✨Lý Thanh Chiếu

Lý Thanh Chiếu

Lý Thanh Chiếu (chữ Hán: 李清照, 13 tháng 3, 1084 - 12 tháng 5, 1155), hiệu Dị An cư sĩ (易安居士), là nữ tác gia chuyên sáng tác từ nổi tiếng thời nhà Tống, cùng Tân Khí Tật xưng gọi 「Tế Nam nhị An; 濟南二安」.

Với lối dùng hoa mỹ, bà đứng đầu trường phái "Uyển ước từ" (婉约词) biểu thị sự hoa lệ và giàu sự gợi hình trong khi sáng tác. Danh tiếng của bà được đánh giá cao nhất trong các nữ thi nhân của Trung Quốc, xưng tụng là Thiên cổ đệ nhất tài nữ (千古第一才女).

Theo đánh giá của nhà văn Lâm Ngữ Đường, thì Lý Thanh Chiếu là "Nữ thi nhân bậc nhất Trung Hoa".

Cuộc đời

Hôn nhân

Lý Thanh Chiếu sinh ngày 5 tháng 2 (âm lịch) năm 1084 (tức niên hiệu Nguyên Phong thứ 7) thời Tống Thần Tông, nguyên quán Tế Nam, tỉnh Sơn Đông. Bà là con gái của học giả kiêm nhà viết tản văn Lý Cách Phi, mẹ bà cũng là người thông thạo văn chương, là con gái tể tướng , cháu gái Trạng nguyên . Lớn lên trong một gia đình như thế, Lý Thanh Chiếu tự nhiên tiếp thu những vốn học từ tiền bối cộng thêm khả năng vốn có, mà Lý Thanh Chiếu đã thông tuệ dĩnh ngộ, tài hoa hơn người, từ nhỏ đã có tiếng hay thơ, được trong __ nhận xét là: Tự thiếu niên tiện hữu thi danh, tài lực hoa thiệm, bức cận tiền bối. Đại đệ tử của Tô Thức là cũng khen tài hoa hơn người của Lý Thanh Chiếu.

Lớn lên từ nhỏ ở Biện Kinh, Lý Thanh Chiếu tiếp thu một môi trường sinh hoạt ưu nhã, đặc biệt là cảnh tượng kinh đô phồn hoa, đã giúp bà rất nhiều trong việc chủ động sáng tác. Bắt đầu đáng kể nhất phải nói đến tác phẩm trứ danh, dân gian truyền tụng là 2 kỳ bài từ Như mộng lệnh. Bài từ viết ra, tâm tư biểu đạt đều tinh tế, đương thời văn sĩ đều lũ lượt khen ngợi.

Năm 1101, khi được 18 tuổi, Lý Thanh Chiếu kết hôn với Thái học sinh , là một nhà khảo chứng kim thạch học nổi tiếng, con trai thứ ba của . Vào thời điểm ấy, cha bà đang là Thị lang bộ Lễ, còn cha của Minh Thành làm Thị lang bộ Lại, gia thế tương đương, đều thuộc hàng ngang nhau và là quan viên cao cấp. Trong cảnh giàu sang quyền quý, là quý tộc tử đệ, nhưng Lý Thanh Chiếu cùng chồng vẫn sống rất thanh nhã cần kiệm. Sau 2 năm thành hôn, Triệu Minh Thành cũng bắt đầu làm quan, nhưng nếp sống của hai người vẫn giản dị như trước. Mỗi khi rảnh việc quan, hai vợ chồng cùng nhau xướng họa thơ văn, thu thập chỉnh lý sách vở, họa phẩm, các áng văn trên đá, trên đồng. Đặc biệt là việc thu thập sách, dù nhà họ Triệu có một thư viện khá phong phú, nhưng hai vợ chồng vẫn cảm thấy không đủ so với kiến thức của thiên hạ, nên luôn thông qua bạn bè mà dò hỏi những đầu sách hiếm trên đời.

