✨Liêu Hưng Tông

Liêu Hưng Tông

Liêu Hưng Tông (chữ Hán: 遼興宗; bính âm: Liao Xīngzōng; 3 tháng 4 năm 1016 - 28 tháng 8 năm 1055), là vị hoàng đế thuộc dòng họ Gia Luật (耶律氏) thứ bảy của nhà Liêu, cai trị từ năm 1031 đến năm 1055. Tên thật của ông theo Hán danh là Tông Chân (宗真) và tên Khiết Đan là Chỉ Cốt (只骨).

Thân thế

Gia Luật Tông Chân là con trưởng của hoàng đế Liêu Thánh Tông và Tiêu Nậu Cân. Chuyện tình của họ lại đậm chất huyền bí.

Tiêu thái hậu là người có công trong việc sắp xếp cuộc hôn nhân giữa Liêu Thánh Tông với một cung nữ của bà là Tiêu Nậu Cân. Tiêu Nậu Cân sinh ra trong hoàn cảnh nghèo khó nhưng Liêu Thánh Tông đã đưa cô vào cung. Tuy nhiên, Liêu Thánh Tông chưa bao giờ coi cô như vợ lẽ mà thay vào đó lại giao cô cho Tiêu thái hậu như một cung nữ. Một ngày nọ, khi đang dọn giường cho Tiêu thái hậu, Tiêu Nậu Cân tình cờ gặp một con gà trống vàng. Khi Tiêu thái hậu bất ngờ bước vào lều, Tiêu Nậu Cân giật mình và nuốt chửng con gà trống vàng. Con gà trống vàng thực ra là một loại thuốc bí ẩn, và sau vài ngày, làn da của Tiêu Nậu Cân trở nên rạng rỡ. Tiêu thái hậu rất ngạc nhiên và nói với cung nữ rằng Tiêu Nậu Cân sẽ sinh ra một hoàng tử cho Liêu Thánh Tông trong tương lai. Sau đó Tiêu thái hậu ra sức khuyên bảo Liêu Thánh Tông hãy ngủ cùng giường với Tiêu Nậu Cân. Liêu Thánh Tông nghe và làm theo. Tháng 2 năm 1016, Tiêu Nậu Cân sinh ra một đứa con trai có tên ban đầu là Mộc Bất Cô (木不孤) nhưng sau đó đổi thành Gia Luật Tông Chân (耶律宗真).

Tiêu Nậu Cân là đối thủ lâu năm của Tiêu Bồ Tát Ca, hoàng hậu thứ hai của Liêu Thánh Tông và là cháu gái của Tiêu Thái hậu. Mặc dù có cùng họ Tiêu nhưng Tiêu Bồ Tát Ca không có quan hệ họ hàng với Tiêu Nậu Cân. Sau khi Tiêu Nậu Cân sinh ra Gia Luật Tông Chân với tư cách là cung nữ, Tiêu Bồ Tát Ca được Liêu Thánh Tông giao việc nuôi dạy đứa trẻ. Tiêu Bồ Tát Ca từng sinh hai con trai nhưng đều bị chết yểu nên đã nuôi dạy Gia Luật Tông Chân như con của mình. Điều này khiến cho Tiêu Bồ Tát Ca nhận được sự tôn trọng của Liêu Thánh Tông. Vì ghen tị, Tiêu Nậu Cân thậm chí còn theo dõi Tiêu Bồ Tát Ca nhiều lần khi Gia Luật Tông Chân vẫn còn là hoàng tử.

Gia Luật Tông Chân được phong làm hoàng thái tử vào năm 1021. Trước khi qua đời, trên giường bệnh, Liêu Thánh Tông đã phong cho Tiêu Nậu Cân danh hiệu Nguyên phi (元妃) có nghĩa là Phi chính thức. Liêu Thánh Tông bảo bà hãy che giấu sự oán giận của mình đối với Tiêu Bồ Tát Ca vì Tiêu Bồ Tát Ca đã nuôi dạy Gia Luật Tông Chân khi còn nhỏ. Gia Luật Tông Chân lên nối ngôi sau khi Liêu Thánh Tông mất vào ngày 25 tháng 6 năm 1031.

Trị vì

Thái hậu Tiêu Nậu Cân lũng đoạn triều chính

Ông vừa lên ngôi vào năm 1031 thì phong cho mẹ ruột là Tiêu Nậu Cân làm Thái phi, còn mẹ nuôi là Tiêu Bồ Tát Ca thành Thái hậu. Tuy nhiên Tiêu Nậu Cân lại trở nên kiêu ngạo và ban hành một di chiếu giả của Liêu Thánh Tông rằng ông ta đã phong cho bà ta là Thái hậu trước khi qua đời. Tiêu Nậu Cân tự phong cho mình tước hiệu mới là Thái hậu dù trước đây từng là thứ phi.

Sau khi lên ngôi cùng năm 1031, vua Cao Ly Đức Tông của Cao Ly đã yêu cầu nhà Liêu (đời vua Liêu Hưng Tông) trao trả các tù nhân Cao Ly và rút về bên kia sông Áp Lục. Sau khi bị Liêu Hưng Tông khước từ, Cao Ly Đức Tông đã cho củng cố biên giới phía bắc của Cao Ly bằng cách cho xây dựng Thiên Lý Trường Thành (Cheolli Jangseong). Công trình phòng thủ này nhằm giúp cho Cao Ly đối phó với các vụ xâm nhập của người Khiết Đan ở tây bắc và người Nữ Chân ở đông bắc.

Tiêu Nậu Cân đã cố gắng thuyết phục Hưng Tông tiêu diệt đối thủ lâu năm của bà ta là Tiêu Bồ Tát Ca, nhưng ông đã từ chối tuân theo vì Tiêu Bồ Tát Ca không có con và đã nuôi nấng ông khi còn nhỏ. Dù vậy, nhân lúc Hưng Tông bận đi săn vào năm 1032, Tiêu Nậu Cân đã cử những tên sát thủ đến để sát hại Tiêu Bồ Tát Ca. Tiêu Bồ Tát Ca nói với những tên sát thủ rằng bà vô tội và nói với họ rằng bà đang chuẩn bị đi đi tắm. Những tên sát thủ đứng ngoài chờ đợi nhưng nhanh chóng nhận ra rằng Thái hậu Tiêu Bồ Tát Ca đã tự sát ở bên trong phòng tắm.

Cùng năm 1032 hoàng hậu Tiêu Thát Lý của Hưng Tông hạ sinh con trai trưởng cho Hưng Tông. Hưng Tông đặt tên cho đứa trẻ này là Tra Lạt, sau đổi thành Gia Luật Hồng Cơ.

Tiêu Nậu Cân tham nhũng và nắm quyền lực quân sự nhà Liêu. Bà ta đã thiết lập ngày lễ của riêng mình, Ứng Thánh tiết (應聖節) dựa trên ngày sinh của bà ta. Bà đã phong cho ông cố của mình danh hiệu cao quý là Lan Lăng Quận vương (蘭陵郡王), cha bà là Tề Quốc vương (齊國王) và phong cho anh em của bà ta làm vương, bất chấp các quy tắc của nhà Liêu. Tiêu Nậu Cân thậm chí còn giúp 40 nô lệ của gia đình bà trở thành quan chức triều đình. Chị gái của bà là Tần Quốc Phu nhân (秦國夫人) đã góa chồng và đang cô đơn. Tần Quốc Phu nhân cảm thấy bị thu hút bởi Trường Sa vương Tạ Gia Nô (謝家奴), nhưng ông ta đã kết hôn. Tiêu Nậu Cân đã giết vợ của Tạ Gia Nô và buộc ông ta phải cưới Tần Quốc Phu nhân. Em gái của bà ta là Tấn Quốc Phu nhân (晉國夫人) phải lòng một sứ thần tên là Cảnh Nguyên Cát (耿元吉). Thấy Cảnh Nguyên Cát cũng đã kết hôn nên Tiêu Nậu Cân lại giết vợ của ông ta và lại buộc ông ta cưới Tấn Quốc Phu nhân.

