✨Chiến tranh Kim–Tống (1217–1223)

Chiến tranh Kim–Tống (1217–1223)

Chiến tranh Kim–Tống (1217–1223) hay Kim quân tam đạo công Tống chi chiến (金军三道攻宋之战) là một loạt những cuộc giao tranh giữa quân đội hai nước Kim và Nam Tống kéo dài trong suốt sáu năm từ 1217 đến 1223, do nước Kim phát động, tấn công liên tục vào biên giới triều Tống ở Lưỡng Hoài. Quân Tống ra sức chống trả, giữ vững thế cầm cự và đẩy lui hầu hết các cuộc tiến công của quân Kim. Về sau khi Kim chủ Hoàn Nhan Tuân qua đời, lại thêm Mông Cổ uy hiếp từ phía bắc khiến triều Kim phải chủ động bãi binh, lập lại hòa bình vào năm 1223.

Bối cảnh

Sau cuộc chiến tranh kéo dài hai năm từ 1206 đến 1208, hai nước Tống-Kim thiết lập lại hòa bình với bản Hòa ước Gia Định, tăng tiền triều cống lên 30 vạn, hai bên xưng nước bác nước cháu. Nhưng ngay sau đó, nước Kim chính thức bước sang thời kì rối loạn và suy yếu. Cuối năm 1208, Kim Chương Tông (1189 - 1208) mất không có con nối dõi, Hoàng thúc Vệ vương Hoàn Nhan Vĩnh Tế được nối ngôi. Kim chủ Vĩnh Tế bất tài vô dụng, không thể giữ được đất nước. Trong cung nước Kim khi đó có hai phi tần là Giả thị và Phạm thị đang mang thai cốt nhục của cố chủ Cảnh, Vĩnh Tế lo sợ đế vị lung lay nên cùng Bộc Tán Đoan tìm kế, rồi giả truyền di chiếu nói Giả thị sinh nở từ tháng 11 nhưng nay đã quá hạn, còn Phạm thị sinh vào tháng giêng mà nay ngự y chẩn đoán không thấy thai, hai người bị ép làm ni cô. Nguyên phi Lý thị vốn gần gũi với Giả thị, biết được mưu đồ đó. Vĩnh Tế liền giết chết Lý thị rồi bảo là lâm bệnh qua đời. Người nước Kim tỏ ra bất bình.

Đúng lúc đó nước Kim lại phát sinh họa ngoại xâm. Từ năm 1209, Thiết Mộc Chân (tức Thành Cát Tư Hãn của Mông Cổ) bắt đầu đem quân xâm lược nước Kim, nước Kim đã suy yếu nên thua hết trận này đến trận khác. Giữa lúc đó trong triều phát sinh nội biến. Năm 1213, tướng Hồ Sa Hổ oán hận vì bị bãi chức liền tập hợp quân mã xông vào cung giết Kim chủ Vĩnh Tế, đưa anh Chương Tông là Dực vương Hoàn Nhan Tuân nối ngôi, tức là Kim Tuyên Tông. Ít lâu sau tướng khác là Thuật Hổ Cao Kì bị Hồ Sa Hổ mắng tội vì thua trận trước Mông Cổ nên lại phát động chính biến giết Hồ Sa Hổ. Sau đó quân Mông Cổ lại đánh xuống phía nam. Kim chủ sai Hoàn Nhan Thừa Huy phải cắt đất nghị hòa với Mông Cổ; khi người Mông rút đi thì Kim chủ quyết định dời đô từ Yên Kinh về Biện Kinh(1214), để thái tử Hoàn Nhan Thủ Trung ở lại giữ Yên Kinh. Thiết Mộc Chân nghe Kim chủ dời đô lại đánh xuống phía nam. Kim chủ lo sợ vội triệu thái tử về nam, quân Kim ở Yên Kinh càng mất tinh thần, không sau chống nổi quân Mông. Tướng giữ thành Hoàn Nhan Thừa Huy uống rượu độc tự vẫn, Mục Diên Tận Trung bỏ chạy về nam. Tháng 5 ÂL năm 1215, Thiết Mộc Chân hạ được Yên Kinh, khống chế toàn bộ phía bắc sông Hoàng Hà. Nước Kim ngày càng suy yếu, không thể chống đỡ nổi quân Mông.

