✨Minh Quang Tông

Minh Quang Tông

Minh Quang Tông (chữ Hán: 明光宗, 28 tháng 8, 1582 – 26 tháng 9 năm 1620), là Hoàng đế thứ 15 của triều đại Nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị Trung Hoa chưa đầy một tháng trong năm 1620, mất sau đúng 29 ngày ở ngôi Hoàng đế. Ông chỉ kịp dùng niên hiệu là Thái Xương (泰昌), nên cũng gọi là Thái Xương Đế (泰昌帝).

Cái chết của Quang Tông Thái Xương Đế gắn trực tiếp với nghi án Hồng hoàn án (红丸案), đồng thời ông cũng chính là vị Hoàng đế tại vị ngắn nhất trong lịch sử Nhà Minh.

Tiểu sử

nhỏ|Minh Quang Tông Thái Xương hoàng đế Chu Thường Lạc Minh Quang Tông tên thật là Chu Thường Lạc (朱常洛), sinh vào ngày 28 tháng 8, năm 1582 tại Tử Cấm Thành. Ông là con trai trưởng của Minh Thần Tông Chu Dực Quân, mẹ đẻ là Hiếu Tĩnh hoàng hậu Vương thị, vốn là 1 cung nữ hầu hạ trong cung của Từ Thánh Lý thái hậu.

Một lần, Minh Thần Tông vào Từ Ninh cung thăm Lý Thái Hậu, ông gặp cung nữ Vương thị thì nhất thời đem lòng yêu thích, liền lâm hạnh và ban cho nàng một ít trang sức. Sau đó, Vương thị mang thai, Từ Thánh thái hậu phát giác, tra vấn Vạn Lịch Đế nhưng ông kiên quyết không nhận, còn có ý dùng thuốc bỏ đi đứa bé. Thái hậu bèn sai quan Thái y tra vấn, chứng thực Vương thị có thai với Hoàng đế, nên gây sức ép bắt Vạn Lịch Đế lập Vương thị làm phi tần. Và bà được Vạn Lịch Đế phong làm Cung phi (恭妃).

Không lâu sau, vào ngày 22 tháng 2, năm 1586, sủng phi của Thần Tông là Trịnh Quý phi sinh hạ Hoàng tam tử Chu Thường Tuấn (朱常洵), cực kì sủng ái. Hoàng trưởng tử Chu Thường Lạc do mẫu thân bị thất sủng, cũng không được Thần Tông coi trọng. Trong khi đó tại triều đình, theo luật lệ truyền thống của Nho giáo, lập Thái tử thì lập đích, nếu không lập đích thì lập trưởng, sau mới tới lập hiền, do đó Hoàng trưởng tử Chu Thường Lạc rất được đại đa số quần thần đồng ý ở vị trí Thái tử. Tuy nhiên, Thần Tông Vạn Lịch do quá yêu quý hai mẹ con Trịnh Quý phi, không chịu được ý kiến này, đã cấm toàn triều đình nhắc tới vấn đề này.

Bị thất sủng, Chu Thường Lạc không được Thần Tông coi trọng ngay cả việc học hành, mãi đến năm 13 tuổi thì ông mới bắt đầu được mở thư phòng học sách, một số tuổi quá trễ đối với một Hoàng tử thông thường. Và mãi sau đó nhiều năm, ông không được chỉ định cho một thầy giáo nào để dạy về Nho giáo cũng như các sách kinh sử khác.

Năm 1601, tháng 10, trước sức ép quá mạnh của quần thần và nhất là từ Từ Thánh hoàng thái hậu, bà nội của Chu Thường Lạc, ông mới được Thần Tông tấn phong làm Thái tử, khi đó đã 19 tuổi. Đồng thời Hoàng tam tử Chu Thường Tuấn đồng sách lập làm Phúc vương (福王), phong địa ở Lạc Dương. Thái tử Chu Thường Lạc nổi tiếng khả ái nhân từ, được lòng các đại thần, dẫu vậy địa vị của ông vẫn bất ổn do không được lòng Thần Tông.

Việc lập Chu Thường Lạc làm Thái tử vẫn không dập tắt được những phỏng đoán Thần Tông có thể phế bỏ Thường Lạc, lập Hoàng tam tử Thường Tuấn thay thế, vì Trịnh Quý phi liên tục mưu đồ phế bỏ Thái tử mà muốn lập con mình, đó gọi là Yêu thư án (妖書案), làm liên lụy tới nhiều đại thần.

Đĩnh kích án

Năm 1615, xảy ra một đại sự kiện trong hoàng tộc được gọi là Đĩnh kích án (梃击案), do Trịnh Quý phi bày mưu nhằm hạ sát Thái tử Chu Thường Lạc. Một người đàn ông tên Trương Sai (張差) đã dùng một cây mộc côn, lách qua lớp thị vệ đột nhập vào thư phòng của Thái tử, nhằm giết chết nhưng thất bại. Tên họ Trương nhanh chóng bị bắt giam và tra khảo. Ban đầu quan khâm sai cho rằng hắn là một kẻ điên, nhưng Vương Chi Thái (王之寀) đã bắt được hắn khai ra kẻ chủ mưu là hai tên hoạn quan là tâm phúc của Trịnh Quý phi, tên là Bàng Bảo (龐保) và Lưu Thành (劉成).

Theo lời khai của Trương Sai, 2 tay hoạn quan này đã thưởng tiền cho hắn và kêu hắn ám sát Thái tử. Sự việc chấn động này làm liên lụy nhiều đến Trịnh Quý phi vì ai cũng biết 2 người này là tâm phúc của bà ta. Thần Tông Vạn Lịch Đế khi ấy biết rõ mọi chuyện, một sự vụ có tính nghiêm trọng nếu điều tra rõ ràng, và có thể Trịnh Quý phi lẫn Phúc vương Thường Tuân sẽ chịu tội nặng, thế nên Thần Tông quyết định đích thân dung túng, đổ hết mọi cáo trạng lên 2 tay hoạn quan và không lâu sau cho xử tử cả ba người Trương-Bàng-Lưu.

Tuy nhiên có thuyết cho rằng đây là mưu kế của phe Thái tử nhằm triệt hạ ý đồ cũng như âm mưu từ phe của Trịnh Quý phi. Từ sau vụ án này địa vị của Thái tử càng trở nên vững chắc.

Sự việc nhanh chóng khép lại, nhưng vẫn không thể khiến người ta không thôi bàn tán. Đĩnh kích án đã trở thành một trong Minh mạt Tam đại án (明末三大案) nổi tiếng trong lịch sử cung đình.

Trị vì

Năm 1620, ngày 18 tháng 8, Minh Thần Tông Vạn Lịch hoàng đế qua đời, Thái tử Chu Thường Lạc lập tức kế vị. Ông cho gọi các đại thần đã bị đày đi vì bênh vực mình trở về kinh, trao lại chức tước, cải niên hiệu thành Thái Xương (泰昌). Sau khi lên ngôi, ông càng trở nên hoang dâm vô độ. Trịnh Quý phi trong quá khứ từng mắc lỗi với ông, đã đem hiến cho ông rất nhiều mỹ nữ. Mặc dù sức khỏe yếu nhưng ông vẫn thu nhận tất và ngày đêm ân ái với họ. Có đêm ông còn mây mưa với nhiều mỹ nữ cùng một lúc. Chính vì sức khỏe yếu lại còn ham mê nữ sắc nên ông ngã bệnh.

Ngày 8 tháng 10 ÂL, Thái Xương đế bắt đầu có bệnh. Càn Thanh cung nội, Đề đốc Lưỡng Tư phòng, Đề đốc Binh trượng chưởng cục ấn, Ngự mã giám thái giám, Đề đốc thái giám điện Thành Tế là Thôi Văn Thăng, người trước đó từng là thủ hạ của Trịnh quý phi, cho rằng hoàng đế bị nóng trong người, bèn cho kê các phương thuốc giải nhiệt, nhuận trường. Hoàng đế uống xong, lập tức bị tả, liên tục đi ngoài ba bốn mươi lần. Đến hai ngày sau hoàng đế vẫn không thể lên triều. Bọn đại thần Nội các Phương Tòng Triết vào cung hỏi an, Thái Xương đế nằm trên giường không ngóc dậy nổi, nói rằng suốt đêm qua không ngủ được, đầu hôn mắt hoa, đi ngoài liên tục, hơi thở yếu ớt.

Ngày 29 tháng 8 ÂL, Thái Xương đế nghe theo lời các đại thần, thu hồi lại chiếu lệnh sắc phong Trịnh quý phi làm Hoàng thái hậu. Lúc đó ở Hồng Lư tự có Lý Khả Chước tự nói mình có thuốc tiên chữa được bách bệnh, dâng lên vua một viên thuốc màu đỏ (hồng hoàn). Hoàng đế uống xong một viên, lại uống thêm viên nữa, thấy rằng tinh thần phấn chấn đến lạ, nhịp thở đều trở lại; tấm tắc khen Khả Chước là trung thần, sai thưởng cho 50 lượng bạc.

Năm 1620, ngày 26 tháng 9 , canh 5, nội giám bước vào điện thì thấy thân thể hoàng đế đã lạnh ngắt, tại vị 30 ngày, hưởng dương 39 tuổi. Hoàng trưởng tử là Chu Do Hiệu kế vị khi vừa 16 tuổi, tức Minh Hy Tông.

Ông được dâng miếu hiệu là Quang Tông (光宗), thụy hiệu là Sùng Thiên Khế Đạo Anh Duệ Cung Thuần Hiến Văn Cảnh Vũ Uyên Nhân Ý Hiếu Trinh hoàng đế (崇天契道英睿恭纯宪文景武渊仁懿孝贞皇帝), an táng tại Khánh lăng (庆陵).

Gia đình

  • Thân phụ: Minh Thần Tông Chu Dực Quân.
  • Thân mẫu: Hiếu Tĩnh Hoàng thái hậu Vương thị (孝靖皇太后王氏, 1565 - 1611), sơ phong là Vương Cung phi (王恭妃), qua đời được thụy là Ôn Túc Đoan Tĩnh Thuần Ý Hoàng quý phi (温肃端靖纯懿皇贵妃). Sau khi Minh Hi Tông lên ngôi mới tôn thụy Hoàng thái hậu.
  • Hậu phi: thumb|Hiếu Nguyên Trinh Hoàng hậu Quách thị

    Hiếu Nguyên Trinh hoàng hậu Quách thị (孝元貞皇后郭氏; 1580 - 1613), người Thuận Thiên, con gái của Bác Bình hầu Quách Duy Thành (郭维城). Bà trở thành Thái tử phi khi Quang Tông còn là Hoàng thái tử. Qua đời trước khi Quang Tông đăng cơ, thụy là Cung Tĩnh Thái tử phi (恭靖太子妃). Về sau bà sau được Minh Hy Tông truy tôn thành Hoàng hậu. Sinh ra Hoài Thục công chúa. thumb|Hiếu Hoà Hoàng thái hậu Vương thị

    Hiếu Hòa Hoàng thái hậu Vương thị (孝和皇太后王氏; 1582 - 1619), người Thuận Thiên. Năm 1604, Vương thị vào hầu Quang Tông khi còn là Thái tử, sơ phong Tài nhân (才人). Sinh ra Minh Hy Tông Chu Do Hiệu và Giản Hoài vương Chu Do Học.thumb|Hiếu Thuần Hoàng thái hậu Lý thị

    Hiếu Thuần Hoàng thái hậu Lưu thị (孝纯皇太后刘氏, 1588 - 1615), người Hải Châu, bà vào hầu hạ Quang Tông với thân phận Thục nữ (淑女). Sinh ra Minh Tư Tông Chu Do Kiểm.

    Cung Ý Trang phi Lý thị (恭懿莊妃李氏, 1588 - 1624), người phủ Thuận Thiên, huyện Bảo Trì, sử gọi Đông Lý (东李), là thị thiếp hầu Quang Tông khi còn ở Tiềm để, phân vị Tuyển thị (选侍). Ban đầu Tây Lý nhận nuôi Minh Tư Tông, do sau này sinh con gái nên cải sang bà nuôi dạy.

    Khang phi Lý thị (康妃李氏, 1584 - 1674), cha là Lý Hải (李海), sủng phi của Quang Tông, còn gọi Tây Lý (西李). Nguyên là thị thiếp hầu Quang Tông khi còn ở Tiềm để, phân vị Tuyển thị (选侍). Sau khi Hy Tông lên ngôi, gia phong Khang phi (康妃), Tư Tông tôn làm Thái phi (太妃). Bà sinh ra Hoài Huệ vương Chu Do Mô, Nhạc An công chúa và là dưỡng mẫu của Minh Hy Tông.

    Ý phi Phó thị (懿妃傅氏, 1588 - 1644), sơ phong Thục nữ (淑女), hậu phong Tuyển thị (选侍). Hy Tông tôn làm Phi. Sinh hạ Ninh Đức Công chúa và Toại Bình Công chúa. Sau khi mất táng tại Bạch Dương Điến (白洋淀), Hà Bắc.

    Ý phi Định thị (懿妃定氏), sinh ra Tương Hoài vương Chu Do Hủ, sử sách ghi chép nhiều về bà.

    Kính phi Phùng thị (敬妃冯氏), sinh ra Huệ Chiêu vương Chu Do Triển.

    Thận tần Thiệu thị (慎嬪邵氏), sinh hạ Điệu Ôn Công chúa. Hy Tông tôn làm Tần.

    Tương tần Trương thị (襄嫔张氏), Hy Tông tôn làm Tần.

    Khác tần Lý thị (恪嬪李氏), Hy Tông tôn làm Tần.

    Định tần Quách thị (定嬪郭氏), Hy Tông tôn làm Tần.

    Tuyển thị Vương thị (选侍王氏), mất sớm sau cái chết của con trai. Sinh Tề Tư vương Chu Do Tiếp.

    Tuyển thị Triệu thị (選侍赵氏, ? - 1620), ban chết.

    Khi Nhà Minh sụp đổ thì Kính phi cùng Thận tần, Tương tần, Khác tần, Định tần trốn ra khỏi cung. Dưới thời Thanh triều, cả năm trở lại Bắc Kinh, được triều Thanh cấp sinh hoạt phí.

Hoàng tử

Hoàng nữ

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Minh Quang Tông** (chữ Hán: 明光宗, 28 tháng 8, 1582 – 26 tháng 9 năm 1620), là Hoàng đế thứ 15 của triều đại Nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị Trung
**Hiếu Thuần Hoàng hậu Lưu thị** (孝纯皇后刘氏, 1588 - 1615), không rõ tên thật, nguyên là phi tần của Minh Quang Tông Chu Thường Lạc và là mẹ đẻ của Minh Tư Tông Chu Do
**Hiếu Hòa Hoàng hậu Vương thị** (孝和皇后王氏; 1582 - 1619), không rõ tên thật, nguyên là thứ thiếp của Minh Quang Tông Chu Thường Lạc và là mẹ ruột của Minh Hy Tông Chu Do
**Hiếu Nguyên Trinh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝元貞皇后, 1580 - 1613), hay còn gọi **Cung Tĩnh Thái tử phi** (恭靖太子妃), là nguyên phối của Minh Quang Tông Chu Thường Lạc khi ông còn là Hoàng
**Minh Thần Tông** (chữ Hán: 明神宗, bính âm: _Ming Shenzong_, 4 tháng 9, 1563 – 18 tháng 8 năm 1620) hay **Vạn Lịch Đế** (萬曆帝), là vị hoàng đế thứ 14 của nhà Minh trong
**Minh Tư Tông** (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức **Sùng Trinh Đế** (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng
**Minh Hy Tông** (chữ Hán: 明熹宗; 23 tháng 12 năm 1605 – 30 tháng 9 năm 1627), là vị hoàng đế thứ 16 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm
**Minh Thế Tông** (chữ Hán: 明世宗, 16 tháng 9, 1507 - 23 tháng 1, 1567), là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị tổng cộng 45
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Tống Quang Tông** (chữ Hán: 宋光宗, 30 tháng 9, 1147 - 17 tháng 9, 1200), thụy hiệu **Tuần Đạo Hiến Nhân Minh Công Mậu Đức Ôn Văn Thuận Vũ Thánh Triết Từ Hiếu hoàng đế**
**Minh Vũ Tông** (chữ Hán: 明武宗; 26 tháng 10, 1491 - 20 tháng 4, 1521) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1505 đến
**Hiếu Mục Kỷ Thái hậu** (chữ Hán: 孝穆紀太后; 1451 - 1475), cũng gọi **Kỷ Thục phi** (紀淑妃) hoặc **Hiếu Mục Hoàng hậu** (孝穆皇后), là một phi tần của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm và
**Quang Tông** (chữ Hán: 光宗) là miếu hiệu của một số vị quân chủ ở khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách * Bột Hải Quang Tông Đại Vũ Nghệ, tại vị
**Hiếu Túc Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝肅周皇后; 30 tháng 10, 1430 - 16 tháng 3, 1504), là một phi tần của Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn và là sinh mẫu của Minh Hiến
**Minh Mục Tông** (chữ Hán: 明穆宗, 4 tháng 3, 1537 - 5 tháng 7, 1572), là Hoàng đế thứ 13 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1567 đến năm
**Hiếu Cương Khuông Hoàng hậu Vương thị** (chữ Hán: 孝剛匡皇后王氏; ? – 1662), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Chiêu Tông Vĩnh Lịch Đế, Hoàng đế cuối cùng của nhà Nam Minh trong lịch
**Đông Cốc Minh Quang** (zh. 東谷妙光, ja. _Tōkoku Myōkō_, ?-1253), còn được gọi là **Đông Cốc Diệu Quang**, là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc phái Hoằng Trí, Tông Tào Động. Sử liệu về
**Minh Hiến Tông** (chữ Hán: 明憲宗, 9 tháng 12, 1446 – 19 tháng 9, 1487), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị từ năm 1464
**Minh Tuyên Tông** (chữ Hán: 明宣宗, 25 tháng 2, 1398 – 31 tháng 1, 1435), là vị Hoàng đế thứ năm của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Minh Hiếu Tông** (chữ Hán: 明孝宗, 30 tháng 7, 1470 – 8 tháng 6, 1505), là vị Hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì 18
**Hiếu Dực Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝翼章皇后; 19 tháng 6, 1397 - 16 tháng 1, 1462), thông gọi **Tuyên Miếu Ngô Hiền phi** (宣廟吳賢妃), là phi tần của Minh Tuyên Tông Tuyên Đức Đế,
**Hiếu Kính Thái hoàng thái hậu Lý thị** (chữ Hán: 孝敬太皇太后李氏, ? - 1597), thường gọi là **Cung Thuận Hoàng quý phi Lý thị** (恭顺皇贵妃李氏) hay **Lý Quý phi** (李李氏) là một phi tần của
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Cao Ly Quang Tông** (Hangul: 고려 광종, chữ Hán: 高麗 光宗; 925 – 4 tháng 7 năm 975, trị vì 949 – 975) là vị quốc vương thứ tư của Cao Ly. Ông là con
**Nguyễn Minh Quang** (sinh ngày 23/2/1960) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khoá 13 thuộc đoàn đại biểu thành phố Hà Nội. Khi trúng cử thì ông là bí thư Đảng ủy Đảng cộng
**Hoàng tộc nhà Minh** của người Hán xuất hiện khi nhà Minh được thành lập nên ở Trung Quốc năm 1368 do Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương thành lập và lực lượng khởi nghĩa
**Minh Thập Tam lăng** () là tập hợp các lăng mộ được xây dựng bởi các Hoàng đế triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Lăng mộ của vị Hoàng đế đầu tiên
**Nguyễn Minh Quang** (15 tháng 10 năm 1953 - 12 tháng 2 năm 2025), quê quán Hà Tĩnh là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
**Minh Thần Tông** (_chữ Hán_:明神宗) có thể là những vị hoàng đế nhà Minh sau: ## Danh sách *Minh Thần Tông Chu Doãn Văn: vị hoàng đế thứ 2 của nhà Minh, tuy nhiên miếu
**Minh Cung Tông** (_chữ Hán_:明恭宗) có thể là những nhân vật lịch sử sau: ## Danh sách *Minh Cung Tông Chu Thường Tuân: do nhà Nam Minh truy tôn *Minh Cung Tông Chu Mao Lý:
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Quảng Bình** là một tỉnh ven biển cũ nằm ở phía nam vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Đồng Hới. Nơi đây cũng là nơi
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Hồ Chí Minh** (chữ Nho: ; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh là **Nguyễn Sinh Cung** (chữ Nho: ), còn được gọi phổ biến tại Việt Nam
**Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh** là đơn vị sự nghiệp báo chí trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là đài truyền hình đầu tiên ở Việt
**Trùng Quang Đế** (chữ Hán: 重光帝 ? – 3 tháng 5 năm 1414) là vị hoàng đế thứ hai và là vị hoàng đế cuối cùng của nhà Hậu Trần, một triều đại được dựng
**Tuyên Quang** là một tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Việt Nam. ## Trước năm 1945 Tên gọi Tuyên Quang xuất hiện sớm nhất trong cổ thư ở nước ta là
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
Lịch sử hành chính tỉnh Quảng Ninh có thể được xem bắt đầu từ cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng năm 1831-1832. Theo đó, từ năm 1831, trấn Quảng Yên được đặt thành
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Tống Ninh Tông** (chữ Hán: 宋寧宗, 18 tháng 11, 1168 - 18 tháng 9, 1224), thụy hiệu đầy đủ là ** Pháp Thiên Bị Đạo Thuần Đức Mậu Công Nhân Văn Triết Vũ Thánh Duệ
**Lại Văn Quang** (chữ Hán: 赖文光, 1827 – 1868), dân tộc Khách Gia, tướng lãnh Thái Bình Thiên Quốc, từng tham gia khởi nghĩa Kim Điền vào buổi đầu của phong trào, được phong **Tuân
**Quân đội nhà Minh** là bộ máy quân sự Trung Hoa dưới triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Bộ máy quân sự được thiết lập từ lực lượng khởi nghĩa Hồng Cân Quân cuối
**Chiến dịch Hồ Chí Minh**, tên ban đầu là **Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định**, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn
**Lý Hóa Long** (chữ Hán: 李化龙, 1555 – 1624), tên tự là **Vu Điền**, người huyện Trường Viên, phủ Đại Danh, hành tỉnh Bắc Trực Lệ , là quan viên, tướng lãnh trung kỳ đời
**Quan chế nhà Minh** liệt kê chức vụ chính thức trong triều đại nhà Minh, không đầy đủ. ## Tước hiệu ### Ngoại thích * Công * Hầu * Bá * Quận công * Quận
**Tào Động tông** (zh. 曹洞宗 _cáo-dòng-zōng_, ja. _sōtō-shū_) là một trong năm Thiền phái của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương
**Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh**, còn được gọi là **Đại học UEH** () là đại học đa thành viên chuyên khối kinh tế hệ công lập, thuộc nhóm đại học trọng