Quế Lâm (chữ Hán: 桂林, ), người thị tộc Y Nhĩ Căn Giác La (Irgen Gioro hala), thuộc Mãn Châu Tương Lam kỳ, là một quan viên, tướng lãnh nhà Thanh. Ông còn là cha của Tuần Quý phi Y Nhĩ Căn Giác La thị.
Sự nghiệp
Khởi nghiệp
Cha là Hạc Niên (鹤年), được làm đến Lưỡng Quảng Tổng đốc, sử cũ có truyện. Quế Lâm nhờ thân phận [Lẫm sanh] mà được Nhập ti, làm Chủ sự bộ Công, dần được thăng đến Án sát sứ Sơn Tây.
Tham gia bình định Kim Xuyên
Tháng 3 ÂL năm Càn Long thứ 36 (1771), Quế Lâm được cất nhắc làm Hộ bộ Thị lang, Quân cơ xứ hành tẩu. Tháng 9 ÂL, Quế Lâm nhận mệnh giúp Định biên Hữu phó tướng quân Ôn Phúc đánh dẹp Kim Xuyên. Tháng 11 ÂL, Quế Lâm được thụ chức Tứ Xuyên Tổng đốc. Đầu nhân của Tiểu Kim Xuyên ở ngoài Tạp (một loại ụ công sự) đưa tặng kinh văn, gởi thổ sản, Quế Lâm từ chối không nhận, truyền hịch kể tội thổ tư Tăng Cách Tang. Sau đó Quế Lâm chỉ huy thu phục Ước Cha, tiếp tục đánh hạ lớn nhỏ 5 tòa Điêu (tương tự lô cốt), hơn 20 tòa Tạp đá thuộc Đông sơn lương . Quế Lâm dâng sớ xin thêm 5000 binh Quý Châu, Thiểm Tây, Càn Long Đế hứa cho 3000 binh Thiểm Tây, Cam Túc. Quế Lâm chỉ huy tổng binh Tống Nguyên Tuấn đánh Tạp Nha, tiến chiếm Mặc Nhĩ Đa sơn lương; Càn Long Đế khen Quế Lâm bố trí phù hợp, tự tay làm chiếu, nói: “Dùng mày trong lúc vô ý, lại tỏ ra đắc lực. Cũng nhờ mày ở Quân cơ xứ nửa năm, hằng ngày được trẫm dạy đỗ đấy.”
Năm Càn Long thứ 37 (1772), Quế Lâm hạ được Tạp Nha, tiếp tục phá được Quách Tùng, Giáp Mộc, Cát Nhĩ Kim; sau đó ông hạ được Hậu sơn lương thuộc Cát Nhĩ Kim, chia binh tấn công Đông sơn lương, tập kích A Ngưỡng, từ Mặc Lũng Câu tiến lấy Đạt Ô Vi. Bấy giờ Đại Kim Xuyên thổ tư Tác Nặc Mộc chiếm cứ Cách Bố Thập Cha, đóng quân ở đấy. Quế Lâm đề nghị nhân lúc binh lực của Tác Nặc Mộc chưa đầy đủ, lòng người ở Cách Bố Thập Cha chưa ổn định, ông với Tống Nguyên Tuấn chia binh 5 đường cùng tiến, còn hẹn với Tướng quân Ôn Phúc hợp công, mật lệnh cho thổ tù của Cách Bố Thập Cha đã hàng là bọn Vượng Lặc Đan hẹn với thân thích là Gia Hồn Nhĩ làm nội ứng. Quế Lâm bèn thu phục các trại quanh Cách Bố Thập Cha hơn 70 dặm, tiếp đó lệnh cho Nguyên Tuấn cùng thủ bị Trần Định Quốc soái thổ binh của bộ lạc Xước Tư Giáp Bố đồn trú Giáp Nhĩ Lũng Bá, rồi tiến đánh Mặc Tư Câu, Cát Địa, đắt đứt nguồn nước của địch, sau đó tiến đánh Đan Đông. Càn Long Đế khen Quế Lâm sắp xếp thỏa đáng, thúc giục Nguyên Tuấn thâm nhập để bắt Tác Nặc Mộc.