Tai họa

Tháng 7 năm 1102, chỉ 1 năm sau khi kết hôn, Lý Thanh Chiếu liền gặp họa. Ấy là do trong triều có đảng tranh, cha của bà là Lý Cách Phi được liệt vào hàng Nguyên Hựu đảng nhân, bị Tống Huy Tông kiêng kỵ, không được ở kinh thành nhậm chức. Khi ấy danh sách liệt kê 17 người, mà Lý Cách Phi hàng thứ 5, cực kỳ đáng nghi ngại. Tháng 9 cùng năm, Huy Tông thân viết danh sách Nguyên Hữu đảng gồm 120 cái tên, Lý Cách Phi bị liệt hàng thứ 26. Thế mà Triệu Đĩnh Chi khi ấy một đường thăng chức, nhanh lên Thượng thư Tả thừa. Vì cứu cha, Lý Thanh Chiếu từng viết thư cầu tình Triệu Đĩnh Chi. Lý Cách Phi sau khi bị bãi quan, lặng lẽ dẫn người nhà về lại nguyên quán. Triều đình đảng tranh càng ngày càng nghiêm trọng, 2 năm liên tiếp liền ban chỉ:"Tôn Thất không được cùng con cháu của Nguyên Hữu đảng nhân kết thông gia", rồi còn cho Thượng thư tỉnh khám tư trạch của tất cả những ai có liên quan Nguyên Hữu đảng nhân. Lý Thanh Chiếu cùng chồng cứ như thế bị đe dọa hòa ly, bản thân bà ở Biện Kinh cũng không còn chỗ dựa nhà mẹ, cực kỳ hung hiểm.

Chính trị thay đổi, năm 1106, Thái Kinh bị bãi Tướng, Triệu Đĩnh Chi thăng phục Thượng thư Tả bộc xa kiêm Trung thư Thị lang. Cùng lúc đó, triều đình hủy Nguyên Hữu đảng nhân bia, đại xá thiên hạ, Lý Cách Phi đem cả nhà trở lại kinh sư. Thế nhưng sang năm sau (1107), Thái Kinh phục Tướng, nhà họ Triệu bị trả thù, bãi quan bãi tước, tập ấm qua đợt này bị mất cả. Lý Thanh Chiếu lại phải theo cùng nhà chồng về lại nguyên quán Thanh Châu, từ đây bắt đầu cuộc sống sinh hoạt dân dã, không còn phú quý thanh tao như trước. Bà đặt tên nơi ở của gia đình là Quy Lai đường (歸來堂), bắt đầu dùng tự hiệu Dịch An cư sĩ. Quy Lai đường, lấy ý từ bài Quy khứ lai hề từ của Đào Uyên Minh.

Năm 1127, xảy ra sự kiện Tĩnh Khang. Quân nhà Kim chiếm Khai Phong, bắt giữ cả hai vua nhà Tống là Thượng hoàng Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông, Nam-Bắc sông Hoàng Hà lần lượt rơi vào tay quân Kim, nhiều quan lại trong triều đình nhà Tống phải chạy xuống phía nam, vợ chồng bà cũng chạy xuống phía nam Hoài Hà.

Trong lúc loạn lạc, Triệu Minh Thành được lệnh làm Thái thú Hồ Nam, nhưng trên đường đi nhận chức thì bị cảm và chết ở Kiến Khang (nay là Nam Kinh). Chồng bà ốm chết mà quân Kim cứ tràn xuống tấn công, khiến bà cũng như triều đình nhà Tống cứ phải nay đây mai đó. Từ Hàng Châu, Việt Châu, Đài Châu, Kim Hoa.., những vùng miền này Lý Thanh Chiếu đã lần lượt trải qua. Bà sống một mình trong cảnh cô tịch, tâm trạng thê lương, thúc đẩy bà sáng tác một cách đáng kể trong khoảng thời gian này.