Sau khi dời đô, Tuyên Tông sai sứ đến Tống đốc thúc phần tiền thuế còn thiếu. Tống Ninh Tông cùng phụ thần bàn bạc song ý kiến không được thống nhất, một phía chủ hòa đề nghị tiếp tục nhân nhượng với Kim, phái chủ chiến yêu cầu không nên nộp thuế cho Kim nữa. Cuối cùng Ninh Tông nghe lời của Chân Đức Tú bỏ việc triều cống, nhưng vẫn giữ mối hữu hảo, sai sứ sang Kim chúc mừng ngày tết và ngày sinh nhật. Cũng trong năm 1214, Hạ chủ Lý Tuân Húc vì bị bất mãn với Kim nên đã sai sứ đến Tống bàn việc liên minh tấn công Trung Nguyên, Ninh Tông không nghe. Hình bộ thị lang Lưu Dược và các thái học sinh cũng đều hết mực can ngăn nhưng không được. Tháng 9 ÂL năm 1215, Chân Đức Tú lúc này được bổ nhiệm làm Giang Đông chuyển vận sứ dâng sớ nêu năm điều mà triều đình cần thực hiện để chấn hưng đất nước

Không được quên nỗi nhục của tổ tông

Không nên chủ quan với bọn giặc cướp trong nước

Không được quên việc tích cực phòng bị bọn Rợ ở phía bắc

Không nghe lời gièm pha, li gián

Không bỏ qua những lời hay

Ninh Tông khen ngợi là thẳng thắn nhưng vẫn không có hành động gì. Lưu Hùng cũng bỏ Đại Tản quan bỏ trốn về nam, quân Kim tiếp tục đánh chiếm Cách Nha quan, Phụ Giao bảo. An Bính ở Thiểm trước đã liên kết với người Hạ cùng chống Kim nhưng khi Kim tấn công thì quân Hạ không tới, nên gặp đại bại, tổn thất 5 vạn người. Lợi châu thống chế Vương Dật sai đó triệu tập quân lính và hơn 10 vạn người trung nghĩa cùng tiến đánh quân Kim, đoạt lại Đại Tản quan, Phụ Giao bảo, rồi tiến công Tần châu, đánh tới tận Cốc Khẩu mới chịu lui. Mấy ngày sau, quân Kim lại từ Trường An, Phượng Tường tấn công vào Tây châu, Hòa châu, Thành châu và Giới châu, các nơi này liên tục thất thủ, người Kim chiếm lại Đại Tản Quan, tiến tới Bạc Hà trì. Hưng Nguyên Đô thống chế Ngô Chính dẫn quân chiếm lại được Đại Tản quan, chém tướng bỏ trốn Vương Lập. Đến tháng 3 ÂL năm 1218, người Kim phải rút khỏi Tưu Trì bảo.

Kim thái tử xuống miền nam

Tháng 9 ÂL, Lý Toàn còn phá được Mật châu và huyện Thọ Quang, Châu Bình, Lâm Cù, An Khâu thuộc lãnh thổ nước Kim. Lúc này ở phía bắc Mông Cổ lại tiến đánh nên Kim chủ có ý nghị hòa với Tống, sau Lã Tử Vũ đi sứ nhưng sau đó Tử Vũ giữa đường gặp quân Tống phải quay lại. Kim chủ sai thái tử Hoàn Nhan Thủ Tự làm Nguyên soái cùng Bộc Tán An Trinh làm Phó soái đánh xuống miền nam. Đầu năm 1219, quân Kim đánh vào các châu Tây, Hòa, Thành, Phượng và trại Hoàng Ngưu, lấy Vũ Hưu quan, phá phủ Hưng Nguyên, vây Đại An, tướng Tống Ngô Chính chết trận. Sau đó người Kim chiếm được Đại An tiến thẳng vào chiếm được Dương châu, Đổng Cư Nghị bỏ trốn. Đô thống chế Trương Uy sai tướng Thạch Tuyên đem quân ra chống, giành thắng lợi, giết hơn 3000 quân Kim, bắt sống tướng Kim Ba Đồ Lỗ An.

Tháng 7 ÂL năm 1219, Kim thái tử Thủ Tự sai Hoàn Nhan Ngoa vây dánh Tảo Dương. Mạnh Tông Chính chống trả quyết liệt, đồng thời sai người đến Tương Dương cầu viện. Triệu Phương nghe tin liền sai Hỗ Tái Hưng và Hứa Quốc đem hơn 3 vạn binh tiến đánh hai châu Đường, Đặng cả Kim để kéo quân Kim về cứu.

Ở đất Thục lúc này xảy ra nội loạn. Người lính ở Hưng Nguyên là Trương Phúc nổi dậy chống triều đình, cho quân của mình đội khăn đỏ Tháng 4 ÂL, Phúc cùng Mạc Giản đánh vào Lợi châu.

Tháng 4 ÂL năm 1222, Tuyên Tông vừa nghe tin Triệu Phương, An Bính qua đời liền sai Hoàn Nhan Ngoa là Hành Nguyên soái phủ sự, Tiết chế tam lộ quân mã, Đồng Thiêm thư Xu mật viện sự Thời Toàn làm phó cùng dẫn quân đánh Tống, vượt sông từ Dĩnh Thọ, đánh bại quân Tống ở Cao Kiều rồi đánh sang Cố Thủy, phá Hỗ châu, tướng Tống Tiêu Tư Trung gửi thư về triều cầu cứu. Nhưng về sau được lại sợ Tống Mông hai phía kẹp đánh sẽ bất lợi nên Hoàn Nhan Ngoa quyết định rút quân. Khi quân Kim chuẩn bị vượt Hoài trở về thì có lệnh từ Kim chủ bảo lưu quân ở Hoài Nam, lệnh mỗi người phải cắt 3 thạch lúa mạch của Tống làm quân lương, nên ba ngày sau quân Kim vẫn chưa vượt sông. Hoàn Nhan Ngoa nói với Thời Toàn :Lúc này nước cạn mà không chịu qua sông, đến khi nước lên thì khó vượt, quân Tống đuổi tới thì chết cả lũ.