Tiêu Nậu Cân đã phá vỡ cuộc cải cách của Tiêu thái hậu ngày trước và người chồng quá cố của bà là Liêu Thánh Tông và đã gây ra tình trạng hỗn loạn trong chính trường nhà Liêu. Bà ta rất tham vọng và không muốn quyền lực của mình tại triều đình nhà Liêu bị suy giảm. Bà đã có kế hoạch để con trai nhỏ của mình là Gia Luật Trọng Nguyên thay thế ngôi vua của Hưng Tông vào năm 1034. Gia Luật Trọng Nguyên đã bí mật kể hết với anh trai mình là Hưng Tông, và Hưng Tông đã rất tức giận. Tất cả các đồng minh và những kẻ chủ mưu của Tiêu Nậu Cân đều bị xử tử, bao gồm cả những người hầu cận và hầu hết người thân của bà ta. Cùng năm 1034, Hưng Tông đã giáng mẹ mình (Tiêu Nậu Cân) xuống làm thứ dân và đuổi bà ta ra khỏi cung điện nhà Liêu.

Đích thân chấp chính

Vua Cao Ly Tĩnh Tông của Cao Ly vừa lên ngôi vua trong năm 1034 thì đã rất quan tâm đến việc binh, và đã bắt đầu cho xây các thành phòng thủ dọc theo biên giới phía bắc ngay trong năm đầu tiên trị vì. Việc này khiến cho Hưng Tông lo lắng về nguy cơ bị tấn công từ Cao Ly.

Năm 1037, nước Cao Ly (đời vua Cao Ly Tĩnh Tông) bị quân đội nhà Liêu (đời Liêu Hưng Tông) ở phía bắc xâm lược. Sau khi bị quân dân Cao Ly chống trả quyết liệt, quân Liêu phải rút lui về bắc. Cùng năm 1037 Hưng Tông phong cho con trưởng là Gia Luật Hồng Cơ (5 tuổi) làm Lương vương.

Năm 1042, Hưng Tông phong cho con trưởng là Gia Luật Hồng Cơ (10 tuổi) làm Yên quốc vương, cai quản công việc của trung thừa ti. Năm 1043, Hưng Tông giao cho con trưởng là Gia Luật Hồng Cơ (11 tuổi) cai quản công việc của bắc nam viện khu mật sứ, giữ chức thượng thư lệnh, sau cải phong thành Yên Triệu quốc vương.

Năm 1044, Thiên Lý Trường Thành (Cheolli Jangseong) của Cao Ly (đời vua Cao Ly Tĩnh Tông) được hoàn thành và chắn ngang biên giới miền bắc của đất nước Cao Ly. Bức tường kéo dài từ cửa sông Áp Lục đến khu vực thành phố Hamhung (Hàm Hưng) ở Bắc Triều Tiên ngày nay. Các dấu vết của bức tường vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay ở một số nơi như Uiju và Chongpyong. Thiên Lý Trường Thành này góp phần bảo vệ Cao Ly trước sự tấn công của nhà Liêu (đời vua Liêu Hưng Tông) ở tây bắc và tộc Nữ Chân ở đông bắc.

Thời đại trị vì của Liêu Hưng Tông là khởi đầu cho sự sụp đổ của nhà Liêu. Chính phủ tham nhũng và quân đội khủng hoảng. Ngoài cuộc xâm lược Cao Ly không thành công vào năm 1037, Liêu Hưng Tông thường xuyên mở những cuộc tấn công vào nhà Tây Hạ và nhà Tống. Tuy nhiên, Liêu Hưng Tông thường không quan tâm tới lòng dân và ban bố sưu cao thuế nặng. Ông cũng mộ đạo Phật và chi tiêu hào phóng cho các nhà chùa.

Vua Cao Ly Văn Tông của Cao Ly sau đó phái quân Cao Ly tiến đánh biên giới nhà Liêu (đời vua Liêu Hưng Tông). Quân Liêu bị đánh bại, quân Cao Ly đã mở rộng biên giới phía bắc của Cao Ly đến sông Áp Lục.

Năm 1052 Hưng Tông giao cho con trưởng là Gia Luật Hồng Cơ (20 tuổi) giữ chức thiên hạ binh mã đại nguyên soái. Gia Luật Hồng Cơ được sử sách ghi nhận là người trầm tĩnh, nghiêm nghị.

Qua đời

Ông qua đời vào ngày 28 tháng 8 năm 1055 và được tôn miếu hiệu là Hưng Tông (興宗), thụy hiệu Thần Thánh Hiếu Chương Hoàng Đế (神聖孝章皇帝). Con trai trưởng của Hưng Tông (cháu nội của Tiêu Nậu Cân) là Gia Luật Hồng Cơ lên ngôi trước linh cữu Hưng Tông cùng ngày 28 tháng 8 năm 1055, sử gọi là Liêu Đạo Tông.

Hưng Tông hưởng thọ 39 tuổi và được an táng tại lăng Vĩnh Hưng (永興陵). Sau khi ông qua đời, mẹ ông là Tiêu Nậu Cân được phép trở lại cung điện nhà Liêu sau 21 năm làm thường dân để thăm tang lễ. Bà ta không hề tỏ ra đau lòng hay buồn bã gì. Con dâu của bà ta là Tiêu Thát Lý đang khóc thương người chồng quá cố của mình, nhưng Tiêu Nậu Cân nói với Tiêu Thát Lý rằng cô còn trẻ và đừng để tang cho Hưng Tông nữa. Tiêu Nậu Cân được Liêu Đạo Tông phong làm Thái hoàng thái hậu.

Niên hiệu

Trong đời ông có hai niên hiệu là: Cảnh Phúc (景福 Jǐngfú): 1031 - 1032 Trùng Hy (重熙 Chóngxī): 1032 - 1055

Gia quyến

Thê thiếp

  • Tiêu Thát Lý Hoàng hậu (?-1076) , nguyên vị Quý phi , năm Trọng Hy thứ tư thăng Hoàng hậu , sau khi Liêu Đạo Tông lên ngôi tôn bà làm Thái hậu. Phong hiệu Nhân Ý Hoàng hậu (仁懿皇后).
  • Tiêu Tam Thiến Hoàng hậu , con gái của Gia Luật Yên Ca - trưởng nữ của Liêu Thánh Tông và phò mã Tiêu Thiệu Tôn (萧绍宗). Sơ phong Thái tử phi , sau thăng Hoàng hậu , vì tâm tính độc ác nên bị giáng xuống làm Quý phi.

Con cái

Hoàng tử

  • Liêu Đạo Tông , mẹ là Tiêu Thát Lý Hoàng hậu.
  • Gia Luật Bảo Thân Nô , mẹ không rõ. Sinh vào tháng sáu năm Trọng Hy thứ tư (1035) , khả năng cao là chết yểu.
  • Gia Luật Hòa Lỗ Oát (1041-1110) , mẹ là Tiêu Thát Lý Hoàng hậu. Sơ phong Việt vương , Lỗ vương rồi Tống vương.
  • Gia Luật A Liễn (?-1087) , mẹ là Tiêu Thát Lý Hoàng hậu. Sơ phong Hứa vương , Tần vương , Việt vương rồi Ngụy vương.