Năm 1134, Lý Thanh Chiếu hoàn thành Kim thạch lục hậu tự cho di tác Kim thạch lục của Triệu Minh Thành. Năm 1143, bà sửa lại một chút, sau đó đem toàn bộ di tác Kim thạch lục dâng lên triều đình. Ước chừng khoảng ngày 10 tháng 4 (âm lịch) năm 1155, Lý Thanh Chiếu trong sự nhớ thương chồng và người nhà thì lặng lẽ qua đời, ít nhất 70 tuổi.

Tác phẩm

thumb|Tranh vẽ Lý Thanh Chiếu của [[Thôi Thác (崔错) đời Thanh.]] Sáng tác của bà có: Dị An cư sĩ văn tập (易安居士文集) và Dị An từ (易安词) nhưng đã thất truyền, người đời sau thu thập lại khoảng 70 bài từ soạn thành cuốn Sấu Ngọc từ (漱玉词) và Lý Thanh Chiếu tập hiệu chú (李清照集校注). Ngoài từ, thơ Lý Thanh Chiếu hiện nay còn 15 bài, phần lớn là loại thơ cảm thán thời thế, vịnh sử, gửi gắm tấm lòng yêu đất nước.

Phong cách thơ của bà cứng cáp, hào phóng như bài Đề Bát Vịnh lâu (Đề lầu Bát Vịnh), Thướng Khu mật Hàn công thi (Thơ dâng lên ông Khu mật họ Hàn)...Trong số đó có bài Tuyệt cú (絕句) được nhiều người truyền tụng. Ngoài ra, bà còn có bài văn xuôi Kim thạch lục hậu tự (Bài tựa đề sau cuốn Sao lục về Kim văn và Thạch văn) kể lại quá trình vợ chồng bà biên soạn lại tập Kim thạch lục, với ngôn ngữ trong sáng, giản dị, phóng khoáng, sinh động, được cả hai mặt là tự sự và trữ tình.

Các sáng tác của Lý Thanh Chiếu được chia thành hai thời kỳ:

  • Trước sự kiện Tĩnh Khang, phần lớn từ của bà biểu hiện những cảm xúc trăn trở về tình yêu, niềm vui thích đối với cảnh vật, như các bài: Như mộng lệnh, Điểm giáng thần, Túy hoa ngâm, Nhất tiễn mai, Phượng Hoàng đài thượng ức xuy tiêu...
  • Sau khi Tống Cao Tông phục Tống, phần lớn từ của bà chứa đựng nỗi nhớ thương cố hương cùng niềm cô quạnh của mình, như các bài: Vũ Lăng xuân, Bồ tát man, Niệm nô kiều, Vĩnh ngộ lạc...Đặc biệt, bài Thanh thanh mạn được nhiều người yêu thích.

Lý Thanh Chiếu được nhiều nhà nghiên cứu văn học liệt vào hàng các nhà làm từ chính tông của phái "Uyển ước". Phái này chủ trương tính nghiêm ngặt của âm luật, ngôn ngữ, phong cách của từ v.v. Và khi bàn về từ, Lý Thanh Chiếu đề cao các đặc điểm: hiệp luật, điển nhã và tình trí (ngụ tình hết mức), phản đối việc đưa phép làm thơ vào làm từ, phân định rõ sự khác biệt giữa thơ và từ (biệt thị nhất gia) và chủ trương phải xếp riêng người sánh tác từ thành một phái tác giả.

Phái "Uyển ước" của bà cùng với phái "Hào phóng" do Tô Thức khởi xướng, đại biểu cho hai phong cách từ khác nhau.

Học giả Nguyễn Hiến Lê đã có một nhận xét khái quát như sau: Tô Thức giải phóng từ, bỏ niêm luật, mở rộng phạm vi cho nó, dắt nó từ những cảnh mơ mộng, hương phấn qua khu vực khoáng đạt hào hùng của tình cảm Trái lại, Lý Thanh Chiếu và Tống Huy Tông phản đối lại, bắt từ phải theo âm nhạc.

thumb|Minh họa Lý Thanh Chiếu đời Thanh.

Hai kỳ Như mộng lệnh (如夢令) đã làm nên tên tuổi của Lý Thanh Chiếu khi còn rất trẻ:

Bài Thanh thanh mạn (聲聲慢) cũng là một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi cho bà nhất. Đây là bài từ mà Lý Thanh Chiếu sáng tác sau những ngày chạy xuống Giang Nam. Trước nhiều đau khổ, bà đã lấy những nét sinh hoạt bình thường tả thành lời văn tha thiết, có ý nghĩa xã hội nhất định.

Nhận xét

thumb|phải|Tượng Lý Thanh Chiếu tại đài tưởng niệm Lý Thanh Chiếu, [[Tế Nam.]] Sách Lịch sử văn học Trung Quốc có nhận xét: :Về nghệ thuật của từ thì hai phái (vừa nêu trên) đều có những ưu điểm, nhưng về phái "Uyển ước" thì quả thật không rộng rãi bằng. Chính vì Lý Thanh Chiếu bị ràng buộc bởi quan niệm truyền thống đó nên mặc dù về kỹ thuật từ của bà đạt được trình độ khá cao, nhưng nội dung tư tưởng thì không khỏi bị hạn chế nhiều...

Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Huệ Chi đánh giá: :Từ của bà khéo dùng thủ pháp "bạch miêu" nói vật ngụ tình, tế nhị tinh xảo, quanh co uốn lượn, biểu đạt hết ý mình, ngôn ngữ thanh tân tự nhiên, âm luật hài hòa uyển chuyển, chiếm một vị trí riêng trên từ đàn triều Tống, được đời sau gọi là "thể từ của Lý Dị An" và đã ảnh hưởng mạnh mẽ cho các đời sau...

Nhà nghiên cứu văn học Vương Chước trong "Bích Kê mạn chí" (Ghi chép tản mạn ở núi Bích Kê) khen ngợi: :Dị an cư sĩ sáng tác trường đoản cú, có tài quanh co uốn lượn lột tả hết ý người và nhẹ nhàng, khéo léo, sắc sảo mới mẻ, trăm nghìn màu sắc hình dáng hiện ra đầu ngọn bút. Bàn về bà, nhà nghiên cứu văn học Nhật Chiêu có lời kết như sau: :_Lý Thanh Chiếu là một nữ từ nhân hiếm hoi và rất giỏi âm luật. Sau khi nhà Tống bị dồn về phương nam, vợ chồng nàng cũng chạy loạn. Sau khi chồng mất, nàng lưu lạc qua các châu quận khác nhau. Từ của nàng đẹp và buồn, đầy nữ tính như có thể thấy trong bài Vũ Lăng xuân và _Điểm giáng thần''...

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lý Thanh Chiếu** (chữ Hán: 李清照, 13 tháng 3, 1084 - 12 tháng 5, 1155), hiệu **Dị An cư sĩ** (易安居士), là nữ tác gia chuyên sáng tác từ nổi tiếng thời nhà Tống, cùng
Thanh Hóa là tỉnh nằm ở cực bắc của Trung Bộ, có đường biên giới với Lào và có bờ biển thuộc vịnh Bắc Bộ. Với diện tích lớn so với các tỉnh thành, **địa
**Lý Thánh Tông** hay **Lý Thánh Tôn** (chữ Hán: 李聖宗 30 tháng 3 năm 1023 – 1 tháng 2 năm 1072) là vị Hoàng đế thứ ba của hoàng triều Lý nước Đại Việt, trị
nhỏ|phải|Một khoá học về tâm lý học chiều sâu ở Nga năm 2014 **Tâm lý học chiều sâu** (_Depth psychology_/_Tiefenpsychologie_) đề cập đến việc thực hành và nghiên cứu khoa học về vô thức, bao
**Lý thuyết văn hóa đa chiều của Hofstede**, đề ra bởi nhà nhân chủng học người Hà Lan- Geert Hofstede, được coi là khuôn khổ cho sự giao tiếp đa quốc gia. Bằng việc phân
Hình chụp Lý Đại Chiêu **Lý Đại Chiêu** (chữ Hán Phồn thể: 李大釗; Giản thể: 李大钊; bính âm: Lǐ Dàzhāo; Wade-Giles: Li Ta-Chao) (29 tháng 10 năm 1889 – 28 tháng 4 năm 1927) tự
**Cao Ly** (), tên đầy đủ là **Vương quốc Cao Ly**, là một vương quốc có chủ quyền ở bán đảo Triều Tiên được thành lập vào năm 918 bởi vua Thái Tổ sau khi
**Lý Thành** (chữ Hán: 李成, ? - ?), tự **Bá Hữu**, người Quy Tín, Hùng Châu, vốn là tướng lãnh cấp thấp nhà Bắc Tống, trở thành trùm giặc cướp ở khoảng Giang - Hoài;
**Lý Thanh** (chữ Hán: 李清, 1602 – 1683) , tên tự là **Tâm Thủy**, hiệu là **Ánh Bích**, người huyện Hưng Hóa, phủ Dương Châu, Nam Trực Lệ , quan viên cuối đời Minh, tiếp
**Lý Thành Lương** (1526 - 1615), tên tự là **Nhữ Khê** (汝契), hiệu là **Dẫn Thành** (引城), người Thiết Lĩnh (nay là Thiết Lĩnh, tỉnh Liêu Ninh), bản quán là họ Lý ở Tinh Châu,
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Lý Tử Xuân** (Hangul: 이자춘; 1315 – 1360) là một quan lại của Nhà Nguyên (sau đó ông chuyển sang phục vụ cho Cao Ly) và cha của Lý Thành Quế, người thành lập nhà
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Lý Nhân Tông** (chữ Hán: 李仁宗 22 tháng 2 năm 1066 – 15 tháng 1 năm 1128) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì Đại
**Vị Thanh** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Hậu Giang cũ, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Vị Thanh nằm ở phía tây nam tỉnh Hậu Giang, cách trung tâm Thành phố
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
Bia [[Lý Thái Tổ bên sông Sào Khê tại Cố đô Hoa Lư, nơi vua ban chiếu dời đô.]] Chiếu dời đô, bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. **_Thiên đô chiếu_**
#đổi Đại Lý (thành phố cấp huyện) **Đại Lý** (tiếng Trung: 大理; bính âm: Dàlĭ; tiếng Bạch: Darl•lit; tiếng Hà Nhì: Dafli) là một huyện cấp thị tại Châu tự trị dân tộc Bạch Đại
**Việt Trì** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Thành phố Việt Trì là đô thị trung tâm của các tỉnh Trung du và miền núi Bắc Bộ và là
**Hoa Lư** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Ninh Bình, Việt Nam. Hoa Lư từng là kinh đô của Việt Nam giai đoạn (968 – 1010) với ba triều đại phong kiến liên
**Bến Tre** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Bến Tre cũ, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Thành phố Bến Tre có tọa độ địa lý từ 10°12'00_ đến
**Linh Chiếu hoàng thái hậu** (chữ Hán: 靈詔皇太后, trước năm 1108 - tháng 7, 1161), còn được biết đến là **Lê Thái hậu** (黎太后) hay **Cảm Thánh phu nhân** (感聖夫人), một phi tần của Lý
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề
**Hưng Yên** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Hưng Yên, Việt Nam. ## Địa lý trái|nhỏ|Một góc thành phố Hưng Yên Thành phố Hưng Yên nằm ở phía nam của tỉnh Hưng Yên,
**Pleiku** (còn được viết là **Plei Cu**, **Plây Cu**, **Plây Ku** hay **Plei Ku**) là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Gia Lai thuộc vùng Tây Nguyên, Việt Nam. Pleiku là đô thị miền
**Hải Dương** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Thành phố Hải Dương là trung tâm kinh tế, kỹ thuật, giáo dục, khoa học, y tế, dịch vụ của tỉnh
**Kon Tum** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Kon Tum cũ. Nơi đây từ xưa đã là địa bàn cư trú của người Ba Na bản địa, dẫn đến tên gọi Kon Tum,
**Hộ chiếu Việt Nam** là hộ chiếu được cấp cho công dân Việt Nam để đi lại quốc tế. Công dân Việt Nam mang hộ chiếu quốc gia được xuất cảnh, nhập cảnh qua các
**Phụng Thánh phu nhân** (chữ Hán: 奉聖夫人, 1108 - 18 tháng 9, 1171), là một phi tần của hoàng đế Lý Thần Tông, em gái của Linh Chiếu hoàng thái hậu, mẹ của Lý Anh
**Thanh Hóa** là tỉnh ven biển cực bắc vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Thanh Hóa. Thanh Hóa là 1 trong những trung tâm của
**Buôn Ma Thuột** (còn được viết là **Ban Mê Thuột**) là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Đắk Lắk, Việt Nam. Đây là thành phố lớn nhất ở vùng Tây Nguyên và là đô
**Phủ Lý** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Hà Nam cũ, Việt Nam, nay là phường Phủ Lý thuộc tỉnh Ninh Bình. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Thành phố Phủ
**Rạch Giá** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Kiên Giang, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Rạch Giá nằm ở trung tâm tỉnh Kiên Giang, có vị trí địa lý: *Phía đông
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Phan Thiết** là một thành phố ven biển cũ và là tỉnh lỵ, khu chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật của tỉnh Bình Thuận, Việt Nam. ## Địa lý ###
**Thành phố Hồ Chí Minh** hiện nay hình thành trên cơ sở sáp nhập nhiều đơn vị hành chính do chính quyền qua các thời kỳ trước đây thành lập. Do đó, tổ chức hành
**Lý Thái Tông** (chữ Hán: 李太宗 29 tháng 7 năm 1000 – 3 tháng 11 năm 1054) là vị hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cai trị
**Cao Lãnh** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. Thành phố Cao Lãnh là đô thị loại II và là đô thị trung tâm quan trọng của tỉnh Đồng Tháp.
**Bản khắc mộc Chiếu dời đô** ghi lại nguyên bản toàn bộ nội dung Chiếu dời đô của vua Lý Công Uẩn (974 – 1028), vị hoàng đế đầu tiên thời nhà Lý. Bẳn khắc
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp
**Chiến tranh tâm lý** hay **tâm lý chiến** là hệ thống (tổng thể) các phương thức, các thủ đoạn,hoạt động loại bỏ trạng thái chính trị - tinh thần và tổ chức, lực lượng vũ
**Biên Hòa** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Đồng Nai thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. ## Địa lý nhỏ|trái|Tượng Nguyễn Hữu Cảnh tại đền thờ ông ở [[Văn miếu Trấn Biên]]
**Tuy Hòa** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Phú Yên, Việt Nam. Là đô thị trù phú nằm ở hạ nguồn Sông Ba, dòng sông lớn nhất miền Trung. Đây là trung tâm
**Thanh Hóa** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Thanh Hóa, Bắc Trung Bộ, Việt Nam. Thành phố Thanh Hóa từng là một trong những thành phố trực thuộc tỉnh lớn nhất của cả
**Quân đội nhà Lý** là tổ chức quân đội của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, từ đầu thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ 13. Hoạt động quân sự nhà Lý diễn ra
**Hòa Bình** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Hòa Bình, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Hòa Bình nằm ở phía bắc của tỉnh Hòa Bình, dọc theo hai bên bờ sông
**Sóc Trăng** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Sóc Trăng cũ, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Sóc Trăng nằm ở vị trí trung tâm tỉnh Sóc Trăng, cách Thành phố Hồ
**Lý Lưu** (, 248-303), tên tự **Huyền Thông** (玄通), là chú của vua Lý Hùng nước Thành Hán và là em thứ tư của Lý Đặc - người đặt nền móng cho chính quyền. ##
**Tam Kỳ** (三岐) là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Quảng Nam (Nay là Đà Nẵng), Việt Nam. Thành phố Tam Kỳ là trung tâm hành chính, kinh tế, văn hóa, y tế, giáo