Quế Lâm sai bì tướng từ Mặc Lũng Câu thuộc Đông sơn lương vượt núi tiến đánh, riêng sai binh đi tắt, từ Trát Oa Khoa sơn lương trèo xuống vách núi, thiết lập mai phục. Sau khi quan quân đã vượt Mặc Lũng Câu thuộc Đông sơn lương, phục binh ở Trát Oa Khoa nổi lên, đánh cho nghĩa quân thua chạy, hạ được 1 điêu lớn, 21 tạp đá. Quế Lâm riêng sai Tham tướng Thường Thái Hoàn đánh Đảng Lý, bọn đô tư Lý Thiên Quý đánh Sa Trùng; thu phục được cả hai nơi ấy. Ngoài ra bọn tổng binh Anh Thái còn hạ được Đạt Ô Quan Trại. Càn Long Đế khen công lao của Quế Lâm, ban Ngọc thiếp ngự dụng. Tiếp đó Quế Lâm hạ được Cách Ô Ba Tang và Na Long Sơn; Tống Nguyên Tuấn riêng hạ được Đan Đông và Giác Lạp Lạt Ma Tự, giết 300 thủ lãnh địa phương, hơn 130 nghĩa quân. Quan quân đã thu phục trọn vẹn Cách Bố Thập Cha, Quế Lâm truyền hịch cho Trần Định Quốc đem thổ binh của bộ lạc Xước Tư Giáp Bố trú ở ranh giới, chờ bề trên sai khiến. Càn Long Đế cho rằng Cách Bố Thập Cha đã bị thu phục, lẽ ra nên thừa thắng tiễu diệt Tiểu Kim Xuyên, ấy là “công kỳ vô bị”, trách Quế Lâm tính toán sai lầm.
Thua trận và bị vu cáo
Tiếp đó Quế Lâm đốc binh đánh Đạt Ô Đông Ngạn sơn lương, Tham tướng Tiết Tông tử trận. Tông là kiêu tướng, thâm nhập rồi bị cạn lương; Quế Lâm sai hẹn hội quân, lại không kịp thời điều viện binh, khiến quân của Tông toàn bộ bị tiêu diệt. Quế Lâm dâng sớ nhận tội, nhưng không dám thuật lại đầy đủ chiến sự. Tống Nguyên Tuấn và tán trật đại thần A Nhĩ Thái hặc Quế Lâm nói dối; còn nói ông ở Tạp Nha xây nhà cửa để ở, bức bách thuộc liêu cung ứng, cùng bọn Phó Đô thống Thiết Bảo, Đề đốc Uông Đằng Long cả ngày say sưa, chư tương hiếm khi được gặp; lại nói Quế Lâm bí mật lệnh cho thân tín của Đằng Long là tổng binh Vương Vạn Bang đem 500 lạng bạc, đi chuộc quan binh bị bắt, ý đồ lấp liếm việc thua trận.
Càn Long Đế đoạt chức của Quế Lâm, mệnh cho Ngạch phò, Thượng thư, Công tước Phúc Long An tra án. Ít lâu sau Phúc Long An tấu rằng những việc hặc tấu đều là bậy, chỉ có tổn thất của quan binh không sát với thực tế mà thôi; còn việc chuộc quan binh bị bắt, thật ra là Hộ bộ Lang trung Uông Thừa Bái nghe được thổ binh của Ba Vượng, Bố Lạp Khắc Để quay về sau khi lạc đường, bèn thông báo với Quế Lâm, phát 500 lạng bạc để Uông Đằng Long thưởng cho họ, tức là ở việc này, Tống Nguyên Tuấn đã vu cáo Quế Lâm. Như thế, Phúc Long An đề nghị phân biệt để trị tội. Càn Long Đế cho rằng Quế Lâm ở trong quân, hằng ngày quen thói say sưa, chỉ muốn bản thân thoải mái, không đồng cam cộng khổ với sĩ tốt, hơn nữa còn gây ra tổn thất quan binh ở Bắc sơn lương, không thể nào được vô tội. Vì vậy Quế Lâm bị đày đi thú ở Y Lê.
Cuối đời
Tháng 7 ÂL năm Càn Long thứ 38 (1773), Quế Lâm được nhận hàm Tam đẳng Thị vệ, tiếp tục đốc lương vận của quân đội. Năm thứ 40 (1775), Quế Lâm được thụ làm Đầu đẳng Thị vệ, sau đó được thụ chức Tứ Xuyên Đề đốc, rồi thăng làm Lưỡng Quảng Tổng đốc.
Sau khi mất, Quế Lâm được gia hàm Thái tử Thái bảo, đặt thụy là Tráng Mẫn.
**Quế Lâm** (chữ Hán: 桂林, ), người thị tộc Y Nhĩ Căn Giác La (Irgen Gioro hala), thuộc Mãn Châu Tương Lam kỳ, là một quan viên, tướng lãnh nhà Thanh. Ông còn là cha
**Quế Lâm** (tiếng Tráng: Gveihlaem, ; Wade-Giles: Kuei-lin, bính âm bưu chính: Kweilin; tiếng Tráng: Gveilinz) là một địa cấp thị ở phía đông bắc Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc.
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
**Tiền Phong** (chữ Hán: 钱灃/钱沣, 1740 – 1795 ), tự **Đông Chú**, hiệu **Nam Viên**, người Côn Minh, Vân Nam, quan viên nhà Thanh. ## Khởi nghiệp Năm Càn Long thứ 36 (1771), Phong đỗ
**Quốc Thái** (chữ Hán: 国泰, ? – 1782), người tộc Phú Sát thị, Tương Bạch kỳ, dân tộc Mãn Châu, tham quan nhà Thanh. ## Khởi nghiệp Cha là Văn Thụ, được làm đến Tứ
**Bác Lạc** (, chữ Hán: 博洛, 1613 – 23 tháng 4 năm 1652), Ái Tân Giác La, là một Thân vương, một nhà quân sự thời kỳ đầu của nhà Thanh trong lịch sử Trung
**Doãn Kế Thiện** (chữ Hán: 尹继善; ; 1695 – 1771), tên tự là **Nguyên Trường** (元長), cuối đời tự đặt hiệu **Vọng Sơn** (望山), người thị tộc Chương Giai (Janggiya Hala), dân tộc Mãn Châu,
**Lôi Hoành** (chữ Hán: 雷鋐, 1697 – 1760), tên tự là **Quán Nhất**, người Ninh Hóa, Phúc Kiến, là quan viên nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Học vấn Hoành làm chư sanh,
**Lý Nhân** (chữ Hán: 李裀, ? – 1656), tên tự là **Long Cổn**, người Cao Mật, Sơn Đông, quan viên đầu đời Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông chỉ trích _Đào nhân pháp_, công
**Hồ Phương** (chữ Hán: 胡方, 1654 – 1727 ), tự **Đại Linh**, người Tân Hội, Quảng Đông, học giả đời Thanh. ## Tiểu sử Phương vốn là Tuế cống sanh , tôn sùng cái học
**Quảng Lộc** (Giản thể: 广禄, Phồn thể: 廣祿; 1706 – 1785) là một thân vương của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Quảng Lộc sinh vào giờ Thân, ngày 27 tháng
**Đồng Hoa** (chữ Hán: 童华, ? - ?), tự **Tâm Phác**, người Sơn Âm, Chiết Giang , quan viên nhà Thanh. Ông được sử cũ xếp vào nhóm quan viên địa phương có thành tích
**Quốc Hưng** (chữ Hán: 国兴, ? – 1775), người Đại Định, Quý Châu , tướng lãnh nhà Thanh, tử trận trong chiến dịch bình định Đại – Tiểu Kim Xuyên lần thứ 2. ## Sự
**Vương Quân** (chữ Hán: 王筠, 1784 – 1854), tự **Quán Sơn**, người An Khâu, Sơn Đông, học giả đời Thanh. Ông là 1 trong 4 danh gia đời Thanh chú giải Thuyết văn giải tự
**Lý Thành Đống** (chữ Hán: 李成棟;? – 6 tháng 4 năm 1649 (Ất Mão tháng 2 năm Vĩnh Lịch thứ 3)), tên tự là **Đình Ngọc** (廷玉), người Ninh Hạ, quân tịch vệ Ninh Hạ
nhỏ|Hoàng Việt **Hoàng Việt** (chữ Hán: 黄钺, 1750 – 1841), tự **Tả Điền** (左田), hiệu **Tả Quân** (左君), **Manh Tả** (盲左), người huyện Đương Đồ, phủ Cưu Châu, tỉnh An Huy , quan viên, nhà
**Trương Văn Hổ** (chữ Hán: 张文虎, 1808 – 1885), tự **Vu Bưu**, **Khiếu Sơn**, hiệu **Thiên Mục Sơn Tiều**, người trấn Chu Phố, huyện Nam Hối, tỉnh Giang Tô , học giả đời Thanh trong
**Trần Lâm** tên thật là **Trần Quảng Vận** (1922–2011), nhà báo, một trong những người sáng lập và là người đầu tiên lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, liên
**Y Tịch** (chữ Hán: 伊闢 hay 伊辟 ), tự Lư Nguyên, người huyện Tân Thành, Sơn Đông , quan viên đầu đời Thanh. ## Thời Thuận Trị Năm 1648 (thời Thuận Trị), Tịch đỗ đầu
**Lưu Nguyên** (chữ Hán: 刘源, ? – ?), tự **Bạn Nguyễn**, người Tường Phù, Hà Nam, là họa sĩ, nhà thiết kế mỹ thuật công nghệ cung đình đời Thanh. Ông từng thiết kế gốm
**Lý Tự Thành** (李自成) (1606-1645) nguyên danh là **Hồng Cơ** (鴻基), là nhân vật thời _"Minh mạt Thanh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa và cuộc đời của Lý Tự Thành gắn
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
Dưới triều nhà Thanh (1644-1911), đã xảy ra hai vụ án lớn có liên quan đến văn tự, làm liên lụy nhiều người, đó là **vụ án Minh Sử** và **vụ án Điềm kiềm ký
**A Quế** (, , 7 tháng 9 năm 1717 - 10 tháng 10 năm 1797), tên tự **Quảng Đình** (廣廷), **Vân Nham** (云岩), hiệu **Vân Nhai** (云崖), thất danh **Đức Ấm đường** (德荫堂), Ông xuất
Móng que tập sơn, móng que làm mẫu nail"nhựa cao cấp gồm 50 que /1 sâu"* GIỚI THIỆU SẢN PHẨM : -Móng que tập sơn, làm mẫu-Gồm 3 màu shop sẵn có: đen,trắng trong,màu đục-
Móng que tập sơn, móng que làm mẫu nail"nhựa cao cấp gồm 50 que /1 sâu"* GIỚI THIỆU SẢN PHẨM : -Móng que tập sơn, làm mẫu-Gồm 3 màu shop sẵn có: đen,trắng trong,màu đục-
thế=|nhỏ|250x250px|Tấm biển Càn Thanh cung với [[chữ Hán ở bên trái và chữ Mãn ở bên phải.]] **Cung Càn Thanh** (chữ Hán: 乾清宫; bính âm: _Qiánqīng gōng_; ) là một cung điện trong Tử Cấm
**Hoằng Quế** (chữ Hán: 弘㬙; 27 tháng 1 năm 1719 - 25 tháng 9 năm 1780), Ái Tân Giác La, là một Tông thất của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời
**Mông Cổ thuộc Thanh** (chữ Hán: 清代蒙古), còn gọi là **Mông Cổ Minh kỳ** (蒙古盟旗), là sự cai trị của nhà Thanh của Trung Quốc trên thảo nguyên Mông Cổ, bao gồm cả bốn aimag
**Chương Á Nhã** (, 1913 - 1942) làm một nữ văn sĩ Trung Hoa. ## Lịch sử Chương Á Nhã sinh ngày 01 tháng 01 năm 1913 tại trấn Nam Xương tỉnh Giang Tây với
**Ngụy Thanh Thái** (chữ Hán: 魏清泰; ? - ?) là một quan lại ngoại thích thời Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. Ông là thân phụ của Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, từng là
thumb|250x250px|Các binh sĩ Võ Vệ hữu quân thuộc quyền [[Viên Thế Khải đang hộ tống Thái hậu Từ Hy hồi cung năm 1902]] **Võ Vệ quân** () là lực lượng quân sự hiện đại đầu
**Trương Đăng Quế** (chữ Hán: _張登桂_, 1793-1865), tự: **Diên Phương**, hiệu: **Đoan Trai**, biệt hiệu: **Quảng Khê**; là danh thần trải 4 triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trong lịch sử
nhỏ|317x317px|"Người que" cơ bản thể hiện một người, với một vòng tròn cho đầu và các đường cho thân, cánh tay và chân. **Stickman**, hay còn được gọi là **người que**, là một hình vẽ
**Quế Sơn** 桂山 là một huyện thuộc tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Quế Sơn cách thành phố Đà Nẵng 40 km về phía tây nam và cách thành phố Tam Kỳ 30 km
**Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật** là 1 trong 2 lĩnh vực của Giải thưởng Nhà nước, do Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định, tặng thưởng cho những tác giả
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
**Ngô Tam Quế** (tiếng Hán: 吳三桂, bính âm: _Wú Sānguì_, Wade-Giles: _Wu San-kuei_; tự là **Trường Bạch** 長白 hay **Trường Bá** 長伯; 1612 – 2 tháng 10 năm 1678), là Tổng binh cuối triều Minh,
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Thạch Lam** (1910-1942), tên thật là **Nguyễn Tường Vinh**, là một nhà văn Việt Nam thuộc nhóm _Tự Lực văn đoàn_. Ông là em ruột của hai nhà văn khác cũng trong nhóm Tự Lực
**Nhà Triệu** () là triều đại duy nhất cai trị nước **Nam Việt** (ngày nay gồm 1 phần của Miền Nam Trung Quốc và Miền Bắc Việt Nam) suốt giai đoạn 204–111 trước Công nguyên
**Nhà thờ và phần mộ Danh nhân Đào Hữu Ích** tọa lạc tại thôn Trung Bằng, xã Sơn Bằng, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, được xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa
**Giang Nam** (tên thật là **Nguyễn Sung**; 1929 – 2023) là nhà thơ, chính khách Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2001. Bài thơ "_Quê hương_" là
Giới từ của tiếng Tây Ban Nha—như giới từ trong các ngôn ngữ khác—là bộ các từ nối (như là _con_, _de_ hoặc _para_) có mục dích chỉ mối quan hệ giữa một từ nội