✨Vương Mậu (nhà Lương)

Vương Mậu (nhà Lương)

Vương Mậu (chữ Hán: 王茂, 457 – 516), tên tự là Hưu Viễn, người huyện Kì, Thái Nguyên , tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.

Thiếu thời

Vương Mậu sinh ra trong gia đình làm quan. Ông nội là Vương Thâm làm Trung lang tư mã nhà Bắc Ngụy. Cha là Vương Thiên Sanh, cuối đời Lưu Tống làm liệt tướng, ở Thạch Đầu tham gia đánh dẹp Tư đồ Viên Sán, nhờ công được làm Ba Tây, Tử Đồng 2 quận thái thú, Thương Hoàng huyện nam.

Được vài tuổi, Vương Thâm đã thấy Vương Mậu có những biểu hiện bất phàm, thường nói với bạn bè: "Đây là con thiên lý mã của nhà tôi, mở mang cửa nhà nhất định là đứa nhỏ này!" Sau khi lớn lên, ông thích đọc binh thư, nhưng chỉ nghiên cứu những ý chính mà thôi.

Tính cách của Vương Mậu trầm tĩnh, ít đùa cợt, không hay kết giao bạn bè. Ông mình cao 8 thước, trắng trẻo dễ nhìn. Tiêu Trách (sau này là Tề Vũ đế) khi ấy còn là bình dân, trông thấy Vương Mậu đã nói: "Vương Mậu tuổi còn nhỏ, mà tướng mạo đã đường đường như thế này, nhất định là một dạng nhân tài làm tể tướng, phụ tá cho quân vương."

Khởi nghiệp

Những năm Thăng Minh (477-479) cuối đời Lưu Tống, ông rời nhà đến triều đình làm quan, trải qua các chức vụ Hậu quân tham quân, Tư không kỵ binh, Thái úy trung binh tham quân.

Tướng lĩnh Bắc Ngụy là Lý Ô Nô xâm phạm Hán Trung, Vương Mậu phụng chiếu đi trước thảo phạt. Quân Ngụy lui về, ông được phong làm Trấn nam tư mã, kiêm Lâm Tương lệnh. Sau đó, ông được thăng làm Việt kỵ hiệu úy. Quân Ngụy xâm phạm Duyện Châu, ông dùng thân phận trưởng sử của Ninh sóc tướng quân chi viện cho biên giới phía bắc, được phong làm tiền quân tướng quân, Giang Hạ vương tư mã. Về sau ông được thăng làm Ninh Sóc tướng quân, Giang Hạ nội sử.

Năm Kiến Vũ đầu tiên (494), quân Ngụy vây Ti Châu, Vương Mậu đưa quân đội Dĩnh Châu đến cứu viện. Tiêu Diễn (sau này là Lương Vũ đế) đem quân trèo lên núi Hiền Thủ, tướng Ngụy Vương Túc, Lưu Sưởng đến đánh, ông theo Tiêu Diễn đi trước nghênh địch, đại phá Túc, Sưởng. Quân Ngụy thua chạy, Vương Mậu trở về Dĩnh Châu, được phong Phụ quốc trưởng sử, Tương Dương thái thú.

Phò tá Tiêu Diễn

Khi Ung Châu thứ sử Tiêu Diễn khởi binh phản Tề, Vương Mậu cùng Trương Hoằng Sách từng ngầm khuyên Tiêu Diễn nghênh lập Tiêu Bảo Dung (sau này là Tề Hòa đế), nhưng Tiêu Diễn không đồng ý .

Tiêu Diễn thường lấy Vương Mậu làm tiền phong của quân Ung Châu. Trong khi đại quân đóng ở Dĩnh Thành, ông tiến đánh Bình Gia hồ , đánh bại bọn Quang Tử Câm, Ngô Tử Dương, chém được vạn thủ cấp, báo tin thắng lợi về Hán Xuyên.

