Lý Nhân (chữ Hán: 李裀, ? – 1656), tên tự là Long Cổn, người Cao Mật, Sơn Đông, quan viên đầu đời Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông chỉ trích Đào nhân pháp, công kích trực diện sự bạo ngược của quý tộc Bát kỳ đối với người Hán, nên phải chịu lưu đày cho đến chết.
Khởi nghiệp
Năm Thuận Trị thứ 6 (1649), Nhân lấy thân phận cử nhân, vượt qua kỳ khảo hạch để được thụ chức Nội viện Trung thư xá nhân. Sau đó Nhân được cất làm Lễ khoa Cấp sự trung, rồi chuyển sang Binh khoa. Về sau Nhân hặc Lại bộ Lang trung Tống Học Thù chủ trì thi cử ở Hà Nam, chứa gái nhận quà, tra ra là thật, khiến ông ta chịu đoạt quan.
Phản đối Đào nhân pháp
Buổi đầu nhà Thanh tiến vào Trung Nguyên, quyền thần Đa Nhĩ Cổn ban bố nhiều pháp lệnh tàn bạo, hòng đáp ứng những lời hứa hẹn đối với giới quý tộc Mãn Châu, khiến người Hán vô cùng bất mãn . Một trong số đó là Đầu sung lệnh, cưỡng bức nông dân ngươi Hán mất ruộng đất làm nô bộc cho những chủ đất mới người Mãn. Những người Hán này chịu sự áp bức bạo ngược, nên bỏ trốn rất nhiều; lại tù binh người Hán ở Liêu Đông trước đây sau khi theo quân Thành nhập Quan, luôn tìm cách bỏ trốn. Nô bộc bỏ trốn ngày một nhiều, khiến quý tộc Mãn Châu căm phẫn, quay sang trừng phạt vô cùng khắc nghiệt người nào dám chứa chấp người bỏ trốn.
Năm Thuận Trị thứ 11 (1654), hội nghị Nghị chánh Vương đại thần đòi bắt kẻ chứa chấp người bỏ trốn làm nô bộc cho Kỳ chủ, láng giềng hai bên chịu lưu đày, kẻ bị bắt lại mà bỏ trốn giữa đường thì đến cả con cái cũng chịu lưu đày. Thuận Trị đế cho rằng như thế là quá nghiêm khắc, mệnh cho bàn bạc lại, nhưng hội nghị vẫn giữ nguyên đòi hỏi trên. Năm thứ 12 (1655), Nhân dâng sớ phản đối, đời sau gọi là Gián đào đông sớ (谏逃东疏, Gián: khuyên can; đào đông: Đông nhân đào tẩu).
Nhân nói: “Hoàng thượng là chủ Trung Quốc, xem thiên hạ đều là một nhà. Vậy lập riêng danh mục gọi là Đông nhân hay Cựu nhân, không thể không nghiêm tra; thế là đúng. Nhưng đặt ra hình phạt quá nặng, vạ lây quá nhiều, khiến cho người trong nước không kể đến giàu – nghèo – sang – hèn, đều lo sợ vận mệnh không trọn sớm – tối. Lòng người rối bời, tổn thương nguyên khí, là việc gây đau lòng thứ nhất. Lập ra phép tắc nhưng người vi phạm ngày càng nhiều, đáng nghĩ xem họ được lợi ích gì ở việc giấu giếm mà trở nên liều lĩnh. Đây hẳn xem Đông nhân là của quý, thừa cơ làm bậy. Giàu có tan nhà, nô tỳ gây vạ, tiếng tăm mất sạch, là việc gây đau lòng thứ hai. Phạm pháp không tha, liên đới cũng không bỏ qua, tức là đại nghịch bất đạo, không gì hơn được. Phá một nhà tức là hao hụt thuế má của một nhà, giết một người tức là phí công nuôi dạy của một người. Mười năm nuôi nấng, mười năm dạy dỗ, nay lại dùng Đào nhân pháp giết đi làm chi? Là việc gây đau lòng thứ ba. Lòng người không khác nhau mấy, khiến họ có nơi gửi mình, thì sao phải khổ sở dắt nhau bỏ trốn, huống hồ lên đến hơn 3 vạn người? Họ chẳng phải đều là nhớ quê nhà, mong thân nhân rõ ràng à. Không nghĩ ân nghĩa ràng buộc tấm lòng của họ, lại muốn áp đặt nơi chốn của họ, trừng phạt càng nặng, bỏ trốn càng nhiều, là việc gây đau lòng thứ tư. Từ khi đuổi bắt rồi dẫn giải, đến khi kéo vào mà thẩm vấn, đường sá quấy quả, gà chó chẳng yên. Không nói oan khuất của họ thực sự rất nhiều, mà dây leo mọc khắp chốn, người ở chợ búa bị xiềng xích gần hết. Ngày lại qua ngày, nhân khẩu điêu tàn, ai còn là con đỏ của hoàng thượng? Là việc gây đau lòng thứ năm. Lại không riêng gì kẻ phạm pháp mà thôi, dân đói