Hoàng nữ

  • Gia Luật Bạt Cần , trưởng nữ , mẹ là Tiêu Thát Lý Hoàng hậu. Sơ phong Ngụy quốc công chúa , Tấn quốc công chúa rồi Tấn quốc trưởng công chúa. Ban đầu hạ giá Tiêu Tát Bát (萧撒八) , sau ly hôn rồi cải giá Tiêu A Tốc (萧阿速) rồi Tiêu Oa Nặc (萧窝匿).
  • Gia Luật Oát Lý Thái , nhị nữ , mẹ là Tiêu Thát Lý Hoàng hậu. Sơ phong Trịnh quốc công chúa rồi Trịnh quốc trưởng công chúa , hạ giá Tiêu Dư Lí Dã (萧余里也).
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Liêu Hưng Tông** (chữ Hán: 遼興宗; bính âm: Liao Xīngzōng; 3 tháng 4 năm 1016 - 28 tháng 8 năm 1055), là vị hoàng đế thuộc dòng họ **Gia Luật** (耶律氏) thứ bảy của nhà
**Liêu Đạo Tông** (chữ Hán: 遼道宗; 1032-1101), là vị hoàng đế thứ tám của nhà Liêu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ tháng 8 âm lịch năm 1055 tới ngày 12 tháng
**Liêu Thánh Tông** (chữ Hán: 遼聖宗; 972 - 1031), tên thật theo Hán danh là **Long Tự** (隆绪) và tên Khiết Đan là **Văn Thù Nô** (文殊奴), là vị Hoàng đế thứ sáu thuộc dòng
**Liêu Thái Tông** (25 tháng 11, 902 – 18 tháng 5, 947), tên thật là **Nghiêu Cốt**, tên tiếng Hán **Gia Luật Đức Quang** (耶律德光), tên tự **Đức Cẩn**, là vị hoàng đế thứ hai
**Liêu Cảnh Tông** (chữ Hán: 辽景宗; bính âm: Liao Jǐngzōng; 1 tháng 9 năm 948 - 13 tháng 10 năm 982), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Liêu, cai trị từ năm 969
**Hưng Tông** (_chữ Hán_ 興宗) là miếu hiệu của một số vị vua trong lịch sử Trung Quốc. ## Danh sách *Hán Hưng Tông *Liêu Hưng Tông *Nguyên Hưng Tông *Đại Lý Hưng Tông Đoàn
**Nhà Liêu** hay **Liêu triều** ( 907/916-1125), còn gọi là nước **Khiết Đan** (契丹國, đại tự Khiết Đan: Tập tin:契丹國.png) là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Bạc Liêu** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nằm trên bán đảo Cà Mau, miền đất cực nam của Việt Nam. ## Nguồn gốc tên gọi Tỉnh Bạc
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Liêu sử** là một bộ sách lịch sử trong 24 bộ sách sử của Trung Quốc (Nhị thập tứ sử), tổng cộng có 116 quyển kể lại các sự kiện lịch sử từ khi ra
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Chiến tranh Tống-Khiết Đan** còn được gọi là **Chiến tranh Tống-Liêu** (1004 - 1005) chỉ các cuộc giao tranh giữa quân đội Bắc Tống và Khiết Đan trong năm 1004 ở khu vực phía bắc
**Cao Ly Tĩnh Tông** (Hangeul: 고려 정종, chữ Hán: 高麗 靖宗; 31 tháng 8 năm 1018 – 24 tháng 6 năm 1046, trị vì 1034 – 1046) là vua thứ 10 của vương triều Cao
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Liêu Thái Tổ** () (872-926), tên là **Gia Luật A Bảo Cơ** (**_Yelü Abaoji_**, 耶律阿保機), phiên âm tiếng Mongol: _Ambagyan_, Hán danh là **Gia Luật Ức** (耶律亿), nhũ danh **Xuyết Lý Chích** (啜里只), là vị
**Tào Động tông** (zh. 曹洞宗 _cáo-dòng-zōng_, ja. _sōtō-shū_) là một trong năm Thiền phái của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương
**Lưu Tống Tiền Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋前廢帝; 25 tháng 2, 449 – 1 tháng 1, 465), tên húy là **Lưu Tử Nghiệp** (劉子業), biểu tự **Pháp Sư** (法師), là Hoàng đế thứ sáu của
**Cao Ly Đức Tông** (Hangeul: 고려 덕종, chữ Hán: 高麗 德宗, 9 tháng 6 năm 1016 – 31 tháng 10 năm 1034, trị vì 1031 – 1034) là quốc vương thứ 9 của vương triều
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**Cao Ly Văn Tông** (Hangul: 고려 문종, chữ Hán: 高麗 文宗; 29 tháng 12 năm 1019 – 2 tháng 9 năm 1083, trị vì 1046 – 1083) là quốc vương thứ 11 của vương triều
**Tống** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á. Họ này phổ biến ở Trung Quốc (chữ Hán: 宋, Bính âm: _Song_ hoặc _Soong_, Wade-Giles: _Sung_), Việt Nam và Triều Tiên (Hangul:
* Hỗ trợ ngăn ngừa và điều trị tăng sắc tố sau trị liệu xâm lấn: laser, lăn kim, phi kim.* Phác đồ trị liệu chính được sử dụng tại bệnh viện Da Liễu Trung
* Hỗ trợ ngăn ngừa và điều t.r.ị tăng sắc tố sau t.r.ị liệu xâm lấn: laser, lăn kim, phi kim.* Phác đồ t.r.ị liệu chính được sử dụng tại bệnh viện Da Liễu Trung
K5 Cryolaser là kem trị tăng sắc tố sau laser DUY NHẤT tại Việt NamSản phẩm đã có nghiên cứu lâm sàng tại viện bào chế Dược Phẩm Fruilchem Spa, ItaliaĐang được sử dụng tại
**Tây Liêu** () (1124 hoặc 1125-1218), hay còn gọi là **Hãn quốc Kara-Kitai** () hay **Tây Khiết Đan** quốc hiệu chính thức là **Đại Liêu** (), là một nhà nước của người Khiết Đan ở
**Tổng thống Ukraina** () là nguyên thủ quốc gia của Ukraina. Tổng thống thay mặt cho Ukraina về đối ngoại, thực hiện chính sách đối ngoại của nhà nước và tiến hành đàm phán, ký
Khu di tích nhạc sĩ Cao Văn Lầu **Lịch sử hành chính Bạc Liêu** được lấy mốc từ cuộc cải cách hành chính Nam Kỳ năm 1900. Theo đó, tỉnh Bạc Liêu được thành lập
**Nghĩa Hưng** là một huyện ven biển nằm ở phía nam tỉnh Nam Định, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Huyện Nghĩa Hưng nằm ở phía nam của tỉnh Nam Định,
**Tiêu Xước** (萧綽, 953–1009), hay **Tiêu Yến Yến** (萧燕燕), là một hoàng hậu, hoàng thái hậu và chính trị gia triều Liêu. Bà là hoàng hậu của Liêu Cảnh Tông, và sau khi Cảnh Tông
**Anh hùng xạ điêu** là phần mở đầu trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Xạ điêu tam bộ khúc của nhà văn Kim Dung. Trong truyện có nhiều nhân vật có tiểu sử riêng. Dưới
**_Captain America: Nội chiến siêu anh hùng_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Captain America: Civil War_**) là phim điện ảnh siêu anh hùng của Mỹ năm 2016 dựa trên nhân vật truyện tranh Captain America của
**Hưng Yên** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm ở miền Bắc Việt Nam, với trung tâm hành chính cách thủ đô Hà Nội khoảng hơn 55 km về phía Đông Nam.
thumb|Bản đồ Hưng Liêu đế quốc năm [[1029]] **Hưng Liêu đế quốc** (흥료제국, 大興遼帝國) (1029–1030) được thành lập bởi Đại Diên Lâm (Dae Yeon-rim), người là hậu duệ trực hệ đời thứ 7 của Bột
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Trần Nhân Tông** (chữ Hán: 陳仁宗, 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh là **Trần Khâm** (陳昑), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Trần nước Đại
phải|nhỏ|Bức _[[Người Vitruvius_ của Leonardo da Vinci thể hiện ảnh hưởng của các tác giả cổ đại lên những nhà tư tưởng thời Phục Hưng. Dựa trên những đặc điểm miêu tả trong cuốn _De
**Lục quân Đế quốc Áo-Hung** là lực lượng lục quân của Đế quốc Áo-Hung tồn tại từ năm 1867 khi đế quốc này được thành lập cho đến năm 1918 khi đế quốc này tan
**Tổng giáo phận Hà Nội** (tiếng Latinh: _Archidioecesis Hanoiensis_) là một tổng giáo phận Công giáo ở Việt Nam, quản lý giáo dân phần lớn trung tâm Hà Nội, một phần các tỉnh Ninh Bình,
**Hung Nô** () là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ III TCN họ đã kiểm soát
**Bạc Liêu** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Bạc Liêu cũ, Việt Nam. ## Địa lý giữa|nhỏ|Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu tại phường 2 Thành phố Bạc Liêu nằm ở
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