Vương Mậu tiếp tục theo Tiêu Diễn tiến xuống phía đông, vẫn làm tiền phong. Quân Ung Châu đến ở Mạt Lăng , Tề Đông Hôn hầu sai đại tướng Vương Trân Quốc bày trận ở cửa Chu Tước, phao lên có 20 vạn quân, cưỡi thuyền đến khiêu chiến. Vương Mậu cùng bọn Tào Cảnh Tông hợp lực đón đánh, khiến cho Trân Quốc đại bại. Ông xua quân truy kích, thi thể của đài quân chất cao vượt cả mạn thuyền, trong lúc trốn chạy bọn họ chết đuối dưới sông Hoài không đếm xuể. Quân Vương Mậu tiến thẳng vào cửa Tuyên Dương.

Sau khi chiếm được Kiến Khang , Vương Mậu được phong làm Hộ quân tướng quân, không lâu sau được thăng làm thị trung, Lĩnh quân tướng quân.

Giặc cướp nổi lửa thiêu cửa Thần Hổ, Vương Mậu soái lĩnh bộ hạ đến cửa Đông Dịch, trúng tên bị thương. Ông thúc ngựa vọt đến phía trước, bọn cướp quay đầu bỏ chạy. Vương Mậu lấy lý do không thể ngăn chặn kẻ gian làm loạn, dâng biểu xin được từ chức, Hòa đế hạ chiếu không cho, mà còn an ủi phủ dụ, thăng ông làm Trấn quân tướng quân, phong tước Vọng Thái huyện công, thực ấp 2300 hộ.

Phục vụ nhà Lương

Khi Giang Châu thứ sử Trần Bá Chi làm phản, Vương Mậu ra nhậm chức Sứ trì tiết, Tán kỵ thường thị, đô đốc Giang Châu chư quân sự, Chinh nam tướng quân, Giang Châu thứ sử. Lương Vũ đế còn ban cho ông 1 bộ nhạc Cổ Xuy, sai đi thảo phạt Trần Bá Chi. Sau đó, Bá Chi chạy sang đầu hàng Bắc Ngụy. Bấy giờ Cửu Giang (trị sở của Giang Châu) mới vừa trải qua chiến loạn, Vương Mậu một lòng phát triển nông nghiệp, giảm nhẹ lao dịch, nên trăm họ lại được an định.

Năm Thiên Giám thứ 4 (505), quân Ngụy xâm nhập Hán Trung, Vương Mậu nhận chiếu lên phía tây thảo phạt, quân Ngụy lui về. Năm thứ 6 (507), ông được thăng nhiệm làm Thượng thư hữu bộc xạ, nhưng kiên quyết chối từ không nhận, vì thế được đổi làm Thị trung, Trung vệ tướng quân, lĩnh chức Thái tử chiêm sự. Năm thứ 7 (508), ông được bái làm Xa kỵ tướng quân, vẫn làm Thái tử chiêm sự. Năm thứ 8 (509), ông làm Xa kỵ tướng quân, lĩnh chức Khai phủ nghi đồng tam tư, Đan Dương doãn, phong hiệu Thị trung như cũ.

Bấy giờ chiến sự ở biên cảnh giảm đi, Vũ đế bắt đầu coi trọng văn quan, những người xuất thân là võ tướng như Vương Mậu không khỏi cảm thấy lạc lỏng. Trong những bữa tiệc ở hoàng cung, ông nhiều lần say rượu, có những lời lẽ và hành vi không được cung kính, Vũ Đế thường bỏ qua không trách cứ.

Năm Thiên Giám thứ 11 (512), ông được tiến vị làm Tư không, Thị trung, doãn như cũ. Ông xin từ chức Kinh Doãn, đổi sang làm Trung quyền tướng quân. Năm thứ 12 (513), ông ra nhậm chức Sứ trì tiết, Tán kỵ thường thị, Khai phủ nghi đồng tam tư, đô đốc Giang Châu chư quân sự, Giang Châu thứ sử. Năm thứ 15 (516), ông mất ở Giang Châu, hưởng thọ 60 tuổi.

Lương Vũ đế vô cùng thương tiếc, lấy ra 30 vạn tiền, 300 xúc vải để lo tang sự, còn hạ chiếu truy tặng Vương Mậu làm Thị trung, Thái úy, ban cho 20 vệ sĩ, 1 bộ Cổ Xuy, thụy là Trung Liệt.

Đánh giá

Vương Mậu tính tình rộng rãi nhân hậu, làm quan không có điều tiếng gì, giúp cho quan lại trăm họ đều được an định vô sự. Ông luôn làm việc siêng năng, trong phòng riêng cũng ăn vận chỉnh tề, sắc mặt nghiêm túc, người hầu, tiểu thiếp chưa từng thấy ông có biểu hiện lười biếng.

Ông có dung mạo đẹp đẽ, mày râu như tranh vẽ. Mỗi khi ra khỏi triều đường, thường được mọi người nhìn ngắm.

Dật sự

Ban đầu, Vương Mậu là nguyên huân, được Vũ đế ban cho các loại nhạc khí là chuông và khánh. Khi ông ở Giang Châu, mơ thấy chuông khánh trỗi lên, vô duyên vô cớ lại rơi xuống đất, trong lòng cảm thấy không được thư thái.

Đến khi tỉnh dậy, Vương Mậu mệnh cho người tấu nhạc, khi chuông khánh trỗi lên, quả nhiên vô cớ dây thừng bị đứt, rơi ngay xuống đất. Ông nói với Trưởng sử Giang Thuyên rằng: "Nhạc khí này là nhà vua dùng để thưởng công cho bầy tôi. Nhạc khí đã tận số, bầy tôi còn có thể không lo buồn hay sao!?" Không lâu sau ông sinh bệnh, vài ngày thì mất.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Mậu** (chữ Hán: 王茂, 457 – 516), tên tự là **Hưu Viễn**, người huyện Kì, Thái Nguyên , tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung
**Nhà Lương** () (502-557), còn gọi là **nhà Nam Lương** (南梁), là triều đại thứ ba của Nam triều trong thời kỳ Nam-Bắc triều ở Trung Quốc, sau thời kỳ của triều đại Nam Tề
**Cung thái hậu** (chữ Hán: 龔太后), không rõ tên thật, (?-562), thụy hiệu: **Nguyên thái hậu** (元太后) là một hoàng thái hậu của triều đại nhà Lương. Bà là thiếp thất của Chiêu Minh thái
**Lương Võ Đế** (chữ Hán: 梁武帝; 464 – 549), tên húy là **Tiêu Diễn** (蕭衍), tự là **Thúc Đạt** (叔達), tên khi còn nhỏ **Luyện Nhi** (練兒), là vị Hoàng đế khai quốc của triều
**Vương Du** (chữ Hán: 王瑜, 522 – 561), tự Tử Khuê, người Lâm Nghi, Lang Tà , quan viên, nhà ngoại giao đời Trần thời Nam bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân
**Tiêu Tông** (, 501-531), tên tự **Thế Khiêm** (世謙), là hoàng tử thứ hai của Lương Vũ Đế, mẹ là Ngô thục viện, ông tự xem mình là di phúc tử của hoàng đế Tiêu
**Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 王皇后), không rõ tên thật, là hoàng hậu của Lương Kính Đế (梁敬帝) Tiêu Phương Trí (萧方智) trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Không rõ ngày sinh của
**Tây Vương Mẫu** (chữ Hán: 西王母, còn gọi là **Vương Mẫu** (王母), **Dao Trì Kim Mẫu** (hay **Diêu Trì Kim Mẫu**, 瑤池金母), **Tây Vương Kim Mẫu** (西王金母), **Vương Mẫu Nương Nương** (王母娘娘) hoặc **Kim Mẫu
**Vương Lâm** (chữ Hán: 王琳, 526 – 573) là tướng lãnh nhà Lương và nhà Bắc Tề thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Lâm tự Tử Hành, người huyện
**Chiến tranh Lương-Ngụy, 528-529** là cuộc chiến tranh giữa hai nước Lương và Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc chiến này là một phần của chiến tranh Lương-Bắc Ngụy, một
**Tư Mã Lượng** (司馬亮) (mất 291) tên tự _Tử Dực_ (子翼), tước hiệu _Nhữ Nam Văn Thành vương_(汝南文成王), là con thứ tư của Tư Mã Ý, vào hàng chú Tấn Vũ Đế, ông Tấn Huệ
**Chiến tranh Tiền Lý - Lương** là cuộc chiến bùng nổ từ năm 545 đến năm 550 kéo dài 5 năm do Triệu Quang Phục lãnh đạo chống quân Lương. ## Nguyên nhân Năm Giáp
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Sao Hải Vương** (tiếng Anh: **Neptune**), hay **Hải Vương Tinh** (chữ Hán: 海王星) là hành tinh thứ tám và xa nhất tính từ Mặt Trời trong Hệ Mặt Trời. Nó là hành tinh lớn thứ
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Sao Diêm Vương** (**Pluto**) hay **Diêm Vương tinh** (định danh hành tinh vi hình: **134340 Pluto**) là hành tinh lùn nặng thứ hai đã được biết trong Hệ Mặt Trời (sau Eris) và là vật
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Hậu Lương Thái Tổ** (), tên húy **Chu Toàn Trung** (朱全忠) (852–912), nguyên danh **Chu Ôn** (朱溫), sau khi tức vị cải thành **Chu Hoảng** (朱晃), là một nhân vật quân sự và chính trị
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Mậu dịch Nanban** (tiếng Nhật: 南蛮貿易, _nanban-bōeki_, "Nam Man mậu dịch") hay "thời kỳ thương mại Nanban" (tiếng Nhật: 南蛮貿易時代, _nanban-bōeki-jidai_, "Nam Man mậu dịch thời đại") là một giai đoạn trong lịch sử Nhật
nhỏ|Cổng Vĩnh lăng Vương Kiến tại Thành Đô nhỏ|Lăng mộ Vương Kiến **Vương Kiến** (, 847 – 11 tháng 7 năm 918), tên tự **Quang Đồ** (光圖), gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Thục Cao
**Nhà Tiền Lý** (chữ Nôm: 茹前李, chữ Hán: 前李朝, Hán Việt: _Tiền Lý triều_, 544 – 602) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
Quốc giáo của nhà Thương () là một tôn giáo cổ đại của Trung Quốc, trong đó các tín đồ được đào tạo giao tiếp với nhiều vị thần, bao gồm tổ tiên và các
**Tây Ban Nha thời Franco** () hoặc **Chế độ độc tài Francisco Franco** (), chính thức được gọi là **Quốc gia Tây Ban Nha** (), là thời kỳ lịch sử Tây Ban Nha từ năm
**Mạc Mậu Hợp** (chữ Hán: 莫茂洽, 1560 – tháng 1 năm 1593) là vị hoàng đế Đại Việt thứ năm của nhà Mạc thời Nam – Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Ông lên
**Loạn Bát vương** (Bát vương chi loạn; chữ Hán: 八王之亂) là loạn do 8 vị vương họ Tư Mã thuộc hoàng tộc nhà Tây Tấn gây ra từ năm 291 tới năm 306, thời Tấn
**Nhà Kim** (, tiếng Nữ Chân: Tập tin:Amba-an Ancu-un.svg 1115-1234) là một triều đại do người Nữ Chân gây dựng trong lịch sử Trung Quốc. Người Nữ Chân nguyên là phiên thuộc của triều Liêu,
**Hạng Lương** (?-208 TCN) là tướng khởi nghĩa chống nhà Tần trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Hạng Lương người đất Hạ Tương, là con của danh tướng Hạng Yên thời Chiến Quốc
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Hoàn Nhan Lượng** (chữ Hán: 完顏亮, 24 tháng 2 năm 1122 - 15 tháng 12 năm 1161), tên Nữ Chân là **Hoàn Nhan Địch Cổ Nãi** (完顏迪古乃), tên tự **Nguyên Công** (元功), thụy hiệu là
**Nhà Bourbon** (; ; phiên âm tiếng Việt: _Buốc-bông_) là một hoàng tộc châu Âu có nguồn gốc từ Pháp, và là một nhánh của Nhà Capet cai trị Pháp. Tổ tiên đầu tiên của
**Thể chế chính trị nhà Triều Tiên** được vận hành theo chế độ quan liêu tập quyền, dựa trên lý tưởng Nho giáo Tính Lý Học (성리학) làm nền tảng. Về lý thuyết, vua Triều
**Vương tộc Valois** ( , also , ) là một nhánh phụ của triều đại Capet. Vương tộc này kế vị Vương tộc Capet (hay "Nhánh chính Capet") lên ngai vàng Pháp, và là hoàng
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Lưỡng Hà** (tiếng Anh: **Mesopotamia**) là một khu vực lịch sử ở Tây Á nằm trong hệ thống sông Tigris và Euphrates ở phía bắc của Lưỡi liềm màu mỡ. Ngày nay, Lưỡng Hà nằm
**Tả Lương Ngọc** (chữ Hán: 左良玉, 1599 – 1645), tên tự là **Côn Sơn**, người Lâm Thanh, Sơn Đông, là tướng lĩnh cuối đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Phòng vệ Liêu Đông
**Sơn Vương** (1908-1987) tên thật **Trương Văn Thoại**, tự là **Vạn Năng**, là nhà văn, tướng cướp, Chủ tịch Ủy ban hành chính Côn Đảo, "Quốc vương" tự phong của "Quốc gia Trung lập Nhân
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Trương Mậu** () (277–324), tên tự **Thành Tốn** (成遜), còn gọi là **(Tiền) Lương Thành Liệt Vương** ((前)涼成烈王) (thụy hiệu do Hán Triệu ban) hay **Tây Bình Thành công** (西平成公) (thụy hiệu được sử dụng
**Lưu Vũ** (, 184 TCN-144 TCN), tức **Lương Hiếu vương** (梁孝王), là tông thất nhà Hán, chư hầu vương thứ ba của nước Đại, thứ ba của nước Hoài Dương và thứ năm của nước
**Marguerite xứ Anjou** (tiếng Pháp: _Marguerite d'Anjou_; 23 tháng 3, 1430 - 25 tháng 8, 1482), hay **Margaret** trong tiếng Anh, là Vương hậu nước Anh với tư cách là vợ của Henry VI của
**Vương Bảo Minh** (chữ Hán: 王寶明, 455–512), thụy hiệu **Văn An hoàng hậu** (文安皇后), hay còn có hiệu là **Tuyên Đức Thái hậu** (宣德太后), là thái tử phi của thái tử Tiêu Trưởng Mậu và
**Vương Vũ Tuấn** (chữ Hán: 王武俊, bính âm Wang Wujun, 735 - 9 tháng 8 năm 801), tên tự là **Nguyên Anh** (元英), bản danh **Một Nặc Hàn** (沒諾幹), thụy hiệu **Lang Nha Trung Liệt
nhỏ|Đa Đạc - thủy tổ của Dự vương phủ **Hoà Thạc Dự Thân vương** (chữ Hán: 和碩豫親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Do
**Vương tộc Lancaster** (tiếng Anh: _House of Lancaster_; tiếng Pháp: _Maison de Lancastre_) là một nhánh của Vương tộc Plantagenet (giữ ngai vàng của Anh gần 3,5 thế kỷ, từ năm 1154 đến năm 1485).
**Vương Tuấn** (chữ Hán: 王浚; 252-314) là tướng nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia vào loạn bát vương và trở thành lực lượng quân phiệt khi Ngũ Hồ tràn vào