lưu lạc, quan lại lấy cớ tra xét Đông nhân mà đóng cửa Quan, dân bị sập cửa, không chỗ che đầu. Than ôi họ là lê dân khốn cùng, triều đình đáng ra phải miễn thuế nấu cháo, cho họ cơm ăn áo mặc, sao lại vì Đào nhân pháp mà đẩy họ vào chỗ chết? Là việc gây đau lòng thứ sáu. Phụ nữ luẩn quẩn ngoài đồng hoang, già trẻ ngã lăn dưới ngòi rãnh. Người nào có sức lực, hứng sương móc, đội gió tuyết, cứ thế sẽ mạo hiểm làm càn. Nay giặc giã chưa yên, chiêu phủ không kịp, vốn là con đỏ của ta, lại đuổi họ làm giặc ru? Là việc gây đau lòng thứ bảy. Thần cho rằng nên nghiêm khắc với họ sau khi bỏ trốn, sao lại nghiêm khắc với họ trước khi bỏ trốn? Nay đối với Người bỏ trốn 3 lần mới dùng đến pháp luật, còn sơ phạm, tái phạm thì chẳng qua phạt đòn là được. Xin làm sắc từ nay về sau đối với Người bỏ trốn chỉ cần sơ phạm lập tức luận tội chết, nhưng hoàng thượng hiếu sanh như trời, không nhẫn tâm giết họ, có thể phỏng theo lệ thích chữ đối với trộm cắp, đều chịu thích chữ vào mặt và tay. Như thế Người bỏ trốn không dám bỏ trốn, thì người ta không cần chứa chấp họ nữa.”
Sớ dâng lên, Thuận Trị đế giữ lại, hơn 10 ngày sau mới giao xuống cho các đại thần. Hội nghị Nghị chánh Vương đại thần thừa nhận không thể khép tội Nhân theo luật, nhưng 7 việc gây đau lòng (thất khả thống) là vô cùng đáng ghét, đòi giết chết ông. Thuận Trị đế không đồng ý, họ bèn đòi phạt đòn Nhân, đày đi Ninh Cổ Tháp. Cuối cùng đế mệnh cho Nhân được miễn phạt đòn, an trí ông ở Thượng Dương bảo thuộc Thịnh Kinh (nay là Thẩm Dương). Sang năm (1656), Nhân mất.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lý Nhân** (chữ Hán: 李裀, ? – 1656), tên tự là **Long Cổn**, người Cao Mật, Sơn Đông, quan viên đầu đời Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông chỉ trích _Đào nhân pháp_, công
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng** là cơ quan quyền lực Nhà nước tại thành phố Đà Nẵng, được tổ chức và có chức năng theo quy định của _Luật tổ chức Hội
**Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh** là cơ quan quyền lực nhà nước địa phương ở Thành phố Hồ Chí Minh, tạo thành nhánh lập pháp trong Chính quyền Thành phố Hồ
**Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp** hay** Ủy ban Quản lý vốn nhà nước** là cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam; được Chính phủ giao thực hiện quyền, trách nhiệm
**Các cơ quan chuyên môn Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội** bao gồm các sở, cơ quan ngang sở đặc thù (gọi chung là cấp sở) trực thuộc Ủy ban nhân dân thành
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Bắc Kinh** (Tiếng Trung Quốc: **北京市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Běijīng shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán - Việt: _Bắc Kinh thị Nhân dân Chính phủ
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Thượng Hải** (Tiếng Trung Quốc: **上海市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Shàng Hǎi shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán - Việt: _Thượng Hải thị Nhân dân Chính
phải|[[Trụ sở Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh]] **Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh** là cơ quan hành chính nhà nước nằm trong phân cấp hành chính Cộng hòa
**Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội** là cơ quan quyền lực Nhà nước tại Hà Nội, được tổ chức và có chức năng theo quy định của _Luật tổ chức Hội đồng nhân
**Trịnh Trân** (chữ Hán: 郑珍, 1806 – 1864), tên tự là **Tử Doãn**, vãn hiệu **Sài Ông**, biệt hiệu **Tử Ngọ sơn hài**, **Ngũ Xích đạo nhân**, **Thư Đồng đình trưởng**, người huyện Tuân Nghĩa,
**Bác Lạc** (, chữ Hán: 博洛, 1613 – 23 tháng 4 năm 1652), Ái Tân Giác La, là một Thân vương, một nhà quân sự thời kỳ đầu của nhà Thanh trong lịch sử Trung
**Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh** là người đứng đầu Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, cơ quan hành chính của Thành phố Hồ Chí Minh. Chủ
nhỏ|369x369px|UBND thành phố Hà Nội.|thế= **Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội** là cơ quan hành chính nhà nước nằm trong hệ thống hành chính Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Thiên Tân** (Tiếng Trung Quốc: **天津市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Tiān Jīn shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán – Việt: _Thiên Tân thị Nhân dân Chính
**Bảo Thái** (chữ Hán: 保泰; 1682 – 1730), Ái Tân Giác La, là một Tông thất của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Bảo Thái được sinh ra vào giờ Thân,
**Lý Hóa Long** (chữ Hán: 李化龍; ?-1789) là một võ tướng của triều đình nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, chiếm được các trại Cố Bốc Tế (固卜濟), Mã Nhĩ Địch Khắc (瑪爾迪克). Sau
thumb|Nhiếp chính vương [[Tải Phong - thân sinh của Tuyên Thống Đế.]] Triều đại nhà Thanh của Trung Quốc đã phát triển một hệ thống xếp hạng quý tộc rất phức tạp. Tất cả các
**Doãn Kế Thiện** (chữ Hán: 尹继善; ; 1695 – 1771), tên tự là **Nguyên Trường** (元長), cuối đời tự đặt hiệu **Vọng Sơn** (望山), người thị tộc Chương Giai (Janggiya Hala), dân tộc Mãn Châu,
**Mộng Lân** (, chữ Hán: 梦麟, 1728 – 1758), tên tự là **Văn Tử**, tự khác là **Thụy Chiêm**, người thị tộc Tây Lỗ Đặc, dân tộc Mông Cổ, thuộc Mông Cổ Chính Bạch kỳ,
**Phùng Quang Hùng** (chữ Hán: 冯光熊, ? – 1801), tự **Thái Chiêm**, người Gia Hưng, Chiết Giang, quan viên nhà Thanh. ## Khởi nghiệp và thăng tiến Năm Càn Long thứ 12 (1747), Quang Hùng
**Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội** là cơ quan chuyên trách của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội, có chức năng giám sát về tình hình thực thi
**Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội** là người đứng đầu Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, cơ quan hành chính của thành phố. Chủ tịch Ủy ban nhân dân
**Ban, ngành, đơn vị trực thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội** bao gồm các ban, đơn vị thuộc khối an ninh-tư tưởng, đơn vị thuộc khối tư pháp, tài chính... không thuộc
**Lôi Hoành** (chữ Hán: 雷鋐, 1697 – 1760), tên tự là **Quán Nhất**, người Ninh Hóa, Phúc Kiến, là quan viên nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Học vấn Hoành làm chư sanh,
**Hòa Thạc Thân vương** (和硕亲王) gọi tắt **Thân vương** (亲王) là tước vị cao nhất dành cho tông thất nhà Thanh và quý tộc bộ Hồi, đồng thời là tước vị hạng thứ 2 cho
**Quế Lâm** (chữ Hán: 桂林, ), người thị tộc Y Nhĩ Căn Giác La (Irgen Gioro hala), thuộc Mãn Châu Tương Lam kỳ, là một quan viên, tướng lãnh nhà Thanh. Ông còn là cha
nhỏ|300x300px|Bản đồ mật độ dân số thế giới năm 1994. **Địa lý nhân khẩu** hay **địa lý dân cư** là một bộ phận của địa lý nhân văn, nghiên cứu về thành phần, phân bố,
**Văn phòng Đoàn đại biểu quốc hội và Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội** là cơ quan giúp việc của Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân thành phố Hà
**Nhân sự Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh khóa X** (2021-2026) gồm 94 đại biểu. ## Tổng quan Ngày bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân cả nước là 23
**Đồng Hoa** (chữ Hán: 童华, ? - ?), tự **Tâm Phác**, người Sơn Âm, Chiết Giang , quan viên nhà Thanh. Ông được sử cũ xếp vào nhóm quan viên địa phương có thành tích
**Trần Thái** (chữ Hán: 陈泰, ? – 1655), người thị tộc Nữu Hỗ Lộc, thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, quan viên, tướng lĩnh nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông
**Quảng Lộc** (Giản thể: 广禄, Phồn thể: 廣祿; 1706 – 1785) là một thân vương của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Quảng Lộc sinh vào giờ Thân, ngày 27 tháng
**Tiền Phong** (chữ Hán: 钱灃/钱沣, 1740 – 1795 ), tự **Đông Chú**, hiệu **Nam Viên**, người Côn Minh, Vân Nam, quan viên nhà Thanh. ## Khởi nghiệp Năm Càn Long thứ 36 (1771), Phong đỗ
**Hòa Lâm** (chữ Hán: 和琳, , 1753 – 1796), tự **Hi Trai**, thất danh **Vân Hương đường** (芸香堂), Nữu Hỗ Lộc thị, thuộc Mãn Châu Chính Hồng kỳ, quan viên, tướng lãnh nhà Thanh. Ông
**Trường Thanh** (chữ Hán: 長清, ? – 1837), người thị tộc Nữu Hỗ Lộc (Niohuru hala) thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, quan viên nhà Thanh. ## Thân thế Thị tộc Nữu Hỗ Lộc là
**Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội** là cơ quan xét xử cấp cao nhất tại Hà Nội. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo
**Quốc Hưng** (chữ Hán: 国兴, ? – 1775), người Đại Định, Quý Châu , tướng lãnh nhà Thanh, tử trận trong chiến dịch bình định Đại – Tiểu Kim Xuyên lần thứ 2. ## Sự
**Lý Nhân Tông** (chữ Hán: 李仁宗 22 tháng 2 năm 1066 – 15 tháng 1 năm 1128) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì Đại
**Huỳnh Công Lý** hay **Hoàng Công Lý** (? - 1821) là võ quan cao cấp của nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1819, ông được cử làm Phó tổng trấn Gia Định thành,
**Ariq Qaya** (chữ Hán: 阿里海牙; 1227-1286) phiên âm Hán - Việt: **A Lý Hải Nha**, còn phiên thành **A Lạt Hải Nha**, **A Lực Hải Nha** hoặc **A Nhĩ Cáp Nhã**, là viên tướng lĩnh
**Lý Nhân Nghĩa** (chữ Hán: 李仁義) là một đại thần nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông có công phò tá Thái tử Lý Phật Mã (Lý Thái Tông) lên ngôi, trấn áp loạn
**Chính phủ Nhân dân thành phố Đặng Châu thứ hai** () hoặc **Chính phủ Nhân dân thành phố Đặng Châu mới** (), là chính quyền địa phương giả mạo do ba người nông dân tên
**Trần Lập** (chữ Hán: 陈立) là học giả đời Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Trần Lập (sinh năm 1809 – mất năm 1869 ) tự **Trác Nhân**, hiệu **Mặc Trai**, người
Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, trực thuộc Chính phủ, chịu trách nhiệm quản lý toàn diện các lĩnh vực kinh tế
**Lý Nhân Đạt** (chữ Hán: 李仁達; ?- 947), còn gọi là **Lý Hoằng Nghĩa** (李弘義) (945-946), **Lý Hoằng Đạt** (李弘達) (946), **Lý Đạt** (李達) (946-947), và **Lý Nhụ Uân** (李孺贇) (947), là một quân phiệt
Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, trực thuộc Chính phủ và do Hội đồng nhân dân Thành phố bầu ra. Cơ quan này
nhỏ|Hoàng Việt **Hoàng Việt** (chữ Hán: 黄钺, 1750 – 1841), tự **Tả Điền** (左田), hiệu **Tả Quân** (左君), **Manh Tả** (盲左), người huyện Đương Đồ, phủ Cưu Châu, tỉnh An Huy , quan viên, nhà
**Vương Quân** (chữ Hán: 王筠, 1784 – 1854), tự **Quán Sơn**, người An Khâu, Sơn Đông, học giả đời Thanh. Ông là 1 trong 4 danh gia đời Thanh chú giải Thuyết văn giải tự