✨Trận thành Hà Nội (1882)

Trận thành Hà Nội (1882)

Trận thành Hà Nội 1882 hay còn gọi là trận Hà Nội lần thứ hai là một phần của cuộc chiến tranh Pháp Việt (1858-1884) diễn ra ngày 25 tháng 4 năm 1882. Đây là trận đánh giữa quân Pháp dưới quyền chỉ huy của Henri Rivière đánh thành Hà Nội, với lực lượng quân Nam do Tổng Đốc Hoàng Diệu chỉ huy. Kết quả thành Hà Nội thất thủ nhanh chóng chỉ sau vài giờ nổ súng, Tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn.

Bối cảnh

Phía Việt Nam

nhỏ|trái|Hoàng Diệu Năm 1873, sau khi chiếm được Nam Bộ, Pháp chuẩn bị tiến ra Bắc Bộ. Vua Tự Đức giao phó cho Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh, năm 1880. Ngay khi tới Hà Nội Hoàng Diệu đã chú tâm tới việc xây dựng thành lũy chuẩn bị lực lượng để chống Pháp. Từ năm 1880 đến 1882, ông đã hai ba lần dâng sớ xin triều đình chi viện để củng cố phòng tuyến chống giặc tại Hà Nội, nhưng không nhận được hồi âm từ Huế. Lúc này chủ trương của triều đình Tự Đức vẫn là dùng thương thuyết để ngăn ngừa chiến tranh một cách thụ động. Triều đình Huế còn bác bỏ đề nghị đem quân thượng du về bảo vệ Hà Nội và trung châu, của Hoàng Kế Viêm thống đốc quân vụ Tây Bắc.

Đầu năm 1882, lấy cớ Việt Nam không tôn trọng hiệp ước năm 1873 mà lại đi giao thiệp với Trung Hoa, dung túng quân Cờ Đen (một nhánh quân của Thái Bình Thiên Quốc) ngăn trở việc giao thông trên sông Hồng của người Pháp, Đại tá Henri Rivière của Hải quân Pháp cho tàu chiến cùng hơn 400 quân đóng trại tại Đồn Thủy (khu nhượng địa của Pháp từ năm 1873, trên bờ Nam sông Hồng, cách thành Hà Nội 5 km, tại vị trí bệnh viện Việt Xô ngày nay) nhằm uy hiếp Hà Nội. Hoàng Diệu đã hạ lệnh giới nghiêm tại Hà Nội và bố cáo các tỉnh xung quanh sẵn sàng tác chiến, đồng thời yêu cầu viện binh từ triều đình Huế. Tuy nhiên, vua Tự Đức đã hạ chiếu quở trách Hoàng Diệu đã đem binh dọa giặc và chế ngự sai đường. Nhưng Hoàng Diệu đã quyết tâm sống chết với thành Hà Nội. Ông cùng với Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, Đề đốc Lê Văn Trinh, Bố chính Phan Văn Tuyển, Án sát Tôn Thức Bá và Lãnh binh Lê Trực uống rượu hòa máu tỏ quyết tâm sống chết với Hà thành.

Lực lượng phòng thủ tại Hà Nội, theo bá tước De Kergaradec, lãnh sự đầu tiên của Pháp tại Hà nội từ năm 187:

  • Hai trung đội thu thuế thương chính: 108
  • Pháo binh giữ tường thành: 151 (hai trung đội).
  • Số lính phụ binh: 1.574 gồm: Một tiểu đoàn lính vệ (tình nguyện): 442 + Lính giám thành: 500 + Lính chạy trạm: 632

Thành Hà nội được xây dựng theo hình mẫu châu Âu từ thế kỉ trước, bản vẽ do các sĩ quan Pháp từng phục vụ vua Gia Long thực hiện. Mỗi cạnh tường thành dài ít nhất là 1200 mét, đắp bằng đất, bên ngoài phủ một lớp gạch lớn rất chắc. Trên mặt thành có 49 khẩu đại bác, nhưng tất cả đều bị rỉ sét và chắc là không phát pháo được.