Thời Toàn không nghe. Đêm hôm đó trời mưa to, nước sông dâng cơ, Hoàn Nhan Ngoa cho bắt cầu phao và làm thuyền để nhanh chóng vượt sông nhưng đã không kịp. Từ đâu bỗng vang tiếng pháo hiệu, chiêng trống nổi lên và quân Tống kéo tới. Thời Toàn quyết định lên thuyền chạy trước, bỏ mặt tướng sĩ muốn làm gì thì làm. Bộ binh Kim chưa kịp vượt sông, cầu lại bị gãy nên quân Kim nhanh chóng bại trận, nhiều người bị giết. Hoàn Nhan Ngoa đổ hết tội lỗi cho Thời Toàn khiến Toàn bị giết. Kim chủ từ đó cũng không dám tiến xuống phía nam nữa.

Chiến tranh kết thúc

Cuối năm 1223, Kim Tuyên Tông qua đời, thái tử Hoàn Nhan Thủ Tự nối ngôi giữa lúc Hà Bắc đã rơi sạch vào tay người Mông. Vua mới Kim Ai Tông sợ việc ba phía đều có địch (Mông-Tống-Hạ) nên quyết định bãi binh với Tống và Hạ, thiết lập lại hòa nghị, hai bên giảng hòa với nhau nhưng không rõ nội dung hòa ước. Mặc dù sau đó hai nước không giao chiến thêm một trận lớn nào nữa đến năm 1233 nhưng xung đột vẫn âm ỉ với việc tướng Tống là Lý Toàn chia quân đánh Kim và sau còn đầu hàng Mông Cổ chiếm giữ bờ nam sông Hoài, còn Kim thì tiếp nhận các tướng Nam Tống đầu hàng và phong tước cho họ. Về sau năm 1233, Mông Cổ lấy được Biện Kinh, vua Kim phải chạy về Thái châu thì Tống liên kết với Mông Cổ cùng tấn công vào sào huyệt cuối cùng này, diệt hẳn nước Kim.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Kim–Tống (1217–1223)** hay **Kim quân tam đạo công Tống chi chiến** (金军三道攻宋之战) là một loạt những cuộc giao tranh giữa quân đội hai nước Kim và Nam Tống kéo dài trong suốt sáu
**Mông Cổ chinh phạt nhà Kim** (chữ Hán: 蒙古罰金; phiên âm: _Mông Cổ phạt Kim_), hay **Chiến tranh Mông–Kim** (chữ Hán: 蒙金戰爭; phiên âm: _Mông-Kim chiến tranh_), là cuộc xâm lược toàn diện của người
**Mông Cổ chinh phục Tây Hạ** hay **Chiến tranh Mông - Hạ** là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế quốc Mông Cổ và vương quốc Tây Hạ của người Đảng Hạng. Với sự
**Kim Tuyên Tông** (chữ Hán: 金宣宗, 18 tháng 4 năm 1163 - 14 tháng 1 năm 1224), tên thật là **Hoàn Nhan Ngô Đô Bổ** (完顏吾睹補), **Hoàn Nhan Tùng Gia** (完颜從嘉), **Hoàn Nhan Tuân** (完颜珣),
**Tống Ninh Tông** (chữ Hán: 宋寧宗, 18 tháng 11, 1168 - 18 tháng 9, 1224), thụy hiệu đầy đủ là ** Pháp Thiên Bị Đạo Thuần Đức Mậu Công Nhân Văn Triết Vũ Thánh Duệ
nhỏ|phải|Tượng Mộc Hoa Lê **Mộc Hoa Lê** (_Muqali_, tên theo chữ Hán: 木華黎; sinh 1170- mất 1223) là một võ tướng Mông Cổ và là một trong _Tứ kiệt_ của Thành Cát Tư Hãn (gồm
**Quân Mông Cổ bao vây Khai Phong** từ năm 1232 đến năm 1233, kết quả là chiếm được Biện Kinh của triều Kim. Người Mông Cổ và Kim khi đó đã giao chiến trong gần
**Lý Huệ Tông** (chữ Hán: 李惠宗; tháng 7 năm 1194 – 3 tháng 9 năm 1226) là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224. Ông tên
**Các cuộc xâm lược của Mông Cổ** đã được tiến hành trong suốt thế kỷ 13, kết quả là tạo ra một Đế quốc Mông Cổ vô cùng rộng lớn bao phủ phần lớn châu
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều