Hải cao và dốc, nghiêng xuống phía đông, tạo thành các bậc thang. Độ cao trung bình của tỉnh Thanh Hải là trên 3000 mét, đỉnh cao nhất là đỉnh Bukadaban (布喀达板) thuộc Côn Lôn Sơn với cao độ đạt 6.860 mét.
Khí hậu
Thanh Hải nằm sâu trong vùng cao nguyên nội địa, địa thế cao, khí hậu Thanh Hải vì thế thuộc đới khí hậu cao nguyên lục địa với đặc điểm là khô, ít mưa, nhiều gió, lạnh lẽo, thiếu dưỡng khí, nhiệt độ trong ngày biến đổi lớn, đông dài hạ ngắn. Thanh Hải không có bốn mùa rõ rệt, có sự khác biệt giữa các khu vực trong địa bàn tỉnh. Nhiệt độ bình quân của tỉnh Thanh Hải là từ 0,4 °C-7,4 °C, nhiệt độ bình quân thấp nhất vào tháng 1 là từ -10,3 °C đến -5,0 °C, nhiệt độ bình quân cao nhất vào tháng 7 là từ 10,8 °C đến 19,0 °C. Thanh Hải cũng có nhiều hồ muối, tập trung tại bồn địa Qaidam.
Sinh vật
Theo số liệu năm 2012, toàn tỉnh Thanh Hải có hơn 270 loài động vật có xương sống trên cạn. Một số loài động vật quý hiếm tại Thanh Hải gồm: gấu nâu, báo tuyết, bò Tây Tạng, lạc đà hai bướu, lừa rừng Trung Á, linh dương Tây Tạng, sếu cổ đen, hươu môi trắng (Cervus albirostris), thiên nga, gà tuyết, cừu hoang Himalaya và các loại khác. Các loài thú quý có lông ở Thanh Hải gồm rái cá, macmột thảo nguyên, cáo đỏ, linh miêu, chồn đá, mèo manul, chồn núi Altai (Mustela altaica). Thanh Hải có khoảng hơn 2000 loài thực vật hoang dã, trong đó có hơn 1.000 loài có giá trị về kinh tế, hơn 680 loài có thể sử dụng trong ngành dược phẩm. Các loài thực vật dùng làm thuốc chủ yếu tại Thanh Hải gồm: tuyết liên (Saussurea involucrata), đông trùng hạ thảo, cam thảo, tần giao (Gentiana macrophylla), đại hoàng (Rheum rhabarbarum), bối mẫu (Fritillaria), đương quy (Angelica sinensis), ma hoàng (Ephedra). Các loài thực vật hoang dã có thể dùng làm thực phẩm có: nấm lớn, ráng cánh to (Pteridium aquilinum), phát thái (Nostoc flagelliforme), địa y, củ khởi.
Dân cư
nhỏ|phải|Các nhà sư người Tạng tại [[tu viện Kumbum, hay chùa Tháp Nhĩ (塔尔寺) tại huyện Hoàng Trung của Tây Ninh]]
Tính đến cuối năm 2011, tỉnh Thanh Hải có 5.681.700 nhân khẩu thường trú, trong đó có 2.626.200 người (46,2%) sinh sống tại các đô thị và 3.055.500 người (53,8%) sinh sống tại các khu vực nông thôn. Cũng theo đó, Thanh Hải có 2.669.300 người dân tộc thiểu số, chiếm 47% số nhân khẩu thường trú. Tỷ xuất sinh trong năm 2011 của Thanh Hải là 14,43‰, còn tỷ suất tử vong trong năm này là 6,12‰.
Cả người Hán và người Tạng bản địa tại Thanh Hải đều có điểm khác biệt so với đồng tộc của họ ở bên ngoài tỉnh; người Hán ở Thanh Hải nhiệt thành hơn với Phật giáo và chịu ảnh hưởng của phong tục Tạng, trong khi có nhiều người Tạng ở Thanh Hải không thể nói được tiếng Tạng và hòa nhập vào dòng chảy chính của văn hóa Trung Quốc. Người Tạng Thanh Hải tự nhìn nhận họ khác biệt với người Tạng tại khu tự trị Tây Tạng, Tuyến đường sắt Lan-Thanh nối từ Lan Châu đến Tây Ninh là tuyến giao thông chính để đi và đến Thanh Hải, tuyến đường này hoàn thành từ năm 1959. Đường sắt Đôn-Cách (敦格铁路) nối từ Golmud đến Đôn Hoàng ở phía tây Cam Túc đã được bắt đầu xây dựng từ tháng 10 năm 2012. Tổng lý trình đã thông xe của hệ thống công lộ Thanh Hải là 60.100 km, trong đó có 217 km công lộ cao tốc. Thanh Hải có 5 tuyến quốc lộ, 23 tuyến tỉnh lộ, mạng lưới công lộ lấy Tây Ninh làm trung tâm. Năm 2012, toàn tỉnh Thanh Hải có 269.000 ô tô dân dụng. Các sân bay tại Thanh Hải có các chuyến bay đến Bắc Kinh, Tây An, Quảng Châu, Trùng Khánh, Thâm Quyến, Lhasa, Nam Kinh, Thẩm Dương, Hohhot, Thanh Đảo, Golmud, Thành Đô, Vũ Hán, Thượng Hải, Hàng Châu, Urumqi. Thanh Hải có sân bay Tào Gia Bảo Tây Ninh, sân bay Golmud, sân bay Ba Đường Ngọc Thụ cùng với các sân bay đang xây dựng như sân bay Đức Linh Cáp, sân bay Quả Lặc, sân bay Hoa Thổ Câu.
Các trường đại học
- Đại học Thanh Hải (青海大学), thành lập năm 1958
- Đại học Sư phạm Thanh Hải (青海师范大学), thành lập năm 1956
- Đại học Dân tộc Thanh Hải (青海民族大学), thành lập năm 1949