Phía Pháp

[[Henri Riviere]] Theo Hiệp ước 1874, Pháp được phép đóng một đồn binh gồm 100 người tại Đồn Thủy trên sông Hồng. Quan hệ giữa chính quyền sở tại và người Pháp luôn ở trạng thái căng thẳng. Các quan nhà Nguyễn cho rằng người Pháp chẳng có lý do gì đáng kể để duy trì một đồn binh tại Bắc kỳ, ngoài việc làm tiền đồn để quân Pháp xâm lược Bắc kỳ. Thống đốc Nam kỳ Charles Le Myre de Vilers thì cho rằng trở ngại chính cho việc giao thương trên sông Hồng của họ là quân Cờ đen. Để giải quyết cái gai này thì theo ông ta chỉ cần đợi lúc nước ròng, cho giang thuyền bắn phá các doanh trại Cờ đen là đủ để phá tan đám "thổ phỉ" này. Việc khó khăn nhất chỉ là chọn cho được một viên chỉ huy chín chắn, chứ không phải một người bốc đồng, luôn tơ tưởng đến chiến công thành lập một đế quốc phương đông như Garnier, và người được chọn ấy là Henri Rivière. Đồng thời, họ cũng sẽ tránh các xung đột vũ trang không cần thiết với quân nhà Thanh nếu quân Thanh can thiệp. Khi Đô đốc Jauréguiberry, người luôn cổ vũ chính sách chinh phục Bắc kỳ, lên làm Bộ trưởng Bộ Hải quân ở Paris, thì kế hoạch của Le Myre de Vilers được chấp thuận.

Ngày 26 tháng 3 năm 1882, Rivière trên hai thuyền chiến, rới Sài Gòn ra bắc cùng 230 lính, để tăng cường cho đồn binh đóng ở trên sông Hồng. Vừa đặt chân lên đất liền, Rivière đã trở nên hết sức phấn khích, không khác gì Garnier khi trước. Theo ông ta, các quan lại bướng bỉnh người Việt phải bị trừng trị thích đáng, những công sự phòng thủ của quân Nam hoàn toàn có thể phục vụ tấn công... và những việc như vậy là không thể chấp nhận được. Ngày 24 tháng 4, sau khi nhận được 250 quân Pháp từ miền Nam đến tiếp viện thêm, Rivière gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Hoàng Diệu, đòi giao nộp thành ngay lập tức. Khi Hoàng Diệu còn chưa kịp trả lời, thì pháo thuyền của quân Pháp đã nổ súng bắn vào thành.

Diễn biến

Vết đại bác trên cổng Bắc thành Hà Nội do pháo thuyền của Pháp bắn vào. Nguyên văn biển đá bằng tiếng Pháp: 25 avril 1882: Bombarde de la citadelle par les canonnières "Surprise" et "Fanfare"; nghĩa là Ngày 25/04/1882: Vết bắn phá thành của các pháo thuyền "Surprise" và "Fanfare". Lực lượng Pháp dưới quyền Trung tá hạm trưởng Henri Rivière được rời Sài Gòn ngày 26 tháng 3 năm 1882 với 2 tàu chiến Drac và Parseval, chở theo 2 đại đội thủy bộ binh do thiếu tá Chanu chỉ huy, một toán biệt phái xạ thủ An Nam, 5 tàu sà-lúp máy hơi nước, mỗi binh sĩ được trang bị 200 viên đạn. Trước khi lên đường, Henri Rivière được lệnh phải tuân thủ hiệp định đã ký và chỉ được dùng vũ lực trong trường hợp cần thiết, Đại đội quân binh Pháp tới Hải Phòng ngày 2 tháng 4 rồi dùng tàu sà-lúp đưa quân đến Hà Nội ngày 3 tháng 4 năm 1882, rồi đóng quân ở Đồn Thủy hiện đang có 2 đại đội thủy bộ binh đóng giữ dưới sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Berthe de Villers..

Được tin quân Pháp động binh, quan binh Bắc Kỳ lo phòng bị chống giữ. Henri Rivière không được tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu tiếp đón long trọng có ý không hài lòng và gợi sự ra bằng cách cho rằng các việc sửa soạn phòng bị của quan binh triều đình ở Bắc Kỳ là có tính cách thù địch và khiêu khích.

Ngày 8 tháng 3 (âm lịch) năm Nhâm Ngọ tức 25 tháng 4 năm 1882, vào lúc 5 giờ sáng. H.Rivière gởi tối hậu thư đến Tổng đốc Hoàng Diệu hạn đến 8 giờ sáng thì trong thành phải giải giáp và các quan lại phải đến trình diện tại Đồn Thủy nếu không Rivière sẽ chiếm thành. Mặc dù trái lệnh ban đầu được giao về việc chỉ sử dụng vũ lực khi cần thiết, hành động của Rivière vẫn được thống đốc Nam Kỳ bao che và Rivière thậm chí còn được tặng thưởng huân chương về chiến tích này.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận thành Hà Nội 1882** hay còn gọi là **trận Hà Nội lần thứ hai** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp Việt (1858-1884) diễn ra ngày 25 tháng 4 năm 1882. Đây là
Cửa Bắc, hình chụp bên ngoài năm 2009. **Cửa Bắc**, **thành Cửa bắc** hay **Chính Bắc Môn** (正北門) là một trong năm cửa của thành cổ Hà Nội thuộc thời Nguyễn. ## Vị trí và
**Phố Nguyễn Khuyến** (tên thời Pháp thuộc: **Route de Sinh Từ**) là một tuyến phố cổ thuộc phường Văn Miếu, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Theo Nguyễn Vinh Phúc và Trần
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
**Trận Nam Định** (27 tháng 3 năm 1883), là một cuộc chạm trán giữa quân Pháp và quân Việt Nam, trong giai đoạn đầu của Chiến dịch Bắc Kỳ thuộc chiến tranh Pháp-Việt (1858-1884). Trong
**Trận Bắc Ninh** hay **Trận Pháp đánh thành Bắc Ninh** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ ngày 7 tháng 3 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng
nhỏ|[[Chợ Bến Thành về đêm, nơi đây là biểu tượng không chính thức của Thành phố Hồ Chí Minh.]] **Thành phố Hồ Chí Minh **là tên gọi chính thức từ tháng 7 năm 1976 khi
nhỏ|347x347px|Phố Tràng Tiền ngày nay **Tràng Tiền** (場錢) là con phố nổi tiếng của Hà Nội, Việt Nam. Phố Tràng Tiền nằm ở khu trung tâm, có từ lâu đời, chạy từ đông sang tây.
**Thành phố Hồ Chí Minh** hiện nay hình thành trên cơ sở sáp nhập nhiều đơn vị hành chính do chính quyền qua các thời kỳ trước đây thành lập. Do đó, tổ chức hành
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Hà Tiên** (chữ Hán: _河僊_) là một trong sáu tỉnh đầu tiên ở Nam Kỳ Việt Nam, thành lập năm 1832. ## Lịch sử ### Vùng đất Hà Tiên xưa Xưa kia, đây là vùng
**Lê Trực** (chữ Hán: 黎直, 1828-1918) là một võ quan thời nhà Nguyễn và thủ lĩnh nghĩa quân Cần Vương cuối thế kỉ XIX tại quê nhà. Khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương
**Trần Trọng Kim** (chữ Hán: 陳仲金; 1883 – 1953) là một học giả, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu **Lệ Thần**, từng làm thủ tướng
**Nguyễn Văn Tuyên** (chữ Hán: 阮文瑄, 1834 - 1902), tự **Trọng Hiệp** (仲合), hiệu **Kim Giang** (金江), biệt hiệu **Quế Bình Tử** (桂坪子) là một quan đại thần triều Nguyễn, trải bảy đời vua từ
**Lương Sử** là một địa danh liên quan đến hai con phố cổ **Hàng Đũa** và **Hàng Cơm** đã mất tên thuộc phố cổ Hà Nội. Vào thời pháp thuộc, nhìn vào bản đồ quy
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
**Nguyễn Văn Vĩnh** (chữ Hán: 阮文永; 1882 – 1936) là nhà tân học, nhà báo, nhà văn, nhà phiên dịch Việt Nam, nhà chính trị Việt Nam đầu thế kỷ 20. Khi viết bài, ông
**Lưu Vĩnh Phúc** (tiếng Trung: 劉永福/刘永福) (1837—1917), tự **Uyên Đình** (淵亭/渊亭), người Khâm Châu, Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây), quê ở Bác Bạch, Ngọc Lâm, Quảng Tây, là một vị tướng vào cuối thời
**Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh** là người đứng đầu Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, cơ quan hành chính của Thành phố Hồ Chí Minh. Chủ
**Hà Tĩnh** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Thành phố Hà Tĩnh ở vị trí từ 18°B đến 18°24'B, 105°53'Đ đến
**Kon Tum** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Kon Tum cũ. Nơi đây từ xưa đã là địa bàn cư trú của người Ba Na bản địa, dẫn đến tên gọi Kon Tum,
**Báo Thiên Tự** (chữ Hán: 報天寺), tên đầy đủ là **Sùng Khánh Báo Thiên Tự** (崇慶報天寺), từng là một ngôi chùa cổ kính, tráng lệ, đồ sộ vào bậc nhất trong lịch sử Việt Nam
**Cà Mau** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Cà Mau, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Cà Mau nằm phía đông bắc của tỉnh Cà Mau, có vị trí địa lý: *Phía
**Bùi Văn Dị** (裴文禩, 1833 – 1895), còn được gọi là **Bùi Dị**, tự là _Ân Niên_(殷年), các tên hiệu: _Tốn Am(遜庵), Do Hiên(輶軒), Hải Nông(海農), Châu Giang(珠江)_; là danh sĩ, nhà ngoại giao và
**Trận Borneo** là một chiến dịch thành công của các Lực lượng Đế quốc Nhật Bản nhằm kiểm soát hòn đảo Borneo và tập trung chủ yếu vào việc chinh phục Raj Sarawak, Brunei, Bắc
**Đồng Sĩ Nguyên** (1 tháng 3 năm 1923 – 4 tháng 4 năm 2019), còn được viết là **Đồng Sỹ Nguyên**, tên thật **Nguyễn Hữu Vũ**, là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân,
**Phan Đỉnh Tân** (; 1828-1888), tự **Cầm Hiên** (琴轩), là một nhân vật chính trị, quân sự thời nhà Thanh. Phan chính là người chỉ huy quân Thanh đánh bại quân Pháp tại trận Lạng
**Hoàng Bật Đạt** (1827 - 1887), hiệu _Tắc Trai_, là quan nhà Nguyễn đã tham gia Khởi nghĩa Ba Đình trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Ông là người làng Bộ Đầu, huyện
**Ngày 20 tháng 11** là ngày thứ 324 trong mỗi năm thường (thứ 325 trong mỗi năm nhuận). Còn 41 ngày nữa trong năm. ## Sự kiện *284 – Diocletianus được chọn làm Hoàng đế
**Hoàng Diệu** (chữ Hán: 黃耀; 1829 - 1882) là một quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882. ## Xuất
**Câu lạc bộ bóng đá Tottenham Hotspur** (), còn được gọi là **Tottenham** () hoặc **Spurs**, là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Anh có trụ sở tại Luân Đôn, Anh. Sân
**Văn Thiên Tường** (, 6 tháng 6, 1236 - 9 tháng 1, 1283) là thừa tướng trung nghĩa lẫm liệt nhà Nam Tống, một thi sĩ nổi tiếng mà tư tưởng yêu nước đã thấm
**Đỗ Trọng Vĩ** (chữ Hán: 杜仲瑋, 1829-1899), tự **Tham Thiền**, hiệu **Khôi Hữu**, là một danh thần triều Nguyễn, nhà văn hóa và nhà giáo dục Việt Nam. Ông được xem là người có công
**Franklin Delano Roosevelt, Sr.** (, ; 30 tháng 1 năm 188212 tháng 4 năm 1945), thường được gọi tắt là **FDR**, là một chính trị gia và luật sư người Mỹ, tổng thống thứ 32
**Nguyễn Cao** (1837 - 1887), tên đầy đủ là **Nguyễn Thế Cao**, hiệu là _Trác Hiên_; là một danh tướng nhà Nguyễn và là một nhà thơ Việt Nam ở thế kỷ 19. ## Tiểu
Đề Thám bên các cháu của ông Đề Thám trong bộ tây phục **Hoàng Hoa Thám** (chữ Hán: 黃花探; 1858 – 10 tháng 2 năm 1913), tên thật là **Trương Văn Nghĩa** (張文義), còn gọi
**Đế quốc Việt Nam** (chữ Hán: ; , cựu tự thể: , chuyển tự _Etsunan Teikoku,_ tiếng Pháp: Empire du Viêt Nam) là tên gọi chính thức của một Nhà nước Việt Nam thân Nhật
**Tự Đức** ( 22 tháng 9 năm 1829 – 19 tháng 7 năm 1883) tên thật là **Nguyễn Phúc Hồng Nhậm** (阮福洪任), khi lên ngôi đổi thành **Nguyễn Phúc Thì** (阮福時), là vị hoàng đế
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Kota Kinabalu** (đọc là [ˈkota kinaˈbalu]), trước đây mang tên **Jesselton**, là thủ phủ của bang Sabah, Malaysia và cũng là thủ phủ của Phân khu Bờ Tây thuộc bang này. Thành phố có diện
**Nam Kỳ** (chữ Hán: 南圻) là lãnh thổ cực Nam của nước Đại Nam triều Nguyễn, là một trong ba kỳ hợp thành nước Việt Nam. Tên gọi này do vua Minh Mạng đặt ra
**Hoàng** hay **Huỳnh** (chữ Hán: 黃) là một họ ở Việt Nam. Ngoài ra họ **Hoàng** có thể tìm thấy ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Triều Tiên. Họ Hoàng trong tiếng Trung có
phải|nhỏ|Nút giao Ô Cầu Dền ngày nay **Ô Cầu Dền** tên chữ là **Yên Ninh**, là một cửa ô của Hà Nội xưa, nằm sau thành Thịnh Yên. Ô Cầu Dền là một cửa ngõ
**Phan Liêm** (潘簾, 29 tháng 8 năm 1833 - 1896), tên là **Phan Thanh Tòng** (hay **Tùng**), tên chữ là **Liêm**, tự **Thúc Thanh**, nên còn được gọi là Phan Thanh Liêm. Và vì người
**Chiến dịch Bắc Kỳ** () là một chiến dịch diễn ra từ tháng 6 năm 1883 đến tháng 4 năm 1886 do Pháp tổ chức, nhằm chống lại các đội quân của người Việt, quân
**Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến** (chữ Hán: 阮勸), tên thật là **Nguyễn Thắng** (阮勝), hiệu là _Quế Sơn_, tự _Miễu Chi_, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế,
**Cuộc vận động Duy Tân**, hay còn được gọi là **Phong trào Duy Tân** hoặc **Phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ** là một cuộc vận động cải cách ở miền Trung Việt Nam, do
**Nguyễn Xuân Ôn** (1825 – 1889), hiệu **Ngọc Đường**, **Hiến Đình**, **Lương Giang** nhân dân thường gọi ông là **Nghè Ôn**; là quan nhà Nguyễn